LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH PHÁT SÓNG TRÊN TRUYỀN HÌNH
Khái quát về quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh phát sóng trên truyền hình
1.1.1 Khái niệm tác phẩm điện ảnh phát sóng trên truyền hình
Trong suốt quá trình phát triển của nhân loại, việc sản xuất giá trị vật chất để đáp ứng nhu cầu sinh học chỉ là một phần, trong khi hoạt động sáng tạo ra giá trị văn hóa và nghệ thuật lại đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần Kết quả của quá trình sáng tạo này chính là những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc đối với xã hội.
Trong lĩnh vực pháp lý, tác phẩm được công nhận là một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền tác giả, theo quy định của pháp luật nhiều quốc gia.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, tác phẩm được định nghĩa là “sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học, được thể hiện qua bất kỳ phương tiện hoặc hình thức nào.”
Luật Bản quyền của Liên bang Thụy Sỹ xác định tác phẩm là những sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật, mang tính cách cá nhân mà không phụ thuộc vào giá trị hay mục đích của chúng.
Tác phẩm văn học nghệ thuật không chỉ được quy định trong pháp luật sở hữu trí tuệ của từng quốc gia mà còn được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế Khái niệm này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của tác giả và đảm bảo sự phát triển của nền văn hóa toàn cầu.
“các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào” 3
Như vậy, tuy được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng tựu chung lại thì
Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo của con người trong các lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, được thể hiện dưới một hình thức cụ thể và phản ánh dấu ấn cá nhân của người sáng tạo.
Một tác phẩm luôn có các đặc điểm sau đây:
1 Khoản 2 Điều 1 của Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ
2 Khoản 1 Điều 2 Luật Bản quyền Liên bang Thụy Sỹ
3 Khoản 1 Điều 2 Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật
Tác phẩm sáng tạo luôn mang tính nguyên gốc, bắt nguồn từ sự lao động của tác giả, và quyền tác giả bảo hộ cách thức độc đáo diễn đạt ý tưởng, không bảo vệ ý tưởng hay sự kiện thực tế Mặc dù không nhất thiết phải mới, tác giả có thể kế thừa và tiếp thu có chọn lọc từ các tác phẩm trước đó để tạo ra sản phẩm của mình Điều kiện để một sản phẩm tinh thần được công nhận là nó phải mang dấu ấn cá nhân của người tạo ra, với tính độc đáo làm nên giá trị của tác phẩm.
Tác phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học là những sáng tạo mang tính đặc thù, khác biệt với các sáng tạo trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, vốn chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề kỹ thuật và mỹ thuật với mục đích thương mại Trong khi đó, sáng tạo văn học và nghệ thuật tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người về văn hóa, tình cảm và hiểu biết.
Thứ ba, tác phẩm là sự sáng tạo được thể hiện bởi một hình thức nhất định
Hình thức thể hiện của tác phẩm được quy định khác nhau trong các văn bản pháp luật Theo Công ước Berne, hình thức thể hiện không chỉ giới hạn ở các hình thức vật chất mà còn bao gồm các hình thức khác, miễn là công chúng có thể nhận biết sự tồn tại của tác phẩm Tuy nhiên, một số quốc gia có thể có quy định riêng trong pháp luật sở hữu trí tuệ, yêu cầu tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức vật chất cụ thể.
4 Cục sở hữu trí tuệ (2005), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, Nxb Hà Nội, tr.42
5 Richard Stim (2007), Patent, copyright & trademark, Consolidated printers, United States, pp 186
6 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật sở hữu trí tuệ, Nxb Hồng Đức, TP Hồ Chí Minh, tr.100
7 Kiều Thanh (2001),“Những khác biệt cơ bản giữa 2 lĩnh vực của sở hữu trí tuệ”, Luật học, (02) ,tr 48-54
8 Vũ Thị Phương Lan (2005), “Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật”, Luật học
Theo Khoản 1 Điều 739 BLDS số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 và Khoản 5 Điều 4 Văn bản hợp nhất số 3198/VBHN-BVHTTDL ngày 03 tháng 09 năm 2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được quy định rõ ràng.
Tác phẩm điện ảnh là một loại hình nghệ thuật, được định nghĩa trong pháp luật Việt Nam là “sản phẩm nghệ thuật được biểu hiện bằng hình ảnh động kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh.” Khái niệm này tương tự như khái niệm trong pháp luật Hoa Kỳ, cho thấy sự tương đồng trong cách hiểu về tác phẩm điện ảnh giữa hai quốc gia.
Các tác phẩm nghe nhìn bao gồm một chuỗi hình ảnh liên quan, khi được trình chiếu liên tục sẽ tạo ấn tượng về chuyển động, kèm theo âm thanh nếu có Tác phẩm điện ảnh, được hiểu là những hình ảnh chụp liên kết với nhau, mang lại cảm giác chuyển động và có thể có âm thanh, là một hình thức nghệ thuật văn học đặc biệt Tác phẩm điện ảnh tác động đến giác quan con người thông qua hình ảnh động và âm thanh, đồng thời được công nhận là đối tượng sở hữu trí tuệ theo pháp luật của nhiều quốc gia và điều ước quốc tế.
Tác phẩm điện ảnh là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, yêu cầu sự tham gia của nhiều chủ thể qua các giai đoạn khác nhau, trong đó mỗi chủ thể đóng vai trò không thể thay thế Các thành phần như đạo diễn, biên kịch, quay phim, dựng phim, nhạc nền, thiết kế mỹ thuật, âm thanh, ánh sáng, đạo cụ và kỹ xảo đều có mức độ quan trọng như nhau trong việc tạo ra một tác phẩm hoàn chỉnh Ngoài ra, tác phẩm điện ảnh cũng có thể được phát triển từ các tác phẩm khác, như phim chuyển thể từ văn học, dẫn đến mối quan hệ giữa quyền tác giả của tác phẩm điện ảnh và tác phẩm gốc Tuy nhiên, theo Công ước Berne, tác phẩm điện ảnh vẫn được coi là một tác phẩm gốc, miễn là không vi phạm quyền tác giả của tác phẩm đã được sử dụng để chuyển thể.
10 Khoản 2 Điều 4 Luật điện ảnh số 62/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Quốc hội
11 Điều 101 Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ
12 Vụ pháp luật quốc tế, tlđd, tr.98
Khoản 5 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ, Điều 2 Công ước Berne, Điều 102 Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ và Điều 10 Luật Quyền tác giả Nhật Bản đều công nhận rằng người sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh sẽ được hưởng những quyền tương tự như tác giả của tác phẩm gốc.
Tác phẩm điện ảnh bao gồm nhiều loại hình như phim tài liệu, phim truyện, phim khoa học và phim hoạt hình, được phân loại dựa trên nội dung và cách thức sản xuất Phim truyền hình, một loại hình phim được sản xuất bằng kỹ thuật video và phát sóng trên truyền hình, có mức độ phổ biến cao hơn so với phim chiếu rạp và phim video nhờ khả năng tiếp cận rộng rãi đến người xem.
Khái quát về chuyển quyền sử dụng quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh phát sóng trên truyền hình
1.2.3 Sơ lược quá trình phát triển của chế định chuyển quyền sử dụng quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh
Quyền tác giả xuất hiện song hành với sự phát triển của kỹ thuật in ấn, bắt đầu từ phát minh của Gutenberg vào khoảng năm 1450-1455, cho phép sản xuất sách hàng loạt với chi phí thấp Tuy nhiên, điều này khiến tác giả gặp khó khăn trong việc kiểm soát và quản lý các bản sao tác phẩm của mình, cũng như đảm bảo rằng chúng đến tay đúng đối tượng đã trả tiền Sự ra đời của máy in và các học thuyết về quyền sở hữu trí tuệ đã làm nổi bật nhu cầu ghi nhận quyền lợi của tác giả như một quyền pháp lý đối với tác phẩm của mình, nhằm bảo vệ tài sản vô hình này.
Anh là quốc gia đầu tiên ban hành luật về quyền tác giả với Luật của nữ hoàng Anne vào năm 1790, gây ra nhiều tranh cãi về việc thống nhất khái niệm tài sản hữu hình và vô hình Sự phản đối chủ yếu xoay quanh việc xác định khả năng chiếm hữu ý tưởng trí tuệ, điều này là cần thiết trong luật truyền thống về tài sản Hệ thống pháp luật bản quyền của Anh đã dựa trên quan điểm rằng tài sản hữu hình có thể đo đếm qua "sức lao động" tích tụ, trong khi tài sản vô hình được xác định qua dấu hiệu nhận dạng Mặc dù Luật của nữ hoàng Anne là luật quyền tác giả hiện đại đầu tiên, nhưng phạm vi bảo hộ của nó chỉ giới hạn trong các tác phẩm viết, chủ yếu là sách, mà chưa bao gồm các hình thức sản phẩm trí tuệ khác.
Sau Anh, các quốc gia khác cũng ban hành luật Quyền tác giả: Mỹ (1790), Pháp
(1791) và Đức Có thể thấy quyền tác giả phát sinh ở các nước theo hệ thống thông
52 Gordon V Smith, Russell L Parr (2005), Intellectual property, validation, exploitation and infringement damages, John Wiley & Sons, United States of America, tr.3
53 Graham Dutfield, Uma Suthersanen (2008), Global intellectual property law, Edward Elga Publishing,
Luật quyền tác giả tại Vương quốc Anh và các quốc gia khác trong giai đoạn này chủ yếu chỉ bảo vệ các tác phẩm viết, chưa mở rộng đến các thể loại khác Ví dụ, luật quyền tác giả của Hoa Kỳ năm 1790 chỉ bảo vệ quyền lợi của tác giả và nhà xuất bản đối với sách và bản đồ.
Khác với các tác phẩm in ấn đã được công nhận là đối tượng bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ từ lâu, các sản phẩm nghe nhìn như tác phẩm điện ảnh và bản ghi âm thanh chỉ mới được công nhận quyền tác giả từ nửa đầu thế kỷ XIX, do sự xuất hiện muộn màng của các thể loại này, là kết quả của việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong thế kỷ XIX và XX.
Theo Công ước Berne năm 1886, bản ghi âm thanh không được bảo vệ bởi quyền tác giả do không được coi là tác phẩm Đến năm 1936, luật pháp Áo đã giải quyết vấn đề này bằng cách phân chia quyền tác giả thành hai phần: quyền của tác giả (Urheberrecht) và quyền liên quan (Verwandte).
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm và nhà phát sóng được quy định bởi các Schutzrechte Tương tự, trong lĩnh vực điện ảnh, các đạo luật tại nhiều nước châu Âu đã công nhận đạo diễn phim là "tác giả sáng tạo" với quyền tác giả được bảo hộ suốt đời và 70 năm sau khi mất Ngược lại, nhà sản xuất phim chỉ được bảo vệ một số quyền nhất định để đảm bảo lợi nhuận từ đầu tư tài chính Trong khi đó, ở các nước theo hệ thống thông luật, đạo diễn không được pháp luật bảo hộ, còn nhà sản xuất lại được bảo vệ quyền tác giả đối với bộ phim.
55 Graham Dutfield, Uma Suther Sanen, tlđd, tr.68
56 Cuốn phim ghi lại hình ảnh chuyển động lâu nhất còn được biết đến ngày nay là Roundhay Garden
Cảnh quay đầu tiên được thực hiện với tốc độ 12 khung hình trên giây tại Leeds, Anh vào năm 1888 Ngày 28/12/1895 được coi là ngày khai sinh của điện ảnh như một môn nghệ thuật, khi anh em Lumière tổ chức buổi chiếu có bán vé cho một loạt phim ngắn tại Salon Indien, nằm dưới tầng hầm của quán cà phê Grand Café ở Paris.
Chủ sở hữu (duy nhất hoặc đồng sở hữu) của bộ phim sẽ giữ quyền sở hữu trong suốt cuộc đời của họ và kéo dài thêm 70 năm sau khi họ qua đời.
Trải qua nhiều thế kỷ, ngành công nghiệp điện ảnh đã được công nhận là một dạng tác phẩm được bảo hộ bởi quyền tác giả theo pháp luật sở hữu trí tuệ của các quốc gia, bao gồm cả các điều ước quốc tế như công ước Berne Việc khai thác và sử dụng các tác phẩm điện ảnh tương tự như các tác phẩm khác, với quy định chuyển quyền sử dụng quyền tác giả Tại Việt Nam, trước khi Bộ luật Dân sự 1995 ra đời, các quy định về sở hữu trí tuệ và quyền tác giả đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật như Luật Báo chí năm 1989 và Luật Xuất bản năm 1993, nhằm cụ thể hoá chủ trương của Đảng và ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992.
Công dân có quyền tham gia nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế và cải tiến kỹ thuật, đồng thời sáng tác và phê bình trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật Nhà nước cam kết bảo vệ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp của công dân.
Chương III của Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả quy định về chuyển quyền sử dụng tác phẩm, trong đó "quyền tác giả" không được xem như một loại tài sản mà là quyền liên quan đến "tác phẩm" Điều này có nghĩa là đối tượng của hợp đồng sử dụng là tác phẩm chứ không phải quyền tác giả Tuy nhiên, Pháp lệnh vẫn sử dụng thuật ngữ "chủ sở hữu quyền tác giả" thay vì "chủ sở hữu tác phẩm".
Kể từ khi Bộ luật Dân sự 1995 được ban hành, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể Các quy định liên quan đến sở hữu trí tuệ được quy định rõ ràng trong Bộ luật Dân sự, góp phần nâng cao nhận thức và bảo đảm quyền lợi cho các chủ sở hữu.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự (BLDS) đã đưa ra các quy định về quyền tác giả trong chương I, phần thứ 6, từ điều 745 đến điều 779 Các quy định này không chỉ kế thừa mà còn phát triển từ Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, đặc biệt là những quy định liên quan đến việc chuyển quyền sử dụng tác phẩm.
58 Graham Dutfield, Uma Suthersanen, tlđd, tr.73
59 Khoản 1 Điều 2 Công ước Berne 1971, Điều 1 Công ước toàn cầu về quyền tác giả
Bộ luật Dân sự 1995 có hiệu lực từ ngày 01/7/1996, quy định tại điều 763 và Mục 3 Chương I phần thứ 6 (từ điều 767 đến điều 772) Mặc dù kế thừa một số nội dung từ Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, BLDS 1995 đã thay đổi thuật ngữ "chủ sở hữu quyền tác giả" thành "chủ sở hữu tác phẩm" để phù hợp hơn với cách tiếp cận xem tác phẩm là đối tượng của hợp đồng Đồng thời, BLDS 1995 cũng loại bỏ quy định về quyền huỷ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu quyền tác giả khi hết thời hạn sử dụng mà bên sử dụng không công bố tác phẩm Sự thay đổi này phản ánh bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, trong đó các nội dung không thuộc về sự can thiệp của pháp luật nên được quyết định dựa trên sự bình đẳng và tự nguyện.
Sau một thời gian thi hành Bộ luật Dân sự 1995, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo hộ quyền tác giả, bao gồm việc xây dựng cơ sở pháp lý tập trung và thống nhất Điều này đã tạo tiền đề cho Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả, đặc biệt là việc gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật vào ngày 26 tháng 7 năm 2004, với hiệu lực chính thức từ ngày 26 tháng 10 năm 2004.
Tháng 5 năm 2005, BLDS 1995 được sửa đổi bổ sung cơ bản (gọi tắt là BLDS