1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự việt nam (2)

88 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Lấy Lời Khai Người Làm Chứng Trong Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Bùi Hữu Danh
Người hướng dẫn PGS, TS Phạm Quang Phúc
Trường học Trường Đại Học Luật TP Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 919,81 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ (10)
    • 1.1. Khái niệm về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự (10)
      • 1.1.1. Định nghĩa người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm chứng (10)
      • 1.1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động lấy lời khai người làm chứng (16)
      • 1.1.3. Nhiệm vụ của hoạt động lấy lời khai người làm chứng (18)
      • 1.1.4. Đặc điểm tâm lý của hoạt động lấy lời khai của người làm chứng (19)
    • 1.2. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của qui định lấy lời khai người làm chứng từ 1945 đến trước 2003 (22)
    • 1.3. Lấy lời khai người làm chứng trong pháp luật một số nước (26)
  • CHƯƠNG 2. QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG (29)
    • 2.1. Qui định của pháp luật thực định về triệu tập hoặc dẫn giải người làm chứng và thực tiễn áp dụng (0)
      • 2.1.1. Về triệu tập người làm chứng (29)
      • 2.1.2. Về dẫn giải người làm chứng (32)
      • 2.1.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật thực định về triệu tập hoặc dẫn giải người làm chứng từ năm 2007 đến nay (35)
    • 2.2. Qui định pháp luật thực đình về trình tự lấy lời khai người làm chứng và thực tiễn áp dụng (0)
      • 2.2.1. Qui định pháp luật thực định về trình tự lấy lời khai người làm chứng (0)
      • 2.2.2. Thực tiễn áp dụng qui định pháp luật thực định về trình tự lấy lời khai người làm chứng (46)
    • 2.4. Nội dung lấy lời khai người làm chứng (50)
    • 2.5. Lấy lời khai người làm chứng là người dưới 16 tuổi (53)
  • CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM (56)
    • 3.1. Nhu cầu về việc nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam (56)
      • 3.1.1. Xuất phát từ nhu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm (56)
      • 3.1.2. Từ những thiếu sót, hạn chế trong qui định của pháp luật (57)
      • 3.1.3. Từ những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng qui định của pháp luật về lấy lời khai người làm chứng (63)
    • 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong thời gian tới (64)
      • 3.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về lấy lời khai người làm chứng (64)
      • 3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai người làm chứng (71)
  • KẾT LUẬN (28)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Khái niệm về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự

1.1.1 Định nghĩa người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm chứng

Trong tiếng Anh, thuật ngữ "eye-witness" được dùng để chỉ những người chứng kiến sự việc, hiện tượng và có khả năng mô tả lại cho người khác Theo từ điển tiếng Việt, "người làm chứng" cũng mang ý nghĩa tương tự, nhấn mạnh vai trò quan trọng của họ trong việc cung cấp thông tin về các sự kiện đã xảy ra.

“Nhân chứng” là người chứng kiến sự việc qua mắt thấy, tai nghe hoặc từ các nguồn tin khác, và có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến vụ án Họ được cơ quan điều tra lấy lời khai và triệu tập đến tòa án để làm chứng Nghĩa vụ làm chứng là một trách nhiệm công dân, yêu cầu nhân chứng phải có mặt khi được triệu tập và khai báo đúng sự thật Nếu nhân chứng gian dối trong khai báo hoặc trốn tránh nghĩa vụ mà không có lý do chính đáng, họ có thể bị xử lý theo pháp luật.

Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Hà Nội thì:

Người làm chứng là cá nhân sở hữu thông tin và tình tiết liên quan đến vụ án, được các cơ quan tố tụng như cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án triệu tập để cung cấp lời khai Vai trò của người làm chứng là rất quan trọng trong quá trình điều tra, nhằm làm rõ các sự việc cần xác minh và hỗ trợ cho việc xử lý vụ án theo quy định của pháp luật.

Theo các nhà khoa học tại Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, người làm chứng là cá nhân nắm giữ thông tin liên quan đến vụ án và được cơ quan có thẩm quyền triệu tập tham gia vào quá trình tố tụng.

1 Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB CAND, tr 145

Người làm chứng là cá nhân nắm giữ thông tin và tình tiết liên quan đến vụ án, được triệu tập bởi các cơ quan có thẩm quyền để tham gia vào các hoạt động tố tụng Họ có thể tham gia vào quá trình điều tra như lấy lời khai, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng, hoặc tham gia vào quá trình xét xử tại tòa án.

Thuật ngữ "người làm chứng" có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng để được công nhận là người làm chứng trong vụ án hình sự, một cá nhân cần đáp ứng các điều kiện nhất định.

Thứ nhất, Họ là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án đang điều tra

Theo Điều 63 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, những tình tiết mà người làm chứng biết có thể liên quan đến đối tượng chứng minh hoặc các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án Việc họ nắm rõ các tình tiết của vụ án là một thực tế khách quan, do đó, họ có thể được triệu tập để khai báo với tư cách là người làm chứng Sự hiểu biết này có thể bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến vụ án.

Biết trực tiếp là việc tri giác và phát hiện các tình tiết liên quan đến vụ án thông qua các cơ quan cảm giác như mắt và tai, mà không qua trung gian Chính vì vậy, lời khai của những người chứng kiến trực tiếp thường có độ chính xác cao.

Biết gián tiếp là khi người chứng nhận thông tin về vụ án qua trung gian như nghe kể hoặc đọc tài liệu, dẫn đến lời khai thường thiếu chính xác và đầy đủ Mặc dù vậy, lời khai này vẫn có thể giúp xác định người làm chứng biết trực tiếp và củng cố tài liệu, chứng cứ của vụ án, tạo cơ sở cho các hoạt động điều tra tiếp theo.

Vào thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ triệu tập để lấy lời khai, thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục và thẩm quyền quy định trong pháp luật tố tụng hình sự.

Người làm chứng là những cá nhân được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để cung cấp lời khai về các tình tiết liên quan đến vụ án đang được điều tra Không phải tất cả những người biết thông tin về vụ án đều là người làm chứng; chỉ những người được triệu tập mới có vai trò này Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường chọn những người có kiến thức sâu sắc, chính xác và đầy đủ về vụ án để lấy lời khai Người làm chứng có thể là công dân Việt Nam đủ tuổi, người chưa thành niên, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, hoặc thậm chí là bị can, bị cáo trong các vụ án khác.

Người làm chứng trong vụ án hình sự phải có khả năng khai báo một cách chính xác, khách quan và trung thực tất cả những thông tin mà họ nắm rõ về vụ việc.

Người làm chứng là những cá nhân nắm giữ thông tin và tình tiết liên quan đến vụ án hình sự, nhưng không có quyền lợi pháp lý trong vụ việc Lời khai của họ thường trung thực và khách quan, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật của vụ án Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cần lựa chọn và triệu tập những người có khả năng mô tả chính xác và khách quan nhất những hiểu biết của họ về các tình tiết của vụ án.

Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, nhằm đảm bảo tính khách quan và trung thực của lời khai từ người làm chứng, một số đối tượng sẽ không được triệu tập để lấy lời khai, bao gồm:

Người bào chữa cho bị can, bị cáo có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp hoặc bào chữa viên nhân dân Theo quy định của pháp luật, họ chỉ được đưa ra những chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo và không thể làm chứng trong vụ án, vì nghĩa vụ của người làm chứng là khai báo trung thực, điều này mâu thuẫn với vai trò bào chữa Do đó, người bào chữa không được tham gia với hai tư cách trong cùng một vụ án, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo và đảm bảo tính khách quan, công minh của pháp luật.

Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của qui định lấy lời khai người làm chứng từ 1945 đến trước 2003

Lời khai của người làm chứng và thủ tục tuyên thệ để cam đoan sự thật trước tòa có nguồn gốc từ rất lâu đời Trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự, quy định về người làm chứng là một trong những chế định cổ xưa nhất.

Trong lịch sử phát triển của khoa học tố tụng hình sự, chế định người làm chứng đã trải qua nhiều thay đổi và hiện nay, người làm chứng đóng vai trò quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam.

Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức là bộ luật đầu tiên quy định về người làm chứng, nêu rõ trách nhiệm của họ và các trường hợp không được phép làm chứng, nhằm tránh oan sai trong quá trình điều tra Cụ thể, Điều 714 quy định rằng những người có quan hệ thân tình hoặc thù oán với các bên liên quan không được làm chứng, và nếu cố tình giấu diếm thì sẽ bị xử lý nghiêm Tuy nhiên, Bộ luật này chưa đưa ra quy định cụ thể về trình tự và thủ tục lấy lời khai của người làm chứng Đến thời kỳ Pháp thuộc, các quy định về người làm chứng được hoàn thiện hơn trong Bộ luật Tố tụng hình sự áp dụng tại Bắc Kỳ, với các điều từ 20 đến 30.

Bộ luật quy định rằng những người làm chứng đã được liệt kê trong đơn khống và những người mà quan thẩm phán có ý định chất vấn đều phải có mặt tại Tòa án để trả lời Theo Điều 22, nếu người làm chứng không có lý do chính đáng mà tự ý vắng mặt trước Tòa sơ cấp, Tòa án tỉnh, Tòa đệ tam cấp hoặc trước quan thẩm cứu, họ có thể bị buộc phải xuất hiện và sẽ bị phạt tiền từ 1 đến 5 đồng, cùng với án phạt giam từ 1 đến 5 ngày So với Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Tố tụng hình sự áp dụng tại Bắc Kỳ thời Pháp thuộc đã quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ của người làm chứng trong việc trình bày lời khai trước các tòa án và giám thẩm cứu.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, chưa có quy định cụ thể về trình tự và thủ tục lấy lời khai của người làm chứng; chỉ có nội dung liên quan đến các tình tiết của vụ án được đề cập.

Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có các văn bản hướng dẫn từ Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến người làm chứng và việc lấy lời khai Một trong những văn bản quan trọng là Công văn số 98-NCPL ngày 02/3/1974, gửi đến các Tòa án địa phương, nhằm hướng dẫn thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng Công văn này đã phân loại người làm chứng thành hai loại: nhân chứng trực tiếp.

5 Quốc triều Hình luật (1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 242

6 Các bộ luật An Nam (1922), NXB Đông Dương, Hà Nội, tr 461.

Trong bộ luật An Nam (1922), có sự phân biệt giữa hai loại nhân chứng: nhân chứng trực tiếp là người chứng kiến và nghe thấy hành vi phạm pháp xảy ra, trong khi nhân chứng gián tiếp là người không trực tiếp chứng kiến mà chỉ nghe thông tin từ người khác.

Công văn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác minh và đánh giá chứng cứ từ lời khai của nhân chứng, bao gồm cả nhân chứng trực tiếp và gián tiếp Việc xác thực tính chính xác của lời khai là cần thiết để đảm bảo tính đúng đắn của thông tin, nhằm phục vụ cho quá trình điều tra và đưa ra quyết định chính xác.

Người làm chứng, mặc dù có ý định khách quan, nhưng do hạn chế về trí nhớ hoặc thị lực, có thể không ghi lại chính xác diễn biến của sự việc.

- Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót

- Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết

- Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm hoặc bớt, thiếu chính xác

- Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ quan của mình

- Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật

- Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị đánh giá là người không trung thực

Lời khai của những nhân chứng trung thực, không có mối quan hệ thân thuộc hay lợi ích với các bên liên quan trong vụ án thường có độ chính xác cao Tuy nhiên, không thể khẳng định chắc chắn rằng lời khai của nhân chứng nào là đáng tin cậy hơn, cho dù là nhân chứng trực tiếp, nếu chưa được xác minh.

Trong Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm tra và đánh giá chứng cứ dựa trên lời khai của người làm chứng.

1 Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp

2 Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, suy diễn

3 Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng

4 Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ sự việc như họ đã khai không?

5 Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại không? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án không? 8

8 Tòa án nhân dân tối cao (1974), Công văn số 98-NCPL ngày 01/3/1974, Hà Nội

Theo Công văn số 98/NCPL, việc lấy lời khai người làm chứng chủ yếu tập trung vào việc làm rõ nội dung và tình tiết liên quan đến vụ án Tuy nhiên, Công văn chưa quy định cụ thể về việc kiểm tra tính chính xác và khách quan trong lời khai của người làm chứng, mà chỉ nêu đây là công việc cần chú ý khi đánh giá chứng cứ Văn bản pháp luật đầu tiên về người làm chứng sau năm 1945 đã đưa ra những quy định chi tiết, nhưng vẫn còn thiếu sót trong trình tự và thủ tục lấy lời khai, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất ở các địa phương Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, quy định về việc lấy lời khai người làm chứng đã được hoàn thiện hơn, với Điều 110 nêu rõ quy trình này.

1- Có thể lấy lời khai người làm chứng tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại chỗ ở của người đó

2- Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc với nhau trong thời gian lấy lời khai

3- Trước khi lấy lời khai, điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ Việc này phải được ghi vào biên bản

4- Trước khi hỏi về nội dung vụ án, điều tra viên cần xác minh mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, người bị hại và những tình tiết khác về nhân thân người làm chứng Điều tra viên cần yêu cầu người làm chứng kể hoặc viết lại những gì mà họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi Không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý

Lấy lời khai người làm chứng trong pháp luật một số nước

Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng và phổ biến trong các vụ án hình sự, vì họ nắm rõ diễn biến, hoàn cảnh phạm tội, cũng như thông tin về thân nhân của người phạm tội và nạn nhân Trong nhiều trường hợp, lời khai này có thể quyết định việc làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án Do đó, pháp luật tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia đều quy định rõ ràng về vai trò của nguồn chứng cứ này.

Trong Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, Điều 187 quy định về địa điểm và thời gian hỏi cung người làm chứng, trong khi Điều 188 quy định thủ tục triệu tập người làm chứng Điều 189 nêu rõ các quy định chung khi tiến hành hỏi cung, trong đó yêu cầu dự thẩm viên thực hiện các yêu cầu theo khoản 4 Điều 164 Nếu dự thẩm viên nghi ngờ rằng người bị hỏi cung không thành thạo ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng, họ có trách nhiệm giải thích cho người đó.

Theo Điều 308 Bộ luật Tố tụng hình sự Nga, trong quá trình hỏi cung, người bị hỏi có quyền trình bày nguyện vọng bằng ngôn ngữ của mình Ngoài ra, việc đưa ra các câu hỏi có tính chất mớm cung là nghiêm cấm, và các dự thẩm viên được tự do lựa chọn chiến thuật hỏi cung phù hợp.

“Người làm chứng không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp từ chối trình bày lời khai chống lại bản thân mình”

Bộ luật Tố tụng hình sự Thái Lan quy định tại Điều 133 về quy trình hỏi cung người làm chứng và người bị hại, trong đó nhấn mạnh rằng điều tra viên có quyền yêu cầu người khai tuyên thệ về sự trung thực của lời khai Đồng thời, điều tra viên phải tuân thủ các quy định về chứng cứ và lời khai của bộ luật Quan trọng là không một điều tra viên nào được phép gợi ý, khuyến khích hay sử dụng nhục hình để ép buộc người khai báo theo ý muốn của họ.

Bộ luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc quy định tại Điều 156 và Điều 157 về lời thề của người làm chứng Theo Điều 156, nhân chứng bắt buộc phải thề trước khi bị thẩm vấn, trừ khi có quy định khác Điều 157 quy định mẫu lời thề, trong đó nhân chứng tuyên thệ rằng sẽ nói sự thật, toàn bộ sự thật và không gì khác ngoài sự thật mà họ biết, đồng thời cam kết sẽ chịu trách nhiệm nếu có sai sót trong lời nói của mình.

Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp quy định rõ ràng về nghĩa vụ của người làm chứng, yêu cầu họ phải tuyên thệ và khai báo theo Điều 437 và Điều 438 Nếu người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa hoặc từ chối tuyên thệ và khai báo, Viện Công tố có quyền yêu cầu Tòa tiểu hình xử phạt theo quy định tại Điều 109.

Pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản cho phép người làm chứng từ chối trả lời các câu hỏi liên quan đến việc buộc tội những người thân thích của họ, điều này khác biệt so với nhiều quốc gia khác Theo Điều 147 của Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản, quy định này bảo vệ quyền lợi của người làm chứng trong quá trình tố tụng.

Một người làm chứng có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà có thể nghiêng về hướng buộc tội những người sau đây:

10 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1995), Bộ luật Tố tụng hình sự Thái Lan, Hà Nội, tr 37

11 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1995), Bộ luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc, Hà Nội, tr 37

12 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1995), Bộ luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc, Hà Nội, tr 33

13 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1998), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 197

1 Vợ chồng, người thân ruột thịt trong phạm vi ba đời hoặc người bà con gần gũi trong phạm vi hai đời của người làm chứng hoặc người đã có mối quan hệ với người làm chứng

2 Người giám hộ, người giám sát của người giám hộ hoặc người phụ trách của người làm chứng

3 Người mà được người làm chứng giám hộ, phụ trách hoặc giám sát người giám hộ của người đó 14

Chương 1 luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về lấy lời khai người làm chứng, như: khái niệm người làm chứng; khái niệm lấy lời khai người làm chứng; những nhiệm vụ của hoạt động lấy lời khai người làm chứng; cơ sở tâm lý ảnh hưởng đến lấy lời khai người làm chứng; sự hình thành, phát triển của chế định lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu về lấy lời khai người làm chứng trong pháp luật một số nước trên thế giới, như Nga, Hàn Quốc, Nhật Bàn… nhằm làm rõ hơn vai trò, vị trí, ý nghĩa của hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự nước ta cũng như các nước khác trên thế giới Kết quả nghiên cứu chương 1 là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu về pháp luật thực định và thực tiễn lấy lời khai người làm chứng trong chương 2 và đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trong chương 3 của luận văn

14 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1993), Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản, Hà Nội, tr 26.

QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Nội dung lấy lời khai người làm chứng

Quá trình lấy lời khai người làm chứng là yếu tố then chốt quyết định mục đích và hiệu quả của việc thu thập thông tin trong vụ án hình sự Nội dung lấy lời khai được quy định rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cụ thể tại Điều 63 về các vấn đề cần chứng minh, Điều 67 liên quan đến lời khai của người làm chứng, và các khoản 4, 5 của Điều 135 về quy trình lấy lời khai Nghiên cứu và phân tích các quy định này cho thấy rằng việc lấy lời khai người làm chứng bao gồm những nội dung cơ bản cần thiết để phục vụ cho quá trình điều tra và xét xử.

- Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự được qui định tại Điều

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, việc thu thập thông tin liên quan đến vụ án là rất quan trọng, bao gồm thời gian và địa điểm xảy ra, số lượng và đặc điểm đối tượng gây án, cũng như đặc điểm của người bị hại Ngoài ra, cần xem xét số lượng, đặc điểm và giá trị tài sản bị chiếm đoạt, cùng với các vũ khí, công cụ và phương tiện mà kẻ phạm tội đã sử dụng Khi lấy lời khai, điều tra viên cần khai thác và tìm hiểu tất cả các thông tin mà người làm chứng biết để làm rõ vụ án.

Xác định nhân thân của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo và người bị hại là rất quan trọng, bao gồm các thông tin như họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, quan hệ gia đình, nơi sinh sống và nơi làm việc Việc này giúp cơ quan điều tra hiểu rõ mối quan hệ và kiến thức của nhân chứng về đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, từ đó hỗ trợ quá trình điều tra hiệu quả hơn.

Mối quan hệ giữa người làm chứng và các đối tượng như người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bị hại là rất quan trọng Việc xác định mối quan hệ này giúp cơ quan điều tra đánh giá độ chính xác, khách quan và trung thực trong lời khai của người làm chứng.

Trong vụ án này, các tin tức và tài liệu liên quan đến quá trình chuẩn bị thực hiện tội phạm rất quan trọng Đặc biệt, diễn biến sau khi vụ án xảy ra, bao gồm đường rút chạy của đối tượng gây án, cũng như nơi cất giấu, tiêu hủy và tiêu thụ vật chứng, cần được làm rõ để phục vụ công tác điều tra và truy tố.

Trong quá trình điều tra vụ án, việc xác định các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể tại thời điểm xảy ra sự việc là rất quan trọng Người làm chứng có thể cung cấp thông tin từ trải nghiệm trực tiếp hoặc qua các nguồn tin khác Cần xem xét liệu có ai khác ngoài người làm chứng biết về những tình tiết của vụ án và nếu có, cần ghi nhận địa chỉ liên lạc của họ để phục vụ cho việc thu thập thông tin thêm.

- Làm rõ lý do vì sao người làm chứng biết được những tin tức, tài liệu có liên quan đến vụ án

Trong thời gian qua, các cơ quan điều tra đã thực hiện tốt việc lấy lời khai người làm chứng, tuân thủ đúng các quy định pháp luật Thông tin và tài liệu thu thập từ lời khai đã đáp ứng hiệu quả yêu cầu trong công tác điều tra, truy tố và xét xử tội phạm Đồng thời, để đảm bảo nội dung chính xác, các cơ quan điều tra đã linh hoạt áp dụng các quy định liên quan đến việc lấy lời khai người làm chứng.

Nghiên cứu thực tiễn cho thấy rằng, để đảm bảo quá trình lấy lời khai từ người làm chứng đạt yêu cầu về nội dung, cơ quan điều tra thường áp dụng các loại câu hỏi phù hợp trong quá trình thu thập thông tin.

Câu hỏi về trình tự sự việc mà người làm chứng tri giác được giúp thu thập thông tin chi tiết từ nhân chứng Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi người làm chứng có khả năng nhớ rõ các tình tiết của vụ án, thể hiện thái độ khai báo trung thực và có trí nhớ tốt.

- Câu hỏi bổ sung, nhằm thu thập những tin tức, tài liệu mới về vụ án

Câu hỏi xác định lại là một công cụ quan trọng nhằm làm rõ lời khai của nhân chứng, đặc biệt khi lời khai này thiếu cơ sở xác đáng hoặc có sự mâu thuẫn Việc đặt ra những câu hỏi cụ thể giúp làm sáng tỏ thông tin, đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của lời khai trong quá trình điều tra.

- Câu hỏi giúp người làm chứng nhớ lại những tình tiết đã quên

Khi lấy lời khai từ người làm chứng, điều tra viên có thể sử dụng các loại câu hỏi khác nhau để thu thập thông tin hiệu quả Các dạng câu hỏi này giúp người làm chứng trả lời một cách rõ ràng và cụ thể, từ đó hỗ trợ quá trình điều tra.

Anh (chị) cho biết thủ phạm chuẩn bị, mua bán công cụ gì để phạm tội? Thái độ của thủ phạm lúc đó như thế nào?

Thủ phạm có bàn bạc gì với ai không? Người đó ở đâu?

Vì sao anh (chị) biết được người đó (thủ phạm) chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội? Có nghi thực hiện hành vi phạm tội không? Vì sao?

Trong quá trình điều tra hành vi phạm tội của thủ phạm, các tình tiết quan trọng như công cụ gây án và hình thức gây án được xác định rõ ràng Những thông tin này có thể được thu thập từ hiện trường vụ án, lời khai của nhân chứng, cũng như các bằng chứng vật chất khác Việc hiểu rõ các tình tiết này không chỉ giúp xác định thủ phạm mà còn hỗ trợ trong việc xây dựng hồ sơ vụ án một cách chính xác và hiệu quả.

Anh (chị) cho biết lý do có mặt ở hiện trường? Lúc quan sát sự việc anh (chị) đứng ở vị trí nào?

Anh (chị) có nhìn thấy hành vi của nạn nhân đối phó như thế nào? Trước đó nạn nhân có hành vi gì đối với thủ phạm không?

Anh (chị) có biết có bao nhiêu đối tượng tham gia thực hiện tội phạm? Hành vi của từng đối tượng? Đặc điểm từng đối tượng

Anh (chị) có phát hiện được những hiện tượng, dấu vết gì trên người, phương tiện gây án của thủ phạm

Vì sao biết được đối tượng vừa gây án?

Anh (chị) có biết hướng chạy trốn của đối tượng?

Anh (chị) có biết phương tiện đối tượng dùng để chạy trốn?

Anh (chị) có biết địa điểm cất giấu, tiêu hủy công cụ, vũ khí gây án?

Lấy lời khai người làm chứng là người dưới 16 tuổi

Người làm chứng dưới 16 tuổi thường có trình độ hiểu biết hạn chế và khả năng phân tích thấp, không nắm vững được toàn bộ sự việc một cách đầy đủ và khách quan Tâm lý khai báo của họ cũng không vững, dễ thay đổi Hơn nữa, đây là giai đoạn phát triển mạnh về thể lực và tâm sinh lý, vì vậy việc lấy lời khai cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ từ người thân.

Do đặc điểm nhận thức và tâm sinh lý của người làm chứng dưới 16 tuổi, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định những điều khoản riêng khi lấy lời khai từ họ.

Một là, về triệu tập người làm chứng là người dưới 16 tuổi: Khoản 3 Điều

Theo quy định tại Điều 133, giấy triệu tập đối với người làm chứng chưa đủ 16 tuổi phải được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ Việc giao giấy triệu tập có thể thực hiện trực tiếp cho người đại diện hợp pháp hoặc thông qua chính quyền địa phương như xã, phường, thị trấn, hoặc các cơ quan, tổ chức nơi người đại diện cư trú, sinh sống, làm việc, nhằm đảm bảo rằng giấy triệu tập được chuyển đến đúng người.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có quy định riêng về việc dẫn giải người làm chứng dưới 16 tuổi, do đó, quy trình dẫn giải đối với nhóm này được thực hiện tương tự như đối với người làm chứng từ đủ 16 tuổi trở lên.

Khi điều tra viên tiến hành lấy lời khai từ người làm chứng dưới 16 tuổi, cần phải có sự tham gia của cha, mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc thầy cô giáo của người đó Điều này đảm bảo quyền lợi và sự bảo vệ cho trẻ em trong quá trình điều tra.

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, việc lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi phải có sự tham gia của cha, mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc thầy, cô giáo Nếu không có những người này, việc lấy lời khai sẽ vi phạm thủ tục tố tụng Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan và trung thực trong quá trình khai báo Sự hiện diện của những người này giúp người làm chứng cảm thấy yên tâm và tự tin hơn khi cung cấp thông tin liên quan đến vụ án.

Trong quá trình lấy lời khai người làm chứng dưới 16 tuổi, điều tra viên thường đến nhà người làm chứng cùng với sự tham gia của cha hoặc mẹ để tạo sự thoải mái và khuyến khích khai báo trung thực Ví dụ, trong vụ án Nguyễn Văn Thắng, khi Nguyễn Văn Tâm dùng gậy đập chết anh trai tại Vũng Tàu, cháu Nguyễn Mạnh Cường, 14 tuổi, là nhân chứng đã chứng kiến sự việc Điều tra viên đã đến nhà cháu Cường để lấy lời khai, có mẹ cháu bên cạnh để động viên Nhờ đó, dù ban đầu cháu Cường lo lắng, nhưng sau khi được khuyến khích, cháu đã cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin về vụ án, góp phần quan trọng vào quá trình điều tra.

Nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn lấy lời khai người làm chứng cho thấy, hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa có hướng dẫn cụ thể về độ tuổi của người làm chứng, miễn là họ có khả năng nhận biết và khai báo về sự việc Điều này có nghĩa là bất kỳ ai, bao gồm trẻ em, người già, người tàn tật, đều có thể trở thành người làm chứng trong vụ án hình sự Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định thủ tục đặc biệt để lấy lời khai từ những người làm chứng thuộc nhóm được bảo vệ theo các văn bản pháp luật khác, như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Khoản 3 Điều 133 Bộ luật quy định rằng giấy triệu tập cho người làm chứng dưới 16 tuổi phải được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác Tuy nhiên, quy định này thiếu thực tiễn, đặc biệt trong trường hợp trẻ em lang thang, cơ nhỡ, khi không có đại diện hợp pháp Ví dụ, trong một vụ giết người xe ôm để cướp tài sản xảy ra vào ban đêm, có thể có nhân chứng là em bé đánh giầy đã nhìn thấy vụ việc Nếu không thu thập lời khai của em bé này, sẽ vi phạm nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án".

10) vì đã bỏ qua nhân chứng nên không thể xác định sự thật khách quan một cách toàn diện và đầy đủ Còn nếu lấy lời khai thì sẽ vi phạm trình tự thủ tục luật định và vô hình chung là vi phạm quyền trẻ em được pháp luật bảo hộ Và còn trái với chính nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự đó là nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3)

Khi cha mẹ bị hạn chế quyền công dân, họ không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho con cái Điều này dẫn đến việc quy định về sự tham gia của giáo viên làm chứng cho trẻ vị thành niên không phù hợp với chế định người giám hộ trong Bộ luật dân sự và quy định về người đại diện hợp pháp trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Theo các luật này, giáo viên không có tư cách đại diện để bảo vệ quyền lợi cho học sinh và cũng không có nghĩa vụ ràng buộc nào ngoài việc thực hiện chức năng giảng dạy và giáo dục nhân cách cho học sinh.

Chương 2 luận văn tập trung vào nghiên cứu, phân tích làm rõ những qui định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật về lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự, như: trình tự, thủ tục triệu tập hoặc dẫn giải người làm chứng; thủ tục, trình tự lấy lời khai người làm chứng; nội dụng lấy lời khai người làm chứng và thực tiễn áp dụng thời gian qua Trong đó, luận văn còn đi sâu nghiên cứu, phân tích qui định của pháp luật về lấy lời khai người làm chứng là người dưới 16 tuổi Trên cơ sở phân tích các qui định của pháp luật và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về lấy lời khai người làm chứng, Chương 2 luận văn còn rút ra những thiếu sót trong qui định pháp luật và hạn chế trong thực tiễn thực hiện việc lấy lời khai người làm chứng trong thời gian qua

Kết quả nghiên cứu từ chương 2 sẽ là nền tảng quan trọng cho việc phát triển các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai từ người làm chứng, được trình bày trong chương 3 của luận văn.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:15

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
10. Bộ Công an (2010), Báo cáo 728/2010/BCA-C11(P4) ngày 26/11/2010 của Bộ Công an về việc Sơ kết 6 năm thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo 728/2010/BCA-C11(P4) ngày 26/11/2010 của Bộ Công an về việc Sơ kết 6 năm thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004
Tác giả: Bộ Công an
Năm: 2010
11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
Tác giả: Bộ Chính trị
Năm: 2005
13. Nguyễn Phong Hòa (1995), Bình luận khoa học Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự
Tác giả: Nguyễn Phong Hòa
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 1995
15. Nguyễn Thái Phúc (2004), “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, (số 3/2007) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự”, "Tạp chí khoa học pháp lý
Tác giả: Nguyễn Thái Phúc
Năm: 2004
17. Trần Quang Tiệp (2005), “Về lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 4/2005) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Trần Quang Tiệp
Năm: 2005
18. Phạm Văn Tỉnh (2003), “Vấn đề nhân chứng trong vụ án hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 8/2003), tr. 45-52 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề nhân chứng trong vụ án hình sự”, "Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
Tác giả: Phạm Văn Tỉnh
Năm: 2003
19. Nguyễn Huy Thuật (1996), Giáo trình chiến thuật điều tra hình sự, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình chiến thuật điều tra hình sự
Tác giả: Nguyễn Huy Thuật
Năm: 1996
21. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Công văn số 98-NCPL ngày 01/3/1974, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn số 98-NCPL ngày 01/3/1974
Tác giả: Tòa án nhân dân tối cao
Năm: 1974
22. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình Lý luận và phương pháp luận của khoa học điều tra hình sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận và phương pháp luận của khoa học điều tra hình sự
Tác giả: Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Năm: 1998
23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2004
24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: NXB CAND
Năm: 2011
25. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: NXB Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2012
26. Viện Chiến lược và Khoa học công an- Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam
Tác giả: Viện Chiến lược và Khoa học công an- Bộ Công an
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2005
27. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1999), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga
Tác giả: Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch)
Nhà XB: Nhà xuất bản pháp lý
Năm: 1999
28. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1998), Bộ lụât tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ lụât tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp
Tác giả: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch)
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 1998
29. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1998), Luật tố tụng hình sự Hàn Quốc, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật tố tụng hình sự Hàn Quốc
Tác giả: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch)
Nhà XB: Nhà xuất bản pháp lý
Năm: 1998
30. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1993), Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản
Tác giả: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch)
Nhà XB: Nhà xuất bản pháp lý
Năm: 1993
31. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1995), Bộ luật tố tụng hình sự Thái Lan, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng hình sự Thái Lan
Tác giả: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch)
Nhà XB: Nhà xuất bản pháp lý
Năm: 1995
32. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch) (1999), Bộ luật tố tụng hình sự Malaysia, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng hình sự Malaysia
Tác giả: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (dịch)
Nhà XB: Nhà xuất bản pháp lý
Năm: 1999
33. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Luật học
Tác giả: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
Nhà XB: NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp
Năm: 2006

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng số liệu  số người làm chứng và  số vụ án có  người làm chứng từ năm - Hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự việt nam (2)
Bảng s ố liệu số người làm chứng và số vụ án có người làm chứng từ năm (Trang 57)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN