1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai theo pháp luật việt nam (2)

67 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 67
Dung lượng 530,33 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: Những vấn đề lí luận về các biện pháp bảo đảm an toàn (27)
    • 1.1 Khái quát về hoạt động cho vay của các TCTD (8)
      • 1.1.1 Khái niệm cho vay của TCTD (8)
      • 1.1.2 Chủ thể của hợp đồng tín dụng (hợp đồng cho vay) (9)
      • 1.1.3 Đối tượng của hoạt động cho vay (9)
      • 1.1.4 Nguyên tắc cho vay của các TCTD (10)
      • 1.1.5 Rủi ro trong hoạt động cho vay (13)
    • 1.2 Sự cần thiết phải nghiên cứu các biện pháp bảo đảm bằng tài sản (15)
    • 1.3 Khái quát các biện pháp pháp lí đảm bảo an toàn cho hoạt động (17)
      • 1.3.1 Khái niệm các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản (18)
      • 1.3.2 Đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản14 (19)
      • 1.3.3 Tài sản bảo đảm tiền vay (21)
      • 1.3.4 Định giá tài sản bảo đảm (26)
  • Chương 2: Các biện pháp pháp lý nhằm đảm bảo an toàn hoạt động cho (0)
    • 2.1 Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản 22 (27)
      • 2.1.1 Caàm coá (27)
      • 2.1.2 Thế chấp (31)
      • 2.1.3 Bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai (35)
      • 2.1.4 Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản (39)
      • 2.1.5 Xử lý tài sản bảo đảm (43)
    • 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp đảm bảo an toàn hoạt động cho vay của TCTD (48)
      • 2.2.1 Đánh giá chung về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm của các TCTD (48)
      • 2.2.2 Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện (51)
    • 2.3 Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật (59)
  • Kết Luận (63)

Nội dung

Những vấn đề lí luận về các biện pháp bảo đảm an toàn

Khái quát về hoạt động cho vay của các TCTD

1.1.1 Khái niệm cho vay của TCTD:

Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi xã hội có tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn Theo pháp luật ngân hàng Việt Nam, cho vay được định nghĩa là một hình thức cấp tín dụng, trong đó tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.

Quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng là một hình thức giao dịch kinh tế, trong đó TCTD đồng ý cho khách hàng vay một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định Điều kiện của quan hệ này là khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm giữa hai bên.

Theo đó, hoạt động cho vay của TCTD có các đặc điểm sau:

- Bên cho vay luôn là TCTD phải thoả mãn các điều kiện pháp luật quy định

Hợp đồng tín dụng là hình thức pháp lý chính của việc cho vay, được thiết lập và thực hiện dựa trên nguyên tắc tự do, thống nhất ý chí giữa các bên, cũng như nguyên tắc tự định đoạt, và phải tuân thủ pháp luật.

Sự kiện cho vay xảy ra từ hai hành vi chính: việc chuyển giao khoản tiền của tổ chức tín dụng (TCTD) và hành vi hoàn trả gốc lãi của khách hàng khi đến hạn Hành vi cấp tín dụng của TCTD diễn ra trước, sau đó là thời gian thỏa thuận, và cuối cùng là hành vi hoàn trả của khách hàng Do đó, để thực hiện cho vay, TCTD cần có sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng.

Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) không chỉ phải tuân thủ các quy định pháp luật về hợp đồng mà còn bị chi phối bởi các đạo luật ngân hàng và tập quán thương mại liên quan Đặc điểm này phản ánh tính chất đặc thù của ngành ngân hàng, bao gồm rủi ro cao và ảnh hưởng dây chuyền đến nhiều lợi ích xã hội khác nhau.

1.1.2 Chủ thể của hợp đồng tín dụng (hợp đồng cho vay)

Bên cho vay trong hợp đồng tín dụng thông thường là TCTD Theo pháp luật

Việt Nam, một TCTD muốn trở thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện sau:

- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp

- Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y

- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp

- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng

Bên vay trong hợp đồng tín dụng là tổ chức hoặc cá nhân đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật và các thỏa thuận khác giữa các bên Cụ thể, bên vay cần phải đảm bảo các điều kiện do pháp luật quy định.

Bên vay cần phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự Đối với tổ chức, cần có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để ký kết hợp đồng tín dụng cho tổ chức đó.

- Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, tức là không thuộc các trường hợp quy ủũnh theo ẹieàu 9 Quyeỏt ủũnh soỏ 1627/2001/Qẹ-NHNN

Ngoài những điều kiện bắt buộc mà bên vay phải đáp ứng, người vay còn cần thỏa mãn các yêu cầu riêng biệt khác theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể do tổ chức tín dụng (TCTD) quy định Theo pháp luật hiện hành, các điều kiện này rất đa dạng và phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

- Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;

- Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả;

- Bên vay có tài sản cầm cố hoặc thế chấp;

- Áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định pháp luật

Việc pháp luật quy định các điều kiện cho bên cho vay và bên đi vay trong hợp đồng tín dụng không chỉ nhằm thiết lập trật tự và kỷ cương trong hoạt động tín dụng, mà còn là giải pháp quan trọng để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của tổ chức tín dụng.

1.1.3 Đối tượng của hoạt động cho vay:

Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ chính của các tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm thu lợi nhuận Khác với các hoạt động kinh doanh khác, trong cho vay, tiền tệ không chỉ là thước đo giá trị hay phương tiện thanh toán mà trở thành đối tượng chính mà các bên tham gia hướng tới Do đó, tiền tệ trong hoạt động cho vay có những đặc điểm riêng biệt cần được chú ý.

Giá trị của tiền vay gia tăng nhờ vào việc sử dụng vốn hiệu quả, khi tiền được cho vay sẽ quay trở về điểm xuất phát và đồng thời gia tăng trong quá trình vận động Đặc điểm này giúp khách hàng có khả năng hoàn trả tiền vay, với giá trị hoàn trả không chỉ bằng số tiền vay ban đầu mà còn kèm theo lợi tức.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động từ cá nhân và tổ chức trong xã hội, bên cạnh vốn tự có của mình Họ hoạt động theo nguyên tắc "đi vay" để "cho vay", tức là vay vốn với lãi suất thấp và cho vay lại với lãi suất cao hơn để thu lợi nhuận Tuy nhiên, nếu xảy ra thất thoát trong các khoản cho vay, TCTD có thể rơi vào tình trạng thiếu vốn tự có, không đủ khả năng thanh toán cho người gửi tiền, dẫn đến nguy cơ phá sản.

1.1.4 Nguyên tắc cho vay của các TCTD:

Trong hoạt động cho vay, các tổ chức tín dụng (TCTD) cần tuân thủ các nguyên tắc nhằm bảo vệ số tiền tín dụng đã cấp cho khách hàng Những nguyên tắc này không chỉ là chỉ đạo quan trọng trong quá trình cho vay mà còn là sự điều chỉnh của Nhà nước để đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay, góp phần duy trì sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng.

 Nguyên tắc thứ nhất: Khách hàng vay của TCTD phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thoả thuận (2)

Pháp luật quy định nguyên tắc này nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của người vay và tính hợp pháp của nhu cầu vay vốn Điều này giúp người vay có trách nhiệm trong việc sử dụng vốn và tránh những rủi ro tài chính không mong muốn.

(1) Các Mác, Tư bản quyển 2, tập 2

Theo khoản 1 Điều 6 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, khi đến hạn, người vay phải trả một khoản tiền Y = X + lãi, và khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ phụ thuộc vào mục đích sử dụng vốn vay Đối với khoản vay kinh doanh, TCTD sẽ kiểm soát mục đích sử dụng vốn để đánh giá tính khả thi và khả năng sinh lời của dự án, từ đó xác định khả năng thanh toán của khách hàng Trong trường hợp vay tiêu dùng hoặc không nhằm mục đích kinh doanh, TCTD cần xác minh tính hợp pháp của nhu cầu vay, đảm bảo không vi phạm Điều 9 của Quyết định này Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều vi phạm xảy ra do khách hàng không cung cấp đầy đủ thông tin về việc sử dụng vốn vay.

 Nguyên tắc thứ hai: Khách hàng vay vốn phải đảm bảo hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng (3)

Sự cần thiết phải nghiên cứu các biện pháp bảo đảm bằng tài sản

Có nhiều lý do lý luận và thực tiễn để quy định và nghiên cứu các biện pháp bảo đảm bằng tài sản Theo quan điểm của tác giả, những lý do cơ bản bao gồm tính cần thiết trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và sự ổn định trong giao dịch tài chính.

- Xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động cho vay của các TCTD

Cho vay là một hoạt động kinh doanh tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, bao gồm cả rủi ro có thể khắc phục và rủi ro bất khả kháng như thiên tai và dịch bệnh Những rủi ro này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) mà còn có tác động dây chuyền đến nhiều lợi ích khác trong xã hội.

Để giảm thiểu tác hại của rủi ro tín dụng và đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế, việc nghiên cứu các biện pháp là rất cần thiết Một trong những biện pháp hiệu quả là bảo đảm tiền vay bằng tài sản, giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) có nguồn thu thứ hai và khả năng thu hồi nợ khi khách hàng không còn khả năng chi trả Qua đó, biện pháp này không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền mà còn góp phần vào sự an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng.

- Xuất phát từ sự phụ thuộc của hoạt động cho vay của TCTD với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là đối tượng có nhu cầu vay vốn cao nhất, chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) Sự phụ thuộc của TCTD vào doanh nghiệp thể hiện rõ ràng: khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển, khả năng trả nợ cho TCTD được đảm bảo; ngược lại, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn và có nguy cơ phá sản, TCTD có thể không thu hồi được vốn và lãi Để giảm thiểu rủi ro, việc đảm bảo tiền vay bằng tài sản là cần thiết, giúp TCTD tách rời rủi ro kinh doanh của khách hàng khỏi hoạt động tài chính của mình Trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, TCTD có thể xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn và lãi, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp trong việc trả nợ cho các chủ nợ khác.

- Xuất phát từ thực tiễn chấp hành nghĩa vụ trả nợ tại các TCTD

Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, một số khách hàng sau khi nhận tín dụng thường có tâm lý ỷ lại và chây ỳ trong việc trả nợ, dẫn đến việc các tổ chức tín dụng (TCTD) phải khởi kiện ra Tòa án, gây tốn kém thời gian và công sức Để duy trì mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng và đảm bảo hoạt động cho vay diễn ra thuận lợi, TCTD cần áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản Điều này không chỉ nâng cao ý thức trả nợ của khách hàng mà còn giúp TCTD thu hồi vốn và lãi mà không phụ thuộc vào ý định trả nợ của họ.

Lịch sử lập pháp của Việt Nam phản ánh sự phát triển qua các thời kỳ, từ các Bộ luật phong kiến như Bộ Quốc Triều hình luật và Bộ luật Gia Long, đến các Bộ luật dân sự và thương mại trong thời kỳ phong kiến tư sản và Việt Nam Cộng hòa Những đạo luật này đều quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong giao dịch thương mại và dân sự, đặc biệt nhấn mạnh vào các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.

Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, các biện pháp bảo đảm bằng tài sản đã được quy định trong nhiều văn bản pháp lý từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đến Bộ luật dân sự năm 2005 Qua các giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế khác nhau, nghiên cứu về các biện pháp này đã phát triển theo nhiều hướng, nhưng lợi ích mà chúng mang lại là không thể phủ nhận Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản cũng coi các biện pháp bảo đảm bằng tài sản là công cụ hiệu quả để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng Do đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu.

Khái quát các biện pháp pháp lí đảm bảo an toàn cho hoạt động

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của các TCTD luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là khi người vay không có khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn Để giảm thiểu rủi ro này, việc thu hồi đầy đủ các khoản vay là rất quan trọng Tuy nhiên, TCTD không phải lúc nào cũng có thể yêu cầu người vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ, đặc biệt khi họ gặp khó khăn tài chính Do đó, pháp luật Việt Nam đã quy định các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm đảm bảo rằng người vay sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng.

Bảo đảm tiền vay là các biện pháp mà tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện để phòng ngừa rủi ro và tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hồi nợ từ khách hàng Đây là sự thỏa thuận giữa bên cho vay và người đi vay, hoặc bên thứ ba, nhằm đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi cho TCTD Các biện pháp bảo đảm tiền vay thường được áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau.

-Khả năng trả nợ vốn vay của khách hàng còn hạn chế;

Trong bối cảnh nền kinh tế có nguy cơ lạm phát, giá trị khoản vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể bị ảnh hưởng, làm giảm khả năng tài chính của khách hàng vay vốn Điều này có thể dẫn đến việc khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang trải qua nhiều biến động, việc đảm bảo tiền vay trở thành yếu tố quan trọng để bảo vệ an toàn cho hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.

1.3.1 Khái niệm các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản:

Quan hệ cấp tín dụng dưới hình thức cho vay thực chất là một dạng quan hệ dân sự, vì vậy các biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) phải tuân theo quy định của Bộ Luật Dân sự Điều này có nghĩa là ngoài các quy định đặc thù trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, các biện pháp bảo đảm tiền vay cũng phải tuân thủ các quy phạm pháp luật dân sự liên quan, đặc biệt là Bộ luật dân sự 2005 (BLDS 2005).

BLDS 2005 quy định bảy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, kí cược, kí quỹ, bảo lãnh và tín chấp Theo Điều 52 Luật các TCTD ngày 12/12/1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), các tổ chức tín dụng có quyền xem xét và quyết định cho vay dựa trên việc có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, cũng như bảo lãnh từ bên thứ ba.

Ba biện pháp đặt cọc, ký cược, ký quỹ không thể được coi là biện pháp bảo đảm tiền vay tại các TCTD Trước đây, theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP, bên bảo đảm phải dùng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ dân sự Tuy nhiên, với sự ra đời của BLDS 2005, bên thứ ba có thể sử dụng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ mà không cần phải áp dụng biện pháp bảo lãnh, mà có thể thực hiện biện pháp thế chấp Ngoài ra, theo tinh thần của BLDS 2005, biện pháp bảo lãnh mang tính đối nhân và không có khái niệm “tài sản bảo đảm”, dẫn đến việc biện pháp bảo lãnh bằng tài sản hiện nay hầu như không được áp dụng trong hoạt động cho vay của các TCTD.

Số lượng biện pháp bảo đảm tiền vay tại các Tổ chức tín dụng (TCTD) ít hơn so với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS) Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hoạt động cho vay của các TCTD bao gồm nhiều hình thức khác nhau.

- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của chính bên đi vay

- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba

- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay

Từ đó, ta có thể rút ra khái niệm bảo đảm tiền vay bằng tài sản như sau:

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là phương pháp mà các tổ chức tín dụng (TCTD) sử dụng để yêu cầu cầm cố hoặc thế chấp tài sản của bên vay hoặc bên thứ ba Điều này nhằm đảm bảo rằng khách hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi theo hợp đồng tín dụng Ngoài ra, việc này cũng tạo ra nguồn thu thứ hai cho TCTD thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ khi khách hàng không còn khả năng thanh toán.

1.3.2 Đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản:

Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản không chỉ hỗ trợ cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng mà còn có tính chất là nghĩa vụ phụ, giúp tăng cường sự an toàn cho các khoản vay.

Tính chất của các biện pháp bảo đảm tiền vay là nghĩa vụ phụ, không tồn tại độc lập mà gắn liền với nghĩa vụ mà chúng bảo đảm Các biện pháp này được thiết lập nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng Khi nghĩa vụ chính được thực hiện đầy đủ, các biện pháp bảo đảm bằng tài sản sẽ chấm dứt; đồng thời, sự vô hiệu của hợp đồng bảo đảm có thể dẫn đến sự vô hiệu của giao dịch bảo đảm.

Tính chất phụ thuộc của biện pháp bảo đảm chỉ ở mức độ tương đối, vì trong một số trường hợp, biện pháp bảo đảm có thể tồn tại độc lập với nghĩa vụ mà nó bảo đảm Theo quy định pháp luật, nếu hợp đồng có nghĩa vụ bảo đảm bị vô hiệu và các bên chưa thực hiện hợp đồng, giao dịch bảo đảm sẽ chấm dứt Tuy nhiên, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ khi có thoả thuận khác Điều này mang lại lợi ích cho tổ chức tín dụng nhận bảo đảm, vì ngay cả khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, nếu đã cấp tín dụng, biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị.

Theo Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, khi Tổ chức tín dụng (TCTD) cấp tín dụng một phần hoặc toàn bộ cho khách hàng vay, giao dịch bảo đảm vẫn giữ hiệu lực TCTD có quyền ưu tiên trong việc xử lý tài sản để đảm bảo thu hồi nợ, ngay cả khi khoản nợ đó không phải là khoản nợ chính phát sinh từ hợp đồng tín dụng mà là khoản mà bên vay phải hoàn trả.

Phạm vi bảo đảm không vượt quá nghĩa vụ đã được xác định trong quan hệ chính, theo Điều 319 BLDS 2005, nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật Khi thỏa thuận các biện pháp bảo đảm tiền vay, TCTD và khách hàng cần xác định rõ phạm vi bảo đảm Nếu trong hợp đồng tín dụng, tài sản bảo đảm chỉ dùng để bảo đảm một phần nghĩa vụ trả nợ, thì phần còn lại không được bảo đảm bằng tài sản đó, ngay cả khi giá trị tài sản lớn hơn toàn bộ nghĩa vụ Điều này đặc biệt quan trọng khi nhiều người thứ ba dùng tài sản của họ để bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng vay, giúp tránh xung đột trong việc xử lý tài sản bảo đảm nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là những phương thức phòng ngừa, chỉ được thực hiện khi có vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Các biện pháp pháp lý nhằm đảm bảo an toàn hoạt động cho

Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản 22

2.1.1 Caàm coá a Khái niệm: Theo Điều 326 BLDS năm 2005 thì: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia ( sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.” Về bản chất, cầm cố để vay vốn ngân hàng cũng giống như cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Trong quan hệ vay vốn ngân hàng, cầm cố tài sản là việc khách hàng vay hoặc người thứ ba (bên cầm cố) có nghĩa vụ giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho TCTD (bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ Do đó, đặc điểm chính của cầm cố là có sự chuyển giao tài sản cho bên nhận caàm coá b Đối tượng của cầm cố tài sản: Đối tượng của cầm cố theo BLDS 2005 có thể là động sản hoặc bất động sản đáp ứng các điều kiện của tài sản bảo đảm ( thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch) Đây là điểm khác biệt của BLDS 2005 so với BLDS 1995 BLLDS 1995 qui định đối tượng của cầm cố là động sản, đối tượng thế chấp là bất động sản Sự thay đổi này đã tránh được khó khăn cho các TCTD trong việc phải phân biệt động sản, bất động sản trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm và đơn giản hoá các qui định về cầm cố, thế chấp Tuy nhiên nếu nghiên cứu cacù đạo luật liên quan, ta sẽ nhận thấy không phải muốn nhận bất động sản nào làm đối tượng cầm cố đều được Điển hình như hai đối tượng tiêu biểu của bất động sản là đất đai ( quyền sử dụng đất) và nhà ở

Theo Điều 106 của Luật đất đai năm 2003, người sử dụng đất chỉ có quyền thế chấp quyền sử dụng đất, không có quyền cầm cố Khoản 2 Điều 322 Bộ luật dân sự quy định rằng quyền sử dụng đất có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, tuy nhiên, phải tuân theo các hạn chế của Luật đất đai Do đó, quyền sử dụng đất chỉ có thể là đối tượng thế chấp tài sản, không thể cầm cố tài sản.

Theo Điều 90 Luật Nhà ở năm 2005, trong các giao dịch về nhà ở chỉ có hình thức thế chấp, không có cầm cố Mặc dù Bộ luật Dân sự (BLDS) không hạn chế quyền cầm cố nhà ở của cá nhân, tổ chức, nhưng Luật Nhà ở lại đặt ra hạn chế này BLDS cũng không quy định rằng các giao dịch dân sự liên quan đến nhà ở phải tuân theo quy định về nhà ở như đối với quyền sử dụng đất Do đó, các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng khoản 3 Điều 80 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xác định rằng Luật Nhà ở có hiệu lực từ ngày 01/7/2006, sau BLDS năm 2005, và do đó, quy định của Luật Nhà ở sẽ được áp dụng, tức là nhà ở không thuộc đối tượng cầm cố tài sản.

Khi ký kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản, các bên cần lựa chọn hình thức bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm và luật chuyên ngành liên quan đến tài sản bảo đảm.

Hợp đồng cầm cố bao gồm hai bên: bên nhận cầm cố, thường là tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay, và bên cầm cố, là khách hàng vay vốn hoặc người thứ ba bảo đảm tài sản cho khoản vay Bên nhận cầm cố phải đáp ứng các điều kiện pháp luật, trong khi bên cầm cố có thể là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu tài sản để bảo đảm cho khoản vay Hình thức cầm cố tài sản cần tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.

Cầm cố tài sản là một hình thức hợp đồng trong giao dịch dân sự, do đó, hình thức của cầm cố phải tuân thủ quy định của hợp đồng cầm cố Đảm bảo tính hợp pháp của hợp đồng cầm cố là yếu tố quan trọng để bảo vệ hiệu lực pháp lý của giao dịch này.

Theo Điều 327 của BLDS 2005: “Việc cầm cố tài sản phải lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính”

Theo Điều 9 Nghị định số 163, hợp đồng cầm cố phải được lập thành văn bản và các bên có quyền thỏa thuận việc công chứng hoặc chứng thực hợp đồng, trừ những trường hợp pháp luật yêu cầu bắt buộc Vì vậy, hợp đồng cho vay bảo đảm bằng tài sản cầm cố chỉ cần công chứng hoặc chứng thực nếu có thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không, các bên không bắt buộc phải thực hiện công chứng, chứng thực.

Theo Điều 2 Nghị định 08/2000/NĐ-CP, việc đăng ký giao dịch bảo đảm là bắt buộc đối với các trường hợp cầm cố nhất định Các giao dịch này cần được thực hiện tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm để đảm bảo tính hợp pháp và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

 Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng kí quyền sở hữu

 Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà các bên thoả thuận bên cầm cố, bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản

 Việc cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ

Một vấn đề phát sinh từ quy định về cầm cố là việc bên cầm cố giữ tài sản mà không cần chuyển giao tài sản, điều này mâu thuẫn với khái niệm cầm cố trong Bộ luật Dân sự 2005 Sự mâu thuẫn này xuất hiện do Nghị định 08/2000/NĐ-CP dựa trên Bộ luật Dân sự 1995, không sử dụng tiêu chí chuyển giao để phân biệt cầm cố và thế chấp Điều này chỉ ra rằng một số quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm cần được điều chỉnh để phù hợp với các quy định mới của Bộ luật Dân sự 2005 Ngoài ra, các giao dịch bảo đảm có thể được đăng ký theo yêu cầu của cá nhân hoặc tổ chức với các mục đích cụ thể.

Theo quy định của pháp luật, việc đăng ký là điều kiện hình thức bắt buộc để giao dịch bảo đảm có hiệu lực pháp lý.

Thông báo công khai về giao dịch bảo đảm là rất quan trọng, vì nó xác nhận tính hợp pháp của giao dịch này đối với bên thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

-Thứ ba, xác định thứ tự ưu tiên thanh toán

Cầm cố bắt đầu có hiệu lực ngay khi tài sản được chuyển giao cho bên nhận cầm cố Thời điểm giao dịch cầm cố cũng có giá trị pháp lý đối với các bên thứ ba liên quan.

Theo Nghị Định số 163, giao dịch bảo đảm chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba từ thời điểm đăng ký Điều này cho thấy rằng, theo pháp luật Việt Nam, việc đăng ký là phương pháp duy nhất để bên nhận bảo đảm, đặc biệt là các tổ chức tín dụng, công khai hóa quyền của mình đối với tài sản bảo đảm Mặc dù hợp đồng giữa các bên có giá trị pháp lý, nhưng không tự động ràng buộc các tổ chức, cá nhân khác Để hợp đồng bảo đảm có hiệu lực pháp lý với bên thứ ba và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, cần phải công khai, minh bạch các quyền đối với tài sản Sự công khai này giúp các tổ chức, cá nhân khác nhận biết tình hình tài sản và giảm thiểu rủi ro liên quan đến giao dịch bảo đảm Sau khi hoàn tất công khai, bên thứ ba tham gia giao dịch sẽ có nghĩa vụ biết về sự tồn tại của giao dịch bảo đảm Do đó, đăng ký không chỉ là phương thức công bố quyền và lợi ích mà còn là câu hỏi liệu có phương thức nào khác giúp bên thứ ba biết về tình hình tài sản hay không.

Theo Điều 9 Bộ quy tắc Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (UCC) và các quy định tương tự tại luật về bảo đảm của Canada và New Zealand, lợi ích bảo đảm chỉ có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba khi được hoàn thiện thông qua một trong ba phương thức: chiếm hữu tài sản bảo đảm, kiểm soát tài sản bảo đảm hoặc đăng ký lợi ích bảo đảm.

Hoàn thiện quyền sở hữu tài sản bảo đảm là quá trình mà chủ nợ chiếm hữu tài sản trong các trường hợp như cầm cố động sản hoặc khi con nợ giao tài sản cho bên thứ ba để bảo quản Phương thức này thường được áp dụng cho các lợi ích bảo đảm liên quan đến hàng hoá, dụng cụ, văn bản thoả thuận, tiền và chứng thư tín dụng.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp đảm bảo an toàn hoạt động cho vay của TCTD

2.2.1 Đánh giá chung về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm của các TCTD:

Trong thập kỷ sau khi Bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành, hệ thống pháp luật Việt Nam đã xuất hiện nhiều văn bản quy định về giao dịch bảo đảm và bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng Mặc dù các văn bản này đã tạo lập những chuẩn mực pháp lý cần thiết cho giao dịch bảo đảm trong nền kinh tế - dân sự, nhưng vẫn tồn tại nhiều điểm không phù hợp, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm tiền vay Pháp luật thời điểm đó bị chỉ trích vì hạn chế quyền tự do thỏa thuận và quyền tự quyết của các bên tham gia giao dịch, trong khi các quy định về xử lý tài sản vẫn mang tính hành chính và chưa tương thích với thông lệ quốc tế.

Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã được ban hành, giúp khắc phục những hạn chế của pháp luật về giao dịch bảo đảm trước đây.

Việc xóa bỏ tình trạng tồn tại song song hai nghị định của Chính phủ điều chỉnh cùng một quan hệ bảo đảm tiền vay sẽ giúp đơn giản hóa quy trình lựa chọn luật áp dụng, giảm thiểu khó khăn cho các bên liên quan.

Việc khắc phục những hạn chế đối với tổ chức tín dụng (TCTD) khi nhận tài sản bảo đảm là động sản, hàng lưu kho và tài sản hình thành trong tương lai không chỉ giúp tăng cường khả năng cho vay mà còn giảm thiểu rủi ro cho TCTD, đặc biệt trong các trường hợp tài sản bảo đảm là động sản mua trả chậm, trả dần hoặc bán có bảo lưu quyền sở hữu.

Quyền tự do thoả thuận của các bên được tôn trọng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, với pháp luật về giao dịch bảo đảm không còn can thiệp sâu vào quan hệ bảo đảm tiền vay giữa tổ chức tín dụng và bên bảo đảm Thay vào đó, pháp luật nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của các bên trong giao dịch.

- Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định rõ ràng…

Mặc dù pháp luật đã mở rộng đối tượng tài sản được sử dụng làm tài sản bảo đảm theo thỏa thuận giữa các bên, nhưng việc nhận bảo đảm bằng động sản tại các tổ chức tín dụng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.

Khảo sát năm 2007 của Tập đoàn Tài Chính Quốc Tế (IFC) cho thấy 93% ngân hàng ưa chuộng nhận bất động sản làm tài sản thế chấp cho khoản vay thương mại Tuy nhiên, phần lớn tài sản của doanh nghiệp vừa và nhỏ lại là động sản như hàng tồn kho, hàng hóa trong quá trình sản xuất và máy móc thiết bị Nếu những tài sản này được huy động, chúng có thể đảm bảo một lượng tín dụng lớn cho sự phát triển kinh tế Tâm lý e ngại nhận động sản làm tài sản thế chấp xuất phát từ nhiều lý do khác nhau.

Nhiều tổ chức tín dụng, bao gồm ngân hàng, vẫn chưa có đủ năng lực chuyên môn để đánh giá chính xác giá trị thực của tài sản, đặc biệt là đối với máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất chuyên biệt đã qua sử dụng.

- Trị giá động sản có tính rủi ro và giá trị giảm rất nhanh theo thời gian

- Việc quản lí rất khó khăn vì trong trường hợp xấu khách hàng vẫn có thể đem bán hoặc thế chấp đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự khác

Động sản thường không có đăng ký quyền sở hữu, vì vậy việc công khai thông tin về cầm cố, thế chấp hoặc bán có bảo lưu quyền sở hữu là chưa đủ Ngoài ra, còn có những quyền phát sinh từ các giao dịch khác như bán hàng qua đại lý hay cầm giữ tài sản, mặc dù không phải là giao dịch bảo đảm nhưng vẫn tạo ra quyền và lợi ích đối với tài sản Những giao dịch này cũng cần được đăng ký để các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể nhận biết quyền và lợi ích của bên thứ ba liên quan đến tài sản bảo đảm Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật về giao dịch bảo đảm vẫn chưa đầy đủ để điều chỉnh tất cả các loại giao dịch này, điều này có thể là một trong những lý do khiến TCTD còn e ngại khi nhận thế chấp bằng động sản.

Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 60% GDP quốc gia, vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng Nguyên nhân chủ yếu là do những doanh nghiệp này không đáp ứng được yêu cầu về tài sản bảo đảm từ các tổ chức tín dụng.

(24) http://www.monre.gov.vn/monrenet/default.aspx?tabid 7&idmid=&ItemID6791 cập nhật 16:14 14/12/2007

Việc cho vay có thế chấp bằng bất động sản đang xuất hiện dấu hiệu bất ổn khi bất động sản thế chấp chiếm khoảng 50% tổng tài sản ngân hàng, trong khi thị trường bất động sản đang đi xuống Nhiều ngân hàng thừa nhận gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn từ các khoản vay dài hạn mua nhà, đặc biệt với tài sản thế chấp là bất động sản hình thành trong tương lai Điều này đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về khả năng trả nợ của khách hàng, nếu không có khả năng thanh toán, có thể dẫn đến tình trạng bán tháo nhà đất và làm trầm trọng thêm tình hình thị trường bất động sản.

“lún sâu” Thị trường bất động sản bất ổn sẽ là một ảnh hưởng không tốt đến thị trường tài chính -ngân hàng

Cuộc khủng hoảng tài chính trên thị trường cho vay cầm cố bất động sản dưới tiêu chuẩn tại Mỹ vào tháng 8 năm 2007 là bài học quý giá cho các tổ chức tín dụng (TCTD) ở Việt Nam Trước khi khủng hoảng xảy ra, thị trường nhà đất bùng nổ với giá nhà tăng nhanh, thu hút nhiều nhà đầu tư đổ vốn nhằm kiếm lợi nhuận nhanh chóng.

Trong bối cảnh thị trường bất động sản sôi động, nhiều người tìm cách vay tiền mua nhà, dẫn đến việc các ngân hàng đổ tiền vào lĩnh vực này Ngân hàng tin rằng giá nhà sẽ tăng và nếu người vay không trả được nợ, họ có thể bán nhà để thu hồi vốn Điều này đã dẫn đến việc ngân hàng lỏng lẻo trong xét duyệt khoản vay, cho vay nhiều khách hàng có điểm tín dụng kém mà không xem xét khả năng trả nợ Khi lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng để đối phó với lạm phát, thị trường bất động sản bắt đầu suy thoái, gây ra khủng hoảng và khiến nhiều công ty bất động sản phá sản, nợ xấu của ngân hàng gia tăng, và tình hình thanh khoản của các khoản vay dưới tiêu chuẩn trở nên tồi tệ.

Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhiều tổ chức tài chính và ngân hàng, buộc một số công ty cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn phải nộp đơn xin phá sản Ngân hàng trung ương tại các quốc gia như Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi tình hình này.

Các ngân hàng cần được bơm tiền đồng loạt để ngăn chặn nguy cơ sụp đổ toàn bộ hệ thống tài chính, do tình trạng thanh khoản đang trở nên cực kỳ tồi tệ.

Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

Trên cơ sở nhận diện các bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật về giao dịch bảo đảm nêu trên, tác giả kiến nghị như sau:

Thời điểm giao dịch có giá trị pháp lý đối với người thứ ba:

Pháp luật về giao dịch bảo đảm cần xem xét nhiều yếu tố, không chỉ dựa vào thời điểm đăng ký giao dịch để xác định giá trị pháp lý với bên thứ ba Thay vào đó, thời điểm bên nhận bảo đảm công khai hóa quyền đối với tài sản bảo đảm nên được coi là thời điểm quyết định cho giá trị pháp lý của giao dịch với bên thứ ba.

Việc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm là một quy trình quan trọng, giúp bên nhận biết rằng tài sản đã được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ Khi tài sản được chuyển giao, bên nhận bảo đảm có trách nhiệm nhận thức về tình trạng của tài sản, vì họ không thấy bên bảo đảm giữ tài sản trong tay Tuy nhiên, để đảm bảo tính hợp lệ của việc chuyển giao, tài sản bảo đảm phải luôn được giữ bởi người nắm giữ, đảm bảo tính liên tục trong suốt quá trình.

- Thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm

Cần bổ sung Điều 11 Nghị định 163/2006/CP để xác định rằng thời điểm chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cũng chính là thời điểm giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.

Thứ tự ưu tiên thanh toán:

Việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán là cần thiết vì một tài sản bảo đảm có thể được sử dụng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ dân sự khác nhau Người nhận bảo đảm đầu tiên có trách nhiệm công khai hóa quyền của mình đối với tài sản, nhằm tránh rủi ro cho các bên nhận bảo đảm sau khi không biết về quyền lợi của người khác đã xác lập trên tài sản đó Pháp luật ưu tiên cho bên nhận bảo đảm hoàn thành trách nhiệm công khai, tạo điều kiện cho họ có thứ tự thanh toán cao hơn khi xử lý tài sản Những người nhận bảo đảm sau khi đã biết về quyền lợi của người khác mà vẫn tiếp tục nhận tài sản sẽ chấp nhận rủi ro có thứ tự ưu tiên thanh toán thấp hơn Do đó, thứ tự ưu tiên thanh toán nên dựa vào thời điểm công khai giao dịch bảo đảm hoặc thời điểm giao dịch có giá trị pháp lý với bên thứ ba, thay vì chỉ dựa vào thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm Cần xem xét sửa đổi Điều 325 BLDS năm 2005 theo hướng này.

- Thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ được xác định theo thứ tự thời điểm giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý với người thứ ba

Ví dụ: Ngày 5/6/2008, A cầm cố tài sản cho TCTD X và chuyển giao tài sản đó cùng ngày

Vào ngày 6/7/2008, A đã thế chấp tài sản cho Y và Y đã tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản sẽ ưu tiên cho X, vì thời điểm giao dịch bảo đảm giữa A và X có giá trị pháp lý đối với người thứ ba từ ngày chuyển giao tài sản (5/6/2008) Sau đó, đến Y, do thời điểm giao dịch bảo đảm giữa A và Y chỉ có giá trị pháp lý từ ngày đăng ký 6/7/2008, tức là sau X.

Trong trường hợp giao dịch bảo đảm đã có giá trị pháp lý, bên nhận bảo đảm sẽ được ưu tiên thanh toán so với bên nhận bảo đảm chưa xác lập giá trị pháp lý đối với người thứ ba.

Ví dụ: Ngày 1/4/2008, A thế chấp tài sản cho X và không đi đăng ký giao dịch bảo đảm

Ngày 5/6/2008, A thế chấp tài sản cho Y và đi đăng ký giao dịch bảo đảm

Ngày 10/6/2008, A cầm cố tài sản cho Z

Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên nhận bảo đảm được xác định là Y, với giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ ngày 5/6/2008 thông qua việc đăng ký.

Vào ngày 10/6/2008, giao dịch Z được thực hiện thông qua việc chuyển giao tài sản, mang lại giá trị pháp lý cho người thứ ba Ngược lại, giao dịch X, mặc dù đã có hiệu lực thi hành, nhưng lại không có giá trị pháp lý đối với người thứ ba.

Trong trường hợp các giao dịch bảo đảm chưa có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ được xác định dựa trên thời điểm mà giao dịch bảo đảm có hiệu lực.

Về cầm cố, thế chấp tài sản có giá trị nhỏ hơn một nghĩa vụ:

Nghị định số 163/2006/CP cần được điều chỉnh để bổ sung trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản có giá trị nhỏ hơn một nghĩa vụ Việc này sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp bảo đảm phù hợp với từng điều kiện cụ thể của khách hàng, đồng thời giúp tránh những hiểu lầm trong cách áp dụng quy định hiện nay.

Đề nghị nhanh chóng ban hành văn bản thay thế Thông tư liên tịch 03/2001/TTLT-BTP-BCA-BTC-TCĐC về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nhằm thu hồi nợ cho các TCTD, do Thông tư này đã hết hiệu lực và căn cứ ban hành là Nghị định 178/1999/NĐ-CP đã bị bãi bỏ Việc ban hành văn bản mới sẽ giúp khắc phục những khó khăn trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm hiện nay.

Sự thiếu đồng bộ của Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật Nhà ở:

Luật Nhà ở cần được điều chỉnh để phù hợp với Bộ luật Dân sự và các thông lệ quốc tế, đồng thời tôn trọng quyền tự do thỏa thuận và quyền tự quyết của các bên tham gia giao dịch Việc này sẽ giúp giảm thiểu sự khác biệt giữa Luật chung và luật chuyên ngành, tạo ra một môi trường pháp lý đồng bộ và thuận lợi hơn cho các giao dịch bất động sản.

Về công chứng hợp đồng giao dịch bảo đảm:

Xây dựng đội ngũ công chứng viên chuyên nghiệp với đào tạo chuyên sâu và hiểu biết vững về pháp luật là ưu tiên hàng đầu Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định trong Bộ luật Dân sự 2005, Nghị định số 163/2006/CP cùng các văn bản liên quan đến công chứng, chứng thực Đồng thời, cần xử lý nghiêm các vi phạm gây phiền hà cho tổ chức và cá nhân trong quá trình thực hiện công chứng.

Về đăng ký giao dịch bảo đảm:

Dự thảo Luật đăng ký giao dịch bảo đảm cần được xây dựng đồng bộ với Nghị định 163 và các quy định liên quan, nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại và đạt được các mục tiêu đã đề ra Việc pháp điển hoá các quy định này là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả trong việc đăng ký giao dịch bảo đảm.

Cần hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và khả thi trong các quy định liên quan đến lĩnh vực này.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:16

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w