1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa (luận văn thạc sỹ luật)

92 48 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng Trong Hợp Đồng Giao Kết Từ Xa
Tác giả Hồ Nguyễn Tường Vy
Người hướng dẫn PGS.TS. Trần Thăng Long
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 2,03 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Tổng quan về hợp đồng giao kết từ xa (14)
    • 1.1.1. Khái quát về “hợp đồng” trong pháp luật dân sự Việt Nam (14)
    • 1.1.2. Hợp đồng giao kết từ xa (16)
  • 1.2. Tổng quan về người tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa (28)
    • 1.2.1. Khái niệm người tiêu dùng và chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng . 23 1.2.2.Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa (28)
    • 1.2.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ (34)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG (38)
    • 2.1. Nhóm quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng liên quan đến việc giao kết hợp đồng (38)
      • 2.1.1. Quy định pháp luật về giao kết hợp đồng (38)
      • 2.1.2. Bất cập, vướng mắc và thực tiễn hiện nay về hợp đồng giao kết từ xa (44)
      • 2.1.3. Giải pháp, kiến nghị để khắc phục bất cập, vướng mắc (49)
    • 2.2. Nhóm quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình thực hiện hợp đồng (52)
      • 2.2.1. Quy định pháp luật trong quá trình thực hiện hợp đồng giao kết từ xa (52)
      • 2.2.2. Thực tiễn áp dụng và bất cập trong quá trình thực hiện hợp đồng (59)
      • 2.2.3. Giải pháp, kiến nghị (63)
    • 2.3. Nhóm quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng liên quan đến các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng giao kết từ xa (67)
      • 2.3.1. Quy định pháp luật liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp phát sinh (67)
      • 2.3.2. Thực tiễn áp dụng và những bất cập, vướng mắc, cơ chế thực thi (73)
      • 2.3.3. Giải pháp, kiến nghị (77)
  • KẾT LUẬN (37)

Nội dung

Tổng quan về hợp đồng giao kết từ xa

Khái quát về “hợp đồng” trong pháp luật dân sự Việt Nam

Trong quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam, khái niệm "hợp đồng" đã trải qua nhiều thay đổi và được hoàn thiện theo thời gian Sự thay đổi đáng kể nhất thể hiện qua ngôn ngữ của khái niệm này trong các bộ luật dân sự qua các thời kỳ, từ "hợp đồng dân sự" đến "hợp đồng" Các nhà làm luật đã chú trọng vào khía cạnh chủ quan của sự thỏa thuận ý chí hơn là kết quả khách quan của thỏa thuận đó Điều này cho thấy rằng việc các bên có ý chí tạo ra hệ quả pháp lý ràng buộc hay không quan trọng hơn việc hệ quả pháp lý đó xuất phát từ thỏa thuận hay từ quy chế pháp lý đã được quy định bởi pháp luật.

Hợp đồng là một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật dân sự, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ việc trao đổi và dịch chuyển lợi ích vật chất, dựa trên sự cam kết giữa các bên.

Hợp đồng được hiểu là sự kết hợp giữa các bên có địa vị pháp lý bình đẳng, thể hiện sự thỏa thuận tự do và tự nguyện Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia Dưới góc độ pháp lý, hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Trước khi Bộ luật Dân sự 2005 sử dụng khái niệm “hợp đồng”, Bộ luật Dân sự

Năm 1995, khái niệm “hợp đồng dân sự” được sử dụng với ý nghĩa tương tự, và sự thay đổi tên gọi trong Bộ luật Dân sự 2015 phản ánh rằng đây sẽ là văn bản thiết lập nguyên tắc chung về hợp đồng Các quy định trong Luật Thương mại 2005 và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 sẽ điều chỉnh các hợp đồng chuyên biệt cho từng lĩnh vực Sự sửa đổi này nhằm loại bỏ những hiểu lầm không chính xác về phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, khẳng định rằng chế định hợp đồng là nền tảng cho mọi quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực tư.

Từ định nghĩa trên, có 3 thành tố tạo nên bản chất của hợp đồng cần phải lưu ý là:

Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện và sự gặp gỡ ý chí của các bên, thể hiện sự đồng thuận và thống nhất ý chí khi tham gia vào quan hệ hợp đồng Đây là yếu tố quan trọng quyết định tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng.

Hợp đồng là một thỏa thuận nhằm tạo ra ràng buộc pháp lý giữa các bên Để được coi là hợp đồng, thỏa thuận này phải phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên liên quan Chỉ khi sự thỏa thuận tạo ra hệ quả pháp lý rõ ràng, nó mới đủ điều kiện trở thành một hợp đồng hợp pháp.

Trường Đại học Luật TP HCM (2015) đã xuất bản giáo trình "Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", do PGS TS Đỗ Văn Đại làm chủ biên, cung cấp kiến thức sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại Tài liệu này là nguồn tham khảo quý giá cho sinh viên và những ai quan tâm đến lĩnh vực pháp luật.

10 Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015

Bài viết của Đoàn Thị Phương Diệp (2019) trong Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11 (387)/ Kỳ 1, tháng 6/2019, trang 56, phân tích pháp luật hợp đồng Việt Nam từ góc độ so sánh với luật của Cộng hòa Pháp Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật, góp phần nâng cao hiểu biết về quy định hợp đồng trong bối cảnh pháp lý hiện đại.

12 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr 367

13 Lê Minh Hùng (2009), “Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1(50)/2009, tr.14

Trường hợp A là đơn vị vận chuyển hàng hóa từ nước ngoài về Cảng Sài Gòn và thuê B để tiếp tục vận chuyển hàng hóa đến kho bãi tại Quận 2, TP HCM, dẫn đến việc phát sinh quyền và trách nhiệm giữa A và B cũng như đối với hàng hóa Sự thỏa thuận thuê giữa A và B tạo ra ràng buộc pháp lý cho cả hai bên Trong một tình huống khác, nếu A và B đều là đối tác của bên thứ ba, họ sẽ thỏa thuận với nhau để thực hiện một phần của quá trình vận chuyển và chịu trách nhiệm trước bên thứ ba đó.

Thỏa thuận tạo lập hợp đồng chỉ có hiệu lực khi tuân thủ các điều kiện luật định, bao gồm sự đồng thuận của các bên trong khuôn khổ pháp luật, nội dung và mục đích hợp pháp, hình thức hợp đồng đúng quy định, sự tự nguyện và năng lực chủ thể Nếu hai bên có thỏa thuận nhưng không tuân thủ đúng các điều kiện về mặt hình thức, thỏa thuận đó sẽ không có hiệu lực pháp lý.

Hợp đồng giao kết từ xa

1.1.2.1 Khái niệm hợp đồng giao kết từ xa

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, hầu hết các hoạt động của con người hiện nay đều có thể thực hiện qua thiết bị điện tử Chỉ cần một cú “click” chuột hoặc một cuộc gọi, việc mua sắm đồ dùng gia đình, quần áo hay đi chợ đều có thể dễ dàng thực hiện qua điện thoại hoặc internet Những thao tác từ xa này đã hình thành nên một loại hợp đồng đơn giản, được gọi là “hợp đồng giao kết từ xa”.

Hợp đồng giao kết theo hình thức điện tử (HĐGKTX) là một khái niệm mới trong lĩnh vực hợp đồng tại Việt Nam Định nghĩa HĐGKTX lần đầu tiên được quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 99/2011/NĐ-CP, đánh dấu sự phát triển của pháp luật về hợp đồng trong bối cảnh công nghệ thông tin ngày càng phát triển.

HĐGKTX là hợp đồng giữa người tiêu dùng (NTD) và tổ chức hoặc cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại Khi có bên thứ ba tham gia vào giao dịch hàng hóa, A và B không phát sinh ràng buộc pháp lý, do đó thỏa thuận giữa họ không được coi là hợp đồng.

15 Trần Kiên, Nguyễn Khắc Thu, tlđd (8), tr 48

16 Trường Đại học Luật TP HCM, tlđd (9), tr.124

17 Điều 117, 118, 398 Bộ Luật Dân sự 2015

18 Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015

19 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015

A mua mảnh đất từ B và hai bên đã lập một giấy thỏa thuận mua bán Tuy nhiên, văn bản này không được công chứng hoặc chứng thực theo quy định pháp luật, dẫn đến việc thỏa thuận không hợp lệ Kết quả là, thỏa thuận này vô hiệu và không tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa hai bên.

Khái niệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NTD) trong hợp đồng giao kết từ xa (HĐGKTX) đã được nhiều quốc gia áp dụng Dự thảo Luật bảo vệ quyền lợi NTD sắp sửa đổi đã chính thức đề cập đến khái niệm này Tuy nhiên, phạm vi quyền lợi của NTD trong HĐGKTX giữa các quốc gia không đồng nhất, điều này có thể ảnh hưởng đến các giao dịch xuyên biên giới.

Theo Chỉ thị 2011/83/EU của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng năm 2011, hợp đồng giao dịch từ xa (HĐGKTX) được định nghĩa là bất kỳ loại hợp đồng nào giữa người bán và người tiêu dùng (NTD) mà không có sự hiện diện thực tế của cả hai bên, sử dụng một hoặc nhiều phương tiện liên lạc từ xa Khái niệm này được công nhận trong tất cả các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu, với các quy định chi tiết hơn nhưng vẫn giữ nguyên bản chất thống nhất theo Chỉ thị 2011/83/EU.

Quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Latvia quy định rõ về "hợp đồng giao kết từ xa", định nghĩa là thỏa thuận giữa người tiêu dùng và người bán hoặc nhà cung cấp dịch vụ mà không cần sự hiện diện cùng lúc tại một địa điểm Hợp đồng này được thực hiện qua nhiều phương tiện liên lạc như điện thoại, trang thông tin điện tử, email, truyền hình, fax, danh mục quảng cáo, và các phương tiện từ xa khác.

21 Article 2(7) of Directive 2011/83/EU of the European Parliament and of the Council of 25 October 2011:

A "distance contract" refers to an agreement made between a trader and a consumer through an organized distance sales or service provision system, where both parties are not physically present at the same time This type of contract relies solely on various forms of distance communication until the moment the contract is finalized.

22 Section 10 (1) Consumer Rights Protection of Latvia 2014:

A distance contract is an agreement made between a consumer and a trader or service provider without their physical presence in the same location, utilizing various means of distance communication such as phone, email, web, television, fax, and advertisements with order coupons This type of contract is part of an organized sales or service provision scheme, allowing transactions to be completed remotely.

Luật bảo vệ quyền lợi NTD của Trung Quốc 2013 không đề cập đến khái niệm

Hợp đồng giao kết từ xa đề cập đến các quyền của người tiêu dùng khi mua sắm qua internet, truyền hình, điện thoại hoặc đặt hàng qua bưu điện Mặc dù pháp luật Trung Quốc chưa đưa ra khái niệm rõ ràng về hợp đồng này, nhưng nó vẫn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong các giao dịch từ xa.

“hợp đồng giao kết từ xa” nhưng đã thừa nhận hình thức giao kết từ xa trong tiêu dùng

Hợp đồng giao kết qua trung gian (HĐGKTX) là loại hợp đồng sử dụng phương tiện liên lạc trung gian, khác với các hợp đồng mà các bên giao dịch trực tiếp Định nghĩa HĐGKTX được xây dựng dựa trên hợp đồng giữa các chủ thể trong quan hệ thương mại, đồng thời phát triển thêm một số yếu tố đặc trưng Bản chất của HĐGKTX là sự thỏa thuận và thống nhất giữa các bên để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt mối quan hệ dân sự và thương mại nhất định Việc giao kết hợp đồng cần được thực hiện một cách cẩn trọng.

Phương thức thực hiện hợp đồng qua điện tử hoặc điện thoại đã tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa hợp đồng truyền thống và hợp đồng giao kết từ xa.

Hợp đồng gia cư ký túc xá (HĐGKTX) chủ yếu phục vụ cho hoạt động tiêu dùng và sinh hoạt của cá nhân, gia đình hoặc tổ chức, không nhằm mục đích sản xuất hay kinh doanh Do đó, phần lớn HĐGKTX không có giá trị lớn và chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày.

Theo khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005, "phương tiện điện tử" được định nghĩa là các công cụ hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự Trong ngữ cảnh này, điện thoại cũng được coi là một phương tiện điện tử, được mô tả là thiết bị sử dụng hệ thống dây dẫn tín hiệu điện hoặc hệ thống tín hiệu vô tuyến.

Under the 2013 Law on Protection of the Rights and Interests of Consumers in the People's Republic of China, consumers are entitled to return goods purchased through various means, including the Internet, television, telephone, or mail order, within seven days of receipt without needing to provide a reason However, certain exceptions apply to specific types of goods.

Tổng quan về người tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa

Khái niệm người tiêu dùng và chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 23 1.2.2.Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa

1.2.1.1 Khái niệm người tiêu dùng

Tiêu dùng là hoạt động thường xuyên của con người trong đời sống xã hội Theo

Theo từ điển tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ, “tiêu dùng” được định nghĩa là việc sử dụng của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và đời sống Khái niệm này cho thấy tiêu dùng diễn ra trong hai lĩnh vực chính: sản xuất và đời sống Trong quá trình sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động và nguyên vật liệu để tạo ra sản phẩm, trong khi trong đời sống, họ cần các tư liệu sinh hoạt để duy trì sự tồn tại Do đó, hoạt động tiêu dùng là thiết yếu để đáp ứng những nhu cầu này Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu khái niệm “người tiêu dùng” có thể áp dụng cho tất cả các hoạt động tiêu dùng của con người hay không?

49 Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông, Hà Nội, tr 912

Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng năm 2016 không đề cập trực tiếp đến khái niệm "người tiêu dùng" (NTD), mà chỉ đưa ra các hướng dẫn về quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ tiêu dùng Từ góc độ pháp lý, khái niệm "NTD" được hiểu khác nhau ở nhiều quốc gia và có thể chia thành hai trường phái.

“NTD” chỉ là cá nhân (thể nhân) và (2) “NTD” bao gồm cả cá nhân và tổ chức

Một số ít quốc gia định nghĩa “NTD” chỉ bao gồm cá nhân, thường sử dụng cụm từ “a natural person” để giới hạn chủ thể trong khái niệm này.

“NTD” Theo đánh giá của tác giả, những quốc gia, khu vực có Luật bảo vệ quyền lợi NTD từ lâu đời sẽ theo trường phái này

Chỉ thị 2011/83/EU của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng năm 2011 xác định "người tiêu dùng" (NTD) là cá nhân tham gia vào hợp đồng theo quy định của chỉ thị này, với mục đích không liên quan đến thương mại, kinh doanh, thủ công hoặc nghề nghiệp của họ.

Luật bảo vệ người tiêu dùng Philippines năm 1992 định nghĩa "người tiêu dùng" (NTD) là cá nhân mua, thuê, nhận hoặc có khả năng mua, cho thuê hoặc nhận sản phẩm, dịch vụ hoặc tín dụng tiêu dùng Tương tự, Luật bảo vệ người tiêu dùng Quebec - Canada cũng chỉ công nhận cá nhân là một trong hai chủ thể chính của khái niệm "người tiêu dùng".

Các quốc gia chủ yếu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cá nhân, trong khi pháp nhân hoặc tổ chức thường có vị thế và điều kiện thuận lợi hơn trong mối quan hệ với bên bán hoặc bên cung cấp Do đó, Nhà nước ít can thiệp vào các giao dịch tiêu dùng của họ Tuy nhiên, quan niệm này có thể gây bất lợi cho tổ chức trong các hoạt động tiêu dùng, vì không phải lúc nào các giao dịch của họ cũng diễn ra suôn sẻ.

50 The United Nations Guidelines for Consumer Protection 2016 in United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD)

51 Article 2(1) Directive 2011/83/EU of the European Parliament and of the Council of 25 October 2011:

„consumer‟ means any natural person who, in contracts covered by this Directive, is acting for purposes which are outside his trade, business, craft or profession

52 Article 4(n) of The Consumer Act of Philippines 1992: "consumer" means a natural person who is a purchaser, lessee, recipient or prospective purchase, lease or recipient of consumer products, services or credit

According to Article 1(e) of the Consumer Protection Act of Quebec, Canada, a "consumer" is defined as an individual, excluding merchants who acquire goods or services for business purposes This distinction highlights that consumers, unlike merchants, often lack the resources to effectively address violations by sellers or producers in their everyday purchasing activities.

Đa số các quốc gia định nghĩa "người tiêu dùng" (NTD) bao gồm cả cá nhân và tổ chức Trong pháp luật của các nước này, thuật ngữ "a person", "individual" hoặc "any person" (như tại Đài Loan) thường được sử dụng để ngầm thừa nhận rằng NTD không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm cả tổ chức, miễn là họ tham gia vào quan hệ tiêu dùng cho mục đích sinh hoạt hàng ngày.

Khái niệm "Người tiêu dùng" (NTD) trong pháp luật các quốc gia Đông Nam Á, ngoại trừ Philippines, có sự tương đồng rõ rệt Chẳng hạn, Luật bảo vệ NTD Myanmar 2019 định nghĩa NTD là người mua, sử dụng, hoặc nhận hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích thương mại, mà chỉ phục vụ cho tiêu dùng cá nhân hoặc cho người khác Bên cạnh đó, các quốc gia như Lào, Singapore, Indonesia và Brunei cũng sử dụng thuật ngữ tương tự để chỉ NTD.

“individual” để giới hạn phạm vi chủ thể của NTD

Theo Luật bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan năm 2015, "người tiêu dùng" được định nghĩa là bất kỳ cá nhân nào tham gia vào hoạt động thương mại với mục đích tiêu dùng, nhằm tạo ra các giao dịch mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ.

Việc công nhận "Người tiêu dùng" (NTD) bao gồm cả cá nhân và tổ chức giúp khắc phục những bất lợi mà tổ chức gặp phải trong quan hệ tiêu dùng Nếu quyền lợi của NTD là tổ chức bị xâm phạm mà không có cơ chế bảo vệ, điều này sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng trong tiêu dùng Quy định này mở rộng khái niệm NTD, cho phép áp dụng linh hoạt tùy theo tình huống cụ thể, từ đó bảo đảm quyền lợi cho cả cá nhân và tổ chức.

54 Cục Quản lý Cạnh tranh – Bộ Công thương, Báo cáo nghiên cứu chuyên đề “So sánh Luật bảo vệ quyền lợi

Nghiên cứu về quyền lợi người tiêu dùng (NTD) tại một số quốc gia cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm quý báu Những kinh nghiệm này có thể áp dụng để xây dựng các quy định trong dự thảo Luật bảo vệ quyền lợi NTD tại Việt Nam Việc bảo đảm quyền lợi NTD không chỉ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường.

According to Article 2(b) of the Consumer Protection Law of Myanmar 2019, a "consumer" is defined as an individual who acquires, utilizes, rents, or receives goods or services for personal use rather than for commercial purposes or trade This definition also extends to individuals acting on behalf of another person.

According to Article 2(1) of the Consumer Protection Act of Taiwan 2015, a "consumer" is defined as any individual engaging in commercial practices for the purpose of consumption, specifically when making transactions involving the exchange of goods or services.

Các nhà lập pháp Việt Nam theo trường phái thứ hai, công nhận "Người tiêu dùng" (NTD) bao gồm cả cá nhân và tổ chức Quan điểm này đã được thể hiện từ Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999 và tiếp tục được duy trì trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD hiện hành.

“NTD là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”

Từ định nghĩa trên, các yếu tố cấu thành khái niệm NTD bao gồm:

Thứ nhất, đối tượng là cá nhân, gia đình, tổ chức

Thứ hai, hành vi mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ

Thứ ba, mục đích của hành vi là tiêu dùng, sinh hoạt

Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ

Trong bối cảnh công nghiệp số và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc sử dụng điện thoại và phương tiện điện tử trong hoạt động thương mại ngày càng trở nên phổ biến và thiết yếu Sự phát triển này không chỉ ảnh hưởng đến toàn cầu hóa mà còn tạo ra nhiều mô hình kinh doanh mới, đặc biệt là thương mại điện tử Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động thương mại này diễn ra đúng đắn và không xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng (NTD), việc bảo vệ quyền lợi của họ trong các hợp đồng giao dịch qua điện tử (HĐGKTX) trở thành một vấn đề cấp thiết.

61 Khoản 3, khoản 4 Điều 17 NĐ 99/2011/NĐ-CP

Người tiêu dùng (NTD) thường là bên yếu thế trong mối quan hệ tiêu dùng, dễ bị xâm phạm quyền lợi Theo định nghĩa của tổ chức Consumer Affairs Victoria (Australia), "NTD yếu thế" là những cá nhân có nguy cơ cao bị thiệt hại trong quá trình tiêu dùng, do đặc điểm thị trường hoặc tình huống cá nhân Tính yếu thế của NTD được thể hiện qua hai khía cạnh: khả năng được bảo vệ trước rủi ro và thiệt hại, cùng với khả năng đối phó với những hậu quả tiêu cực khi rủi ro xảy ra.

Nhận thức của người tiêu dùng (NTD) về Luật bảo vệ quyền lợi NTD vẫn còn mờ nhạt, với chỉ khoảng 15% NTD đã đọc qua luật này Phần lớn NTD chưa nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình để tự bảo vệ Ngoài ra, một số quy định trong luật chưa rõ ràng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh thương mại điện tử hiện nay Thực trạng này làm nổi bật sự yếu thế của NTD, đặc biệt khi họ tham gia vào các giao dịch qua hợp đồng kinh tế.

Hợp đồng ký kết qua điện tử hoặc điện thoại khiến người tiêu dùng (NTD) không thể tiếp cận thông tin về người bán và sản phẩm/dịch vụ một cách trực tiếp Điều này dẫn đến bất cân xứng thông tin, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, và hàng hóa có thể bị khuyết tật NTD cũng gặp khó khăn với chế độ chăm sóc khách hàng kém, phương thức thanh toán nhiều rủi ro, cùng với các vấn đề như giao hàng chậm, mất hàng, hoặc hư hỏng hàng hóa.

62 Consumer Affairs Victoria, What do we mean by „vulnerable‟ and „disadvantaged‟ consumers, Discussion paper, 2004:

A vulnerable consumer is someone who is at risk of experiencing harm during the consumption process due to various factors This vulnerability can stem from market characteristics, the specific qualities of a product, the nature of the transaction, or personal attributes and circumstances that hinder effective decision-making and the ability to seek redress Understanding these elements is crucial for protecting consumers from potential detriment.

63 Nguyễn Trọng Điệp, Nguyễn Tiến Đạt (2019), “Bảo vệ quyền lợi NTD yếu thế trong pháp luật Việt Nam và Đài Loan”, Tạp chí Luật học, kỳ 25(Số 2), tr 25

Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong môi trường thương mại điện tử là một vấn đề quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ số Người tiêu dùng cần được trang bị kiến thức và công cụ để nhận diện và bảo vệ quyền lợi của mình trước những rủi ro có thể xảy ra Các cơ quan chức năng cũng cần tăng cường quản lý và giám sát các hoạt động thương mại điện tử nhằm đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong giao dịch Việc xây dựng một khung pháp lý rõ ràng sẽ góp phần nâng cao niềm tin của người tiêu dùng vào thị trường trực tuyến.

Người tiêu dùng (NTD) hiện nay chưa nắm rõ tất cả các điều khoản trong hợp đồng, điều này cho thấy việc bảo vệ quyền lợi của họ là vô cùng cần thiết và không còn là một lựa chọn mà phải được thực hiện một cách nghiêm túc.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao dịch thương mại điện tử không chỉ đảm bảo an toàn cho thị trường mà còn tạo dựng tâm lý an tâm cho người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy hoạt động thương mại từ xa Khi cơ chế pháp luật đủ mạnh để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, họ sẽ tin tưởng hơn vào một thị trường thương mại an toàn và ngày càng ưa chuộng hình thức thương mại qua các phương tiện hiện đại.

Hợp đồng giao kết từ xa (HĐGKTX) hiện đang gặp nhiều vướng mắc và bất cập trong quy định pháp luật, chưa phù hợp với thực tiễn và các phương thức giao dịch hiện đại Công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NTD) chủ yếu tập trung vào các giao dịch truyền thống, trong khi nhiều hành vi xâm phạm quyền lợi NTD mới chưa được quy định rõ ràng Do đó, việc nâng cao bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX là cần thiết, tạo động lực cho nhà làm luật xây dựng cơ chế và chính sách bảo vệ NTD hiệu quả hơn Điều này không chỉ tạo ra khung pháp lý vững chắc mà còn giúp NTD tin tưởng hơn vào pháp luật, từ đó giảm bớt tâm lý ngại kiện tụng Mục tiêu cốt lõi là tăng cường bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX, khuyến khích họ thực hiện giao kết từ xa một cách tự tin hơn.

65 “Đề xuất sửa đổi Luật bảo vệ quyền lợi NTD”, http://baochinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionidA5827 , truy cập ngày 25/08/2021

Chương I của bài viết tập trung vào việc khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng giao kết trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Tác giả đã phân tích và làm rõ những khía cạnh quan trọng, từ tổng quan đến chi tiết, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về chủ đề này.

Thứ nhất, HĐGKTX là loại hợp đồng đặc thù trong pháp luật bảo vệ quyền lợi

Trong khuôn khổ các quy định hiện hành, khái niệm hợp đồng giao kết từ xa (HĐGKTX) chưa được làm rõ Thời điểm Nghị định 99/2011/NĐ-CP được ban hành, giao dịch từ xa ở Việt Nam còn hạn chế, dẫn đến việc chưa có sự dự liệu phù hợp, và pháp luật dân sự cùng thương mại vẫn được sử dụng làm nền tảng.

HĐGKTX đã giải quyết hiệu quả các vấn đề liên quan đến thỏa thuận giữa các bên trong giao dịch không gặp mặt trực tiếp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (NTD) trong những trường hợp này Trong hợp đồng này, NTD được xem là bên yếu thế, trong khi bên còn lại là cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh Mặc dù HĐGKTX chưa thể hiện rõ vai trò trên thị trường hiện tại, nhưng nó sẽ là nền tảng cho sự phát triển của các giao dịch từ xa trong tương lai.

Thứ ba, HĐGKTX có sự tham gia của nhiều chủ thể hơn hợp đồng truyền thống

Khi hợp đồng giao kết thương mại điện tử (HĐGKTX) được thiết lập, có ít nhất ba chủ thể tham gia, bao gồm (1) cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh, (2) người tiêu dùng (NTD), và (3) bên thứ ba trung gian, có thể là đơn vị vận chuyển, website thương mại trực tuyến, ngân hàng trung gian hoặc dịch vụ kho bãi.

Thứ tư, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh khung pháp lý của

HĐGKTX là yếu tố quan trọng, với sự tồn tại và cập nhật liên tục của các quy định pháp luật, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện hiệu quả các điều khoản bắt buộc.

Kết quả chương I cung cấp cơ sở lý luận thiết yếu cho tác giả trong việc phân tích và làm rõ các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng giao kết trong lĩnh vực kinh tế.

THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Ngày đăng: 01/04/2022, 21:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
19. Bùi Thị Phương Loan (2017), Pháp luât bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luât bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX
Tác giả: Bùi Thị Phương Loan
Năm: 2017
20. Dương Quỳnh Hoa, “Giải quyết tranh chấp trực tuyến ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19 (419)/ Kỳ 1, tháng 10/2020, trang 44-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết tranh chấp trực tuyến ở Việt Nam”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
21. Đoàn Thị Phương Diệp, “Pháp luật hợp đồng Việt Nam nhìn ở góc độ so sánh với luật của Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11(387), tháng 6/2019, trang 56-64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật hợp đồng Việt Nam nhìn ở góc độ so sánh với luật của Cộng hòa Pháp”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
22. Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2016
23. Lê Minh Hùng (2009), “Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1(50)/2019, trang 12-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Lê Minh Hùng
Năm: 2009
24. Lê Hương Giang (2013), “Pháp luật của Liên minh Châu Âu về HĐGKTX trong thương mại và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 02/2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật của Liên minh Châu Âu về HĐGKTX trong thương mại và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Lê Hương Giang
Năm: 2013
25. Ngô Vĩnh Bạch Dương (2019), “Bảo vệ thông tin người tiêu dùng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12, trang 19-28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ thông tin người tiêu dùng”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Ngô Vĩnh Bạch Dương
Năm: 2019
26. Nguyễn Bình Minh, Hà Công Anh Bảo (2016), “Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng - Pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 86 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng - Pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới”, "Tạp chí Kinh tế đối ngoại
Tác giả: Nguyễn Bình Minh, Hà Công Anh Bảo
Năm: 2016
27. Nguyễn Duy Thanh (2021), “Giải quyết tranh chấp TMĐT bằng phương thức trực tuyến”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 47/2021, tr. 107-116 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết tranh chấp TMĐT bằng phương thức trực tuyến”, "Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn
Tác giả: Nguyễn Duy Thanh
Năm: 2021
28. Nguyễn Thị Thu Hằng (2019), “Bàn về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân của NTD trong TMĐT”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 02 (123)/2019, tr. 18-25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân của NTD trong TMĐT”, "Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hằng
Năm: 2019
18. Quyết định số 42/QĐ-CA của Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/03/2021 về việc công bố án lệ (Án lệ số 42/2021/AL).B. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w