1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hỏi cung bị can theo luật tố tụng hình sự việt nam (2)

138 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hỏi Cung Bị Can Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thành Lợi
Người hướng dẫn TS. LS. Nguyễn Hữu Thế Trạch
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP.Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 138
Dung lượng 14,23 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỎI CUNG BỊ CAN (15)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hỏi cung bị can (15)
      • 1.1.1. Khái niệm hỏi cung bị can (15)
      • 1.1.2. Đặc điểm hoạt động hỏi cung bị can (16)
      • 1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động hỏi cung bị can (18)
    • 1.2. Cơ sở quy định thủ tục hỏi cung bị can (19)
      • 1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự (19)
      • 1.2.2. Quan điểm lịch sử lập pháp về bảo đảm quyền của bị can nói riêng và quyền (22)
      • 1.2.3. Một số công ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên (23)
      • 1.2.4. Quyền công dân, quyền con người được Hiến pháp quy định (27)
      • 1.2.5. Một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can (28)
    • 1.3. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới (33)
      • 1.3.1. Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (33)
      • 1.3.2. Liên bang Nga (34)
      • 1.3.3. Cộng Hoà Liên bang Đức (36)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT (40)
    • 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi cung bị can (40)
      • 2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can (40)
      • 2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can (41)
      • 2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can (42)
      • 2.1.4. Hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi (48)
      • 2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung (51)
    • 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can (52)
      • 2.2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động hỏi cung bị can (52)
    • 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can (72)
    • 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can (76)
      • 3.2.1. Kiện toàn tổ chức Cơ quan điều tra (76)
      • 3.2.2. Nâng cao vai trò người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can (78)
      • 3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp, chế ước chặt chẽ giữa hai cơ quan Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hỏi cung bị can (79)
  • KẾT LUẬN (39)
  • PHỤ LỤC (87)

Nội dung

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỎI CUNG BỊ CAN

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hỏi cung bị can

1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can

Tố tụng hình sự yêu cầu tính công bằng, khách quan và tuân thủ đúng quy trình pháp luật Hỏi cung bị can là hoạt động quan trọng trong giai đoạn điều tra Thuật ngữ "bị can" đã xuất hiện trong các văn bản tố tụng đầu tiên của Việt Nam, và khái niệm pháp lý này được quy định lần đầu trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị can, theo quy định tại BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015, là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự, đánh dấu sự buộc tội chính thức từ Nhà nước Từ thời điểm khởi tố, bị can trở thành đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khác biệt rõ rệt so với người bị tạm giữ, đặc biệt trong việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự.

Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, các Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, 2003 và 2015 không đưa ra khái niệm chính thức về việc hỏi cung bị can Điều này cho thấy sự thiếu hụt trong việc xác định rõ ràng quy trình và quyền lợi của các bị can trong quá trình điều tra.

Theo Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc hỏi cung bị can được thực hiện bởi điều tra viên ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can Tuy nhiên, nội dung quy định này chỉ nêu rõ hoạt động hỏi cung mà không làm rõ bản chất và quy trình cụ thể của hoạt động hỏi cung bị can.

Nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau về hỏi cung bị can, theo ghi nhận từ một số công trình nghiên cứu khoa học hiện nay Các khái niệm này góp phần làm rõ hơn về quy trình và mục đích của việc hỏi cung trong lĩnh vực pháp lý.

Hỏi cung bị can là hoạt động điều tra hình sự do điều tra viên thực hiện nhằm thu thập lời khai của bị can về các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội Mục tiêu của hoạt động này là để thu thập thông tin chính xác và khách quan, giúp làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án.

Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra quan trọng, được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ Hoạt động này tác động trực tiếp đến tâm lý của bị can thông qua việc đặt ra các câu hỏi nhằm thu thập lời khai chính xác và đầy đủ.

Theo Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006), trong Từ điển luật học, trang 213, sự thật của vụ án cùng với các thông tin cần thiết là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho công tác điều tra và xử lý vụ án.

Hỏi cung bị can được định nghĩa là hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can Tuy nhiên, định nghĩa này chưa làm rõ cách thức thực hiện cụ thể của hoạt động hỏi cung.

Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra theo quy định pháp luật, nhằm làm rõ sự thật về hành vi phạm tội của người đã bị khởi tố hình sự và các đồng phạm liên quan.

Hỏi cung bị can là một thủ tục quan trọng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng tội phạm và người phạm tội Qua đó, quá trình này giúp xác định sự thật khách quan của vụ án và đảm bảo xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội.

Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, được thực hiện bởi điều tra viên hoặc kiểm sát viên Mục đích của việc hỏi cung là tác động trực tiếp vào tâm lý của bị can để thu thập lời khai trung thực, chính xác và đầy đủ về hành vi phạm tội, từ đó làm rõ nội dung vụ án.

1.1.2 Đặc điểm hoạt động hỏi cung bị can

Theo Điều 183 BLTTHS năm 2015, hoạt động hỏi cung bị can do ĐTV tổ chức và thực hiện, trong khi KSV có quyền hỏi cung bị can khi có khiếu nại về hoạt động điều tra hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật Ngoài ra, người bào chữa cũng có thể tham gia hỏi cung bị can nhưng phải được sự đồng ý của người có thẩm quyền.

4 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 402

5 Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr

6 Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, NXB Công an nhân dân, tr 270

Đối tượng chính của hoạt động hỏi cung là bị can, người bị khởi tố hình sự, mà cơ quan điều tra đã có đủ căn cứ xác định họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo Bộ luật hình sự Từ thời điểm khởi tố, Nhà nước thể hiện sự buộc tội đối với cá nhân này Theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, người có thẩm quyền sẽ tiến hành hỏi cung nhằm tác động trực tiếp đến tâm lý của bị can, qua đó khai thác thông tin và tình tiết liên quan đến vụ án.

Hoạt động hỏi cung bị can là một quá trình phức tạp, trong đó bị can trình bày lời khai liên quan đến hành vi phạm tội Tuy nhiên, lời khai này có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan và chủ quan, dẫn đến sai lệch hoặc không trung thực Thường xảy ra mâu thuẫn giữa cán bộ điều tra, người mong muốn làm rõ sự thật của vụ án, và bị can, người luôn tìm cách che giấu sự thật để trốn tránh trách nhiệm.

Cơ sở quy định thủ tục hỏi cung bị can

1.2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự Đảng và Nhà nước ta coi việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa then chốt đối với việc bảo đảm và phát triển quyền con người Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam năm 1946 chỉ gồm 70 điều, nhưng đã dành 18 điều cho việc quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, được trình bày tập trung và đặt trang trọng ở vị trí ưu tiên, ngay tại Chương II

Khái niệm Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được đề cập bởi cố Tổng bí thư Đỗ Mười trong bài phát biểu tại Hội nghị tập huấn ngành tư pháp toàn quốc năm 1992 và được chính thức công nhận trong Hiến pháp 1992 tại kỳ họp Quốc hội khóa VIII Mặc dù ý kiến về Nhà nước pháp quyền đã được đưa ra trong quá trình xây dựng Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, nhưng chưa được chấp nhận Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), khái niệm này được ghi nhận với nội dung “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.” Tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội VIII và IX của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam khẳng định rõ vai trò của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa là pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đại diện cho Nhân dân và vì lợi ích của Nhân dân Quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức Sự thống nhất trong quyền lực nhà nước được đảm bảo thông qua sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành khoảng 20.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó nhiều đạo luật liên quan trực tiếp đến quyền con người như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự và Luật giáo dục Hiện nay, chúng ta đang triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020 nhằm tạo khung pháp lý hoàn chỉnh hơn, bảo đảm quyền công dân Đảng và Nhà nước coi con người là trung tâm trong quá trình phát triển, với các quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và các văn kiện của Đảng Các nghị quyết của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh vai trò của các cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người, khẳng định rằng con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước.

Từ khi thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo đã được nâng cao và chú trọng hơn bao giờ hết Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến quyền con người và quyền lợi hợp pháp của cá nhân, đặc biệt khi họ thực hiện nghĩa vụ hoặc tham gia vào hoạt động của cơ quan nhà nước Điều này phản ánh sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với cá nhân trong xã hội, được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện sự đổi mới tư duy lý luận trong công cuộc đổi mới Nhà nước pháp quyền có những dấu hiệu cơ bản như: tính tối cao của luật, sự phân công và phối hợp thực hiện quyền lực công cộng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, dân chủ trong hoạt động của Nhà nước, bảo đảm quyền con người, và tuân thủ các hiệp ước cũng như luật pháp quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập.

Bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ dựa vào quy định pháp luật mà còn phụ thuộc vào việc thực thi và bảo vệ các quyền này trong thực tế.

Bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của bị can trong tố tụng hình sự, là biểu hiện của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người Nhà nước có trách nhiệm không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đảm bảo mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, và có điều kiện phát triển toàn diện, đồng thời nghiêm trị các hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

1.2.2 Quan điểm lịch sử lập pháp về bảo đảm quyền của bị can nói riêng và quyền con người nói chung

Hỏi cung bị can là hoạt động quan trọng liên quan đến quyền con người và quyền của người bị buộc tội, do cơ quan có thẩm quyền thực hiện Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với các bản Hiến pháp từ 1946 đến 2013, mỗi bản đều thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người Hiến pháp 2013 khẳng định mạnh mẽ việc thừa nhận và bảo vệ quyền con người, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu phát huy dân chủ và đảm bảo quyền công dân Điều này đánh dấu sự phát triển trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước về việc đảm bảo quyền con người trong các hoạt động tố tụng.

Bài viết của Nguyễn Duy Quý (1992) với tiêu đề “Xây dựng Nhà nước pháp luật: một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, trang 2, đề cập đến những quan điểm và suy nghĩ về việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực thi pháp luật và bảo vệ quyền lợi của công dân trong quá trình phát triển đất nước.

Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, nhấn mạnh việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền tự do và dân chủ của công dân Cải cách thủ tục tố tụng tư pháp không chỉ nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp mà còn đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh mới Đặc biệt, việc tăng cường khả năng phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội, đồng thời ngăn chặn oan sai cho người vô tội là rất cần thiết Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ quan điểm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các thủ tục tố tụng hình sự, bao gồm cả quy trình hỏi cung bị can.

1.2.3 Một số công ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên

Hội nhập quốc tế là xu hướng phát triển toàn cầu, và Việt Nam đã tích cực tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế cũng như khu vực, trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương liên quan đến quyền con người và phòng chống tội phạm Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn các công ước quan trọng như Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948, Công ước về quyền dân sự và chính trị 1966, và Công ước chống tra tấn năm 1984 Những công ước này khẳng định các quyền cơ bản của con người, bao gồm quyền không bị tra tấn, quyền tự do và an toàn cá nhân, cũng như quyền được coi là vô tội cho đến khi có bằng chứng pháp lý chứng minh ngược lại.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đối mặt với nhiều áp lực về quyền con người, nhưng đã vượt qua nhờ các biện pháp hiệu quả Việt Nam từng bước tham gia các công ước và diễn đàn quốc tế về quyền con người, đồng thời sửa đổi Hiến pháp và pháp luật để cam kết bảo vệ và thúc đẩy quyền con người Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cải thiện thực trạng quyền con người trong nước, kết hợp giữa đối thoại và đấu tranh với áp lực từ bên ngoài Việc phát triển kinh tế thị trường và mở cửa cho đầu tư nước ngoài đã biến Việt Nam thành điểm đến hấp dẫn cho các đối tác toàn cầu Điều này giải thích vì sao quy định về nhân quyền trong Hiến pháp 2013 có nhiều tiến bộ so với các bản Hiến pháp trước.

Công ước chống tra tấn, mà Việt Nam tham gia, không chỉ cấm hành vi tra tấn mà còn yêu cầu các biện pháp ngăn chặn hiệu quả Ngoài ra, công ước này cũng nghiêm cấm việc sử dụng bất kỳ bằng chứng nào được thu thập thông qua phương pháp tra tấn.

Nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền và tăng cường pháp chế trong thời kỳ hội nhập, Việt Nam chú trọng đến chính sách đối ngoại, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp và bảo đảm quyền con người Điều này được thể hiện qua việc tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như đã được ghi nhận trong Điều 12 của Hiến pháp 2013 Cụ thể, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau Việt Nam cam kết là bạn bè, đối tác tin cậy, góp phần vào hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội toàn cầu.

Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới

1.3.1 Cộng hoà nhân dân Trung Hoa

Bộ luật TTHS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định từ Mục 2 đến Mục 8 của Chương 2, Phần II về các biện pháp điều tra, bao gồm thẩm vấn nghi can, hỏi người làm chứng, điều tra và thẩm cứu, khám xét, bắt giữ, tài liệu đồ vật làm chứng, truy nã và giám định Trong số đó, biện pháp thẩm vấn nghi can được quy định tại Mục 2, là biện pháp điều tra đầu tiên mà cơ quan điều tra phải thực hiện khi tiến hành điều tra vụ án.

Bộ luật TTHS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không sử dụng thuật ngữ

Trong quá trình điều tra, thuật ngữ "thẩm vấn nghi can" được sử dụng thay cho "hỏi cung bị can" Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự không định nghĩa cụ thể về thẩm vấn nghi can, nhưng nó đã quy định rõ ràng về trình tự và thủ tục liên quan đến quá trình này trong các điều luật cụ thể.

Khi thẩm vấn nghi can, ĐTV của VKSND hoặc cơ quan công an phải có ít nhất hai ĐTV tham gia Nghi can có thể bị triệu tập đến địa điểm chỉ định trong thành phố hoặc thị trấn nơi cư trú, hoặc thẩm vấn tại nơi ở của họ Thời gian thẩm vấn không được vượt quá 12 giờ kể từ khi triệu tập hoặc buộc phải trình diện, và việc triệu tập không được lợi dụng để giam giữ nghi can.

Theo Điều 65 BLTTHS, cơ quan công an phải thẩm vấn người bị tạm giữ trong vòng 24 giờ và nếu không cần thiết, phải trả tự do ngay Nếu cần thiết phải giữ người nhưng chưa đủ chứng cứ, có thể cho phép bảo lãnh tạm hoãn xét xử Điều 95 quy định rằng khi thẩm vấn nghi can, điều tra viên (ĐTV) phải hỏi về hành vi phạm tội và cho phép nghi can trình bày sự vô tội, đồng thời nghi can có quyền từ chối trả lời các câu hỏi không liên quan đến vụ án.

Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã được thông qua vào ngày 01 tháng 7 năm 1979 tại kỳ họp thứ hai của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 5 Bộ luật này đã được sửa đổi vào ngày 17 tháng 3 năm 1996 và vẫn có hiệu lực cho đến nay.

11 Bộ luật TTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1979, sửa đổi bổ sung năm 1996

Khi thẩm vấn nghi can bị câm hoặc điếc, cần có cán bộ thông thạo ngôn ngữ dấu hiệu tham gia, và mọi tình huống liên quan phải được ghi chép cẩn thận vào biên bản.

Biên bản thẩm vấn phải được cung cấp cho nghi can để xem, và nếu họ không thể đọc, nội dung cần được đọc cho họ nghe Nghi can có quyền bổ sung hoặc sửa chữa nếu phát hiện biên bản thiếu sót hoặc không chính xác Khi nghi can xác nhận biên bản là chính xác, họ phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đó, cùng với chữ ký của điều tra viên Nếu nghi can yêu cầu, họ có thể viết một bản tường trình, và điều tra viên cũng có thể yêu cầu nghi can thực hiện việc này khi cần thiết.

Sau khi bị thẩm vấn lần đầu hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn, nghi can có quyền chỉ định luật sư để được tư vấn pháp lý và thực hiện khiếu nại, tố cáo Trong trường hợp bị bắt, luật sư có thể yêu cầu bảo lãnh cho nghi can trong thời gian chờ xét xử Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, việc chỉ định luật sư phải được CQĐT phê chuẩn Luật sư có quyền yêu cầu CQĐT cung cấp thông tin về tội phạm bị tình nghi và gặp gỡ nghi can trong trại giam để tìm hiểu vụ án Trong các cuộc gặp này, CQĐT có thể cử người tham gia nếu cần thiết, và đối với các vụ án bí mật nhà nước, luật sư cần có sự phê chuẩn trước khi gặp nghi can.

Xem xét quy định về trình tự và thủ tục thẩm vấn nghi can trong Bộ luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc và hỏi cung trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam cho thấy nhiều điểm tương đồng giữa hai hệ thống pháp luật này.

Bộ luật TTHS Liên bang Nga bao gồm 5 phần chính, được chia thành 18 chương Phần đầu tiên quy định những điều chung, phần thứ hai tập trung vào thủ tục tố tụng trước khi xét xử, phần thứ ba là quy trình xét xử, phần thứ tư đề cập đến thủ tục đặc biệt, và phần cuối cùng là hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

Bộ luật TTHS Liên bang Nga và pháp luật TTHS Việt Nam có nhiều điểm tương đồng Khi nghiên cứu các biện pháp điều tra, có thể thấy rằng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Cơ quan Điều tra (CQĐT) thực hiện các biện pháp như khởi tố bị can.

Bộ luật TTHS Liên bang Nga, được Đuma quốc gia thông qua vào ngày 22/12/2001 và phê chuẩn bởi Hội đồng Liên bang Nga vào ngày 05/12/2001, quy định các biện pháp như hỏi cung bị can, khám xét, thu giữ, và tạm giữ bưu kiện, bưu phẩm, cũng như kiểm tra và ghi âm các cuộc đàm thoại Đặc biệt, biện pháp hỏi cung bị can được nêu rõ trong Mục 23 của Chương VIII - Điều tra.

Bộ luật TTHS Liên bang Nga không sử dụng thuật ngữ "người bị bắt" hay "người bị tạm giữ", mà thay vào đó áp dụng thuật ngữ chung "người tình nghi" Theo Điều 76, lời khai của người bị tình nghi được định nghĩa là thông tin mà họ cung cấp trong quá trình lấy lời khai, diễn ra trước khi xét xử và tuân thủ các quy định từ Điều 187 đến 190 của Bộ luật này.

Thủ tục lấy lời khai theo Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga được quy định chi tiết về trình tự, thời gian, địa điểm và biên bản ghi lời khai Cụ thể, Điều 187 quy định rằng việc lấy lời khai diễn ra tại nơi điều tra, nhưng Dự thẩm viên có thể thực hiện tại nơi ở của đương sự nếu cần thiết Thời gian lấy lời khai không quá 4 tiếng liên tục và phải có thời gian nghỉ ít nhất 1 giờ, tổng thời gian trong một ngày không vượt quá 8 giờ Dự thẩm viên hỏi cung người tình nghi ngay sau khi đưa ra cáo buộc, cần làm rõ việc nhận tội và ngôn ngữ khai báo Nếu người tình nghi từ chối khai báo, điều này phải được ghi nhận trong biên bản Mỗi lần hỏi cung phải lập biên bản theo quy định, trong đó ghi rõ thông tin nhân thân người tình nghi như họ tên, ngày sinh, quốc tịch, trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, nơi làm việc, và tiền án (nếu có) Biên bản phải tuân thủ quy định tại Điều 166 và 167 của Bộ luật.

13 Điều 187 đến Điều 190 BLTTHS Liên bang Nga 2001, bổ sung năm 2006

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên bang Nga, người có thẩm quyền tiến hành hỏi cung là Dự thẩm viên, người có trách nhiệm điều tra vụ án trong phạm vi quyền hạn Đối với người nghi ngờ dưới 18 tuổi, luật quy định rõ về việc lấy lời khai nhằm bảo vệ quyền lợi của họ Cụ thể, việc lấy lời khai không được kéo dài quá 2 giờ liên tục và tổng thời gian trong một ngày không quá 4 giờ Người bào chữa có quyền tham gia, đặt câu hỏi và xem xét biên bản sau khi kết thúc Đối với người chưa đủ 16 tuổi hoặc những người từ 16 tuổi trở lên nhưng có rối loạn tâm thần hoặc chậm phát triển tâm sinh lý, sự tham gia của nhà sư phạm hoặc nhà tâm lý là bắt buộc.

1.3.3 Cộng Hoà Liên bang Đức

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:16

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
24. Trường Đại học Cần Thơ (2006), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Mạc Giáng Châu, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Cần Thơ
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật
Năm: 2006
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
Năm: 2004
26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình khoa học điều tra hình sự, Nxb Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình khoa học điều tra hình sự
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
Năm: 2001
27. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh chủ biên, Nxb Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
Năm: 2015
28. Võ Thị Kim Oanh (2010), Bảo đảm quyền con người trong Tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền con người trong Tư pháp hình sự Việt Nam
Tác giả: Võ Thị Kim Oanh
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
Năm: 2010
29. Võ Thị Kim Oanh (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Tác giả: Võ Thị Kim Oanh
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
Năm: 2016
30. Trần Quang Tiệp (2013), Chế định chứng cứ trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định chứng cứ trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trần Quang Tiệp
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2013
31. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Trần Quang Tiệp
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2003
32. Lê Vũ Huy (2012), Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
Tác giả: Lê Vũ Huy
Năm: 2012
33. Võ Thị Thanh Thúy (2011), Bắt, tạm giữ , tạm giam là người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bắt, tạm giữ , tạm giam là người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Võ Thị Thanh Thúy
Năm: 2011
34. Đỗ Thị Phượng (2007), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Đỗ Thị Phượng
Năm: 2007
35. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ
Tác giả: Lương Thị Mỹ Quỳnh
Năm: 2011
36. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2009), Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tử pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tử pháp ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hữu Thế Trạch
Năm: 2009
37. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hữu Thế Trạch
Năm: 2014
38. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị, tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền con người của người bị, tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Lại Văn Trình
Năm: 2011
39. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2012), Tài liệu tập huấn tư pháp người chưa thành niên, Nxb Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu tập huấn tư pháp người chưa thành niên
Tác giả: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Nhà XB: Nxb Lao động
Năm: 2012
42. Võ Quốc Công (2005), Vấn đề bắt giữ oan, sai trong hoạt động điều tra vụ án hình sự và một số giải pháp khắc phục của Cơ quan cảnh sát điều tra hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề bắt giữ oan, sai trong hoạt động điều tra vụ án hình sự và một số giải pháp khắc phục của Cơ quan cảnh sát điều tra hiện nay
Tác giả: Võ Quốc Công
Năm: 2005
49. “Báo cáo quốc gia về thực thi công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn”, http://bocongan.gov.vn/van-ban/van-ban-moi/bao-cao-quoc-gia-ve-thuc-thi-cong-uoc-cua-lien-hop-quoc-ve-chong-tra-tan-260.html, truy cập ngày 20/01/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo quốc gia về thực thi công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn
50. “Quốc hội thảo luận về án oan, sai và bồi thường oan, sai trong tố tụng”, https://vtv.vn/chinh-tri/quoc-hoi-thao-luan-ve-an-oan-sai-va-boi-thuong-oan-sai-trong-to-tung-20150605091633181.htm, truy cập ngày 07/3/2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc hội thảo luận về án oan, sai và bồi thường oan, sai trong tố tụng
52. Hoài Thu (2015) “Oan sai vì điều tra viên năng lực kém, tư tưởng nóng vội”, http://www.baogiaothong.vn/oan-sai-vi-dieu-tra-vien-nang-luc-kem-tu-tuong-nong-voi-d108241.html, truy cập ngày 18/3/2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Oan sai vì điều tra viên năng lực kém, tư tưởng nóng vội

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w