1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giao kết hợp đồng bằng văn bản những vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sỹ luật)

83 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giao Kết Hợp Đồng Bằng Văn Bản Theo Quy Định Của Pháp Luật Hiện Hành
Tác giả Đặng Thị Diệu Vân
Người hướng dẫn THS. Chế Mỹ Phương Đài
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 1,35 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN (10)
    • 1.1. Giao kết HĐDS: khái niệm, trình tự và thời điểm giao kết (10)
      • 1.1.1. Khái niệm giao kết HĐDS (10)
      • 1.1.2 Trình tự tiến hành giao kết HĐDS (12)
      • 1.1.2. Thời điểm giao kết HĐDS (14)
    • 1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản và các hình thức hợp đồng bằng văn bản (16)
      • 1.2.1. Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản (17)
      • 1.2.2. Các hình thức hợp đồng bằng văn bản theo quy định của pháp luật (18)
        • 1.2.2.1. Hợp đồng bằng văn bản thông thường (19)
        • 1.2.2.2. Hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực (21)
        • 1.2.2.3. Hợp đồng điện tử (23)
    • 1.3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản và ý nghĩa của việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (25)
      • 1.3.1. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (25)
        • 1.3.1.1. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường (25)
        • 1.3.1.2. Thời điểm giao kết hợp đồng văn bản có công chứng, chứng thực (28)
        • 1.3.1.3. Thời điểm giao kết hợp đồng điện tử (32)
      • 1.3.2. Ý nghĩa của việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (34)
  • CHƯƠNG 2. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN- THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN (0)
    • 2.1. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về (36)
      • 2.1.2. Bất cập về giao kết hợp đồng bằng văn bản trong trường hợp thư chấp nhận giao kết hợp đồng đến trễ hạn (38)
      • 2.1.3. BLDS không quy định thời hạn mà bên được đề nghị phải trả lời chấp nhận giao kết trong trường hợp bên đề nghị không quy định (0)
      • 2.1.4. Bất cập về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (40)
      • 2.1.5. Bất cập về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (45)
      • 2.1.6. BLDS chưa quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực (0)
      • 2.1.7. BLDS chưa quy định thời điểm giao kết hợp đồng điện tử (0)
      • 2.1.8. BLDS chưa quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (0)
    • 2.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng bằng văn bản (56)
      • 2.2.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 397 BLDS về thời trả lời chấp nhận (56)
      • 2.2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản (57)
      • 2.2.3. Quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản phải công chứng, chứng thực (59)
      • 2.2.4. Quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng điện tử (60)
  • KẾT LUẬN (61)

Nội dung

LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN

Giao kết HĐDS: khái niệm, trình tự và thời điểm giao kết

1.1.1 Khái niệm giao kết HĐDS

Hợp đồng, với lịch sử lâu dài trong pháp luật dân sự, ngày càng trở nên quan trọng khi nền kinh tế phát triển và các giao dịch dân sự gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người Để một hợp đồng dân sự có hiệu lực, các bên cần tiến hành giao kết hợp đồng, từ đó xác lập quyền và nghĩa vụ ràng buộc giữa họ.

BLDS năm 2005 không quy định thế nào là giao kết hợp đồng mà chỉ quy định về trình tự trong quá trình giao kết hợp đồng

Giao kết hợp đồng là quá trình mà các bên thể hiện ý chí của mình để thiết lập hợp đồng thông qua việc bàn bạc, trao đổi và thương lượng, tuân theo các nguyên tắc và trình tự pháp luật quy định Quá trình này nhằm mục đích xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên.

Để giao kết hợp đồng dân sự (HĐDS), cần có ít nhất hai bên chủ thể thống nhất về nội dung hợp đồng Các bên có thể đơn phương bày tỏ ý chí mong muốn xác lập hợp đồng, tuy nhiên, điều này chỉ ràng buộc quyền và nghĩa vụ của bên đề nghị HĐDS phải được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí của tất cả các bên Do đó, tuyên bố đơn phương chưa đủ để hình thành hợp đồng Hợp đồng chỉ được coi là giao kết khi có sự gặp gỡ, trao đổi ý chí và đồng thuận từ các bên.

1 Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, NXB Khoa học pháp lý- NXB từ điển Bách khoa,

Giao kết hợp đồng dân sự chỉ có giá trị pháp lý khi tuân thủ các nguyên tắc pháp luật quy định Theo Điều 389 Bộ luật Dân sự năm 2005, nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự được xác định rõ ràng.

Việc giao kết HĐDS phải tuân theo các nguyên tắc sau:

1 Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;

2 Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng

Tự do là quyền cơ bản của con người được Hiến pháp công nhận và là nguyên tắc quan trọng trong Bộ luật Dân sự Tự do ở đây thể hiện quyền tự định đoạt ý chí mà không bị ảnh hưởng hay ràng buộc bởi bất kỳ ai Quyền tự do giao kết hợp đồng cho phép cá nhân hoàn toàn quyết định việc tham gia hay không, cũng như lựa chọn loại hợp đồng phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của mình Ngoài ra, cá nhân còn có quyền lựa chọn người thực hiện giao kết, hình thức và nội dung của hợp đồng.

Tự do trong việc ký kết hợp đồng cần tuân thủ các quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội Mặc dù thể hiện ý chí tự do, nhưng nếu hợp đồng vi phạm pháp luật hoặc đi ngược lại với các giá trị đạo đức tốt đẹp, thì sẽ không được công nhận.

Giao kết hợp đồng cần phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và thiện chí, trong đó tự nguyện thể hiện qua việc các bên tham gia tự do thể hiện ý chí của mình mà không bị nhầm lẫn, lừa dối, ép buộc hay đe dọa Điều này đảm bảo rằng các bên có thể quyết định tham gia hợp đồng phù hợp với nhu cầu cá nhân một cách trung thực và ngay thẳng.

Bình đẳng trong pháp lý đảm bảo rằng mọi cá nhân có quyền và nghĩa vụ như nhau khi ký kết hợp đồng, không phân biệt về trình độ, giới tính, tôn giáo hay địa vị xã hội.

Nguyên tắc thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng là những yếu tố thiết yếu trong quá trình ký kết hợp đồng dân sự (HĐDS) Bản chất của HĐDS chính là sự thỏa thuận giữa các bên, do đó, việc tuân thủ các nguyên tắc này không chỉ đảm bảo tính hợp pháp mà còn tạo ra sự tin cậy và bền vững trong mối quan hệ giữa các bên tham gia.

Trang 9 cách tự nguyện của các bên Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên gắn liền với nhau Do đó, các bên phải thực sự mong muốn tham gia giao kết hợp đồng mà không vì bất kỳ sự lừa dối nào vì mục đích vụ lợi, phải hợp tác và cung cấp thông tin một cách chính xác, đầy đủ cho phía bên kia, không có sự gian dối, đe dọa ép buộc giao kết hợp đồng Nếu không tuân thủ nguyên tắc này, quan hệ hợp đồng sẽ không đúng với bản chất của nó và hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu theo quy định của pháp luật

1.1.2 Trình tự tiến hành giao kết HĐDS

Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình thỏa thuận giữa các bên, bao gồm các bước cụ thể, trong đó các bên thể hiện ý chí và thống nhất để thiết lập một hợp đồng dân sự.

Theo Bộ luật Dân sự, việc giao kết hợp đồng dân sự diễn ra qua hai bước chính: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị đó Cụ thể, Điều 390 khoản 1 quy định rằng "Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và bên đề nghị phải chịu trách nhiệm ràng buộc đối với bên đã được xác định cụ thể."

Đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi đơn phương của một bên nhằm tạo cơ sở cho việc ký kết hợp đồng Hành động này thể hiện ý chí của bên gửi đề nghị muốn thiết lập hợp đồng với bên nhận đề nghị Lời đề nghị sẽ ràng buộc bên đưa ra đối với các nội dung đã đề xuất Để hợp lệ, đề nghị giao kết hợp đồng cần đáp ứng ba điều kiện cơ bản.

Để tham gia giao kết hợp đồng, người đề nghị cần có đủ tư cách và năng lực pháp lý Chỉ những chủ thể đáp ứng yêu cầu này mới có thể xác lập hợp đồng trong lĩnh vực pháp luật tương ứng Ví dụ, một cá nhân không được phép sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật Việt Nam sẽ không đủ điều kiện để ký hợp đồng cho thuê nhà ở tại đây.

2 Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, Tập bài giảng “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, trang 162

Để đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực, cần phải cụ thể và rõ ràng, thể hiện rõ ý định giao kết Lời đề nghị phải được trình bày dưới hình thức nhất định và gửi đến một hoặc một số người cụ thể Điều này giúp phân biệt lời đề nghị giao kết hợp đồng với các tờ rơi chào hàng thông thường hoặc quảng cáo.

Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản và các hình thức hợp đồng bằng văn bản

7 Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh,Tập bài giảng “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, trang 187

1.2.1 Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản

Từ điển luật học định nghĩa hình thức hợp đồng là “cách thức thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên” 8

Hình thức của hợp đồng thể hiện ý chí của các bên tham gia và là dạng vật chất chứa đựng nội dung hợp đồng Tùy thuộc vào tính chất của hợp đồng, các bên có thể lựa chọn hình thức phù hợp, bao gồm hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng bằng văn bản hoặc hợp đồng thông qua hành vi cụ thể.

Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, hợp đồng bằng văn bản trở thành hình thức phổ biến trong việc giao kết hợp đồng Thỏa thuận này giúp các bên thể hiện rõ ràng ý chí của mình thông qua văn bản cụ thể Nếu hợp đồng yêu cầu phải được lập thành văn bản công chứng, chứng thực hoặc đăng ký theo quy định pháp luật, các bên cần tuân thủ đúng các thủ tục này.

Giao kết hợp đồng bằng văn bản là quá trình mà các bên thỏa thuận về việc thiết lập, điều chỉnh hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng Thỏa thuận này được thể hiện bằng văn bản và tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.

Giao kết hợp đồng bằng văn bản được thực hiện bằng hai cách thức chủ yếu:

Giao kết trực tiếp là phương thức mà các bên gặp gỡ và đàm phán từng điều khoản trong hợp đồng, hoàn tất khi thống nhất điều khoản cuối cùng Phương thức này giúp các bên nhanh chóng đạt được sự đồng thuận qua việc bàn bạc kĩ lưỡng, tránh sai sót và hiểu lầm Nó đặc biệt tiện lợi cho những bên có địa chỉ thường trú hoặc trụ sở kinh doanh gần nhau.

- Giao kết hợp đồng gián tiếp (hay giao kết hợp đồng vắng mặt): Là cách thức

8 Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Sđd, trang 363

Trang 15 giao kết mà các bên chủ thể không gặp gỡ trực tiếp đàm phán mà gửi văn bản qua phương tiện điện tử hoặc đường bưu điện để thể hiện ý chí của mình với bên kia Việc giao kết bằng phương thức này có thể diễn ra một cách nhanh chóng bằng một cái “click” chuột vào ô “đồng ý” trên màn hình đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa đơn giản trên website điện tử Đối với những hợp đồng phức tạp, số lượng hàng hóa lớn nhưng các bên có trụ sở kinh doanh xa nhau, không tiện để gặp gỡ trực tiếp thì có thể tiến hành qua nhiều giai đoạn đàm phán gián tiếp cho đến khi tất cả các điều khoản được thống nhất

Khi quan hệ hợp đồng ngày càng phát triển, giao kết hợp đồng bằng văn bản có ý nghĩa vô cùng to lớn:

- Trước hết, giao kết hợp đồng bằng văn bản là cơ sở để hợp đồng bằng văn bản có hiệu lực trên thực tế;

- Giao kết hợp đồng bằng văn bản giúp chủ thể thể hiện cụ thể ý chí cũng như nội dung các điều khoản trong hợp đồng;

Giao kết hợp đồng bằng văn bản là một yếu tố quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho việc xác lập hợp đồng Điều này đặc biệt cần thiết trong các hợp đồng kinh tế hoặc khi đối tượng của hợp đồng là tài sản có giá trị lớn, giúp đảm bảo tính bền vững và hiệu lực của thỏa thuận.

Việc chứng minh sự tồn tại của hợp đồng bằng văn bản mang lại sự dễ dàng hơn so với các hình thức khác, tạo cảm giác an tâm cho các bên khi hợp tác với đối tác mới Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của các bên mà còn thúc đẩy sự phát triển của quan hệ hợp đồng.

Giao kết hợp đồng bằng văn bản là công cụ quan trọng giúp Nhà nước quản lý và giám sát các giao dịch kinh tế, xác định nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác Qua đó, Nhà nước kiểm soát các giao dịch dân sự và thương mại, đồng thời hạn chế những giao dịch có thể ảnh hưởng đến lợi ích công cộng.

1.2.2 Các hình thức hợp đồng bằng văn bản theo quy định của pháp luật Điều 404 BLDS quy định về hình thức của HĐDS như sau:

1 HĐDS có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định

2 Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó

Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác

BLDS quy định rằng hình thức hợp đồng là cách thức thể hiện nội dung hợp đồng, bao gồm các phương tiện, thủ tục và cách thức để công bố ý chí của các bên Hình thức này không chỉ ghi nhận nội dung hợp đồng mà còn thể hiện sự tồn tại của hợp đồng.

Văn bản là một khái niệm có nhiều định nghĩa khác nhau, phụ thuộc vào góc độ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu Trong bối cảnh nghiên cứu về thời điểm giao kết hợp đồng, chúng ta sẽ tập trung vào khái niệm văn bản từ khía cạnh hình thức.

Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa:

“Văn bản là bản viết hoặc in, mang nội dung là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng” 11

Hợp đồng bằng văn bản là loại hợp đồng có nội dung được trình bày rõ ràng trên một bản in hoặc bản viết cụ thể, bao gồm cả các phương thức và thủ tục để xác lập hợp đồng.

Trong xã hội hiện nay, hợp đồng bằng văn bản là phương thức phổ biến mà các bên lựa chọn để thực hiện giao kết Có hai loại hợp đồng chính: hợp đồng bằng văn bản thông thường và hợp đồng bằng văn bản cần phải công chứng hoặc chứng thực.

1.2.2.1 Hợp đồng bằng văn bản thông thường

10 ĐH Luật Tp.HCM, Sđd, trang 120

11 Viên Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, 2006, trang 1100

Hợp đồng bằng văn bản đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của quan hệ hợp đồng, ban đầu chỉ là những tờ giấy viết tay đơn giản Với sự tiến bộ của khoa học, hình thức này đã phát triển thành các bản in hoặc đánh chữ từ máy tính Cùng với hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng bằng văn bản trở nên phổ biến, đặc biệt trong các hoạt động thương mại, giao dịch mua bán, cầm cố và cho vay tài sản có giá trị lớn.

Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản và ý nghĩa của việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản

định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản

1.3.1 Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản

1.3.1.1 Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường

Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường được quy định tại khoản 4 Điều 404 BLDS năm 2005:

“Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản”

Hành vi "ký" là cách thức xác lập ý chí của cá nhân hoặc pháp nhân thông qua việc đặt bút ký tên hoặc đóng dấu vào văn bản Đối với pháp nhân, việc ký có thể bao gồm cả việc ký tên và đóng dấu Chữ ký hoặc dấu vân tay trên văn bản thể hiện sự đồng ý của chủ thể trong việc giao kết hợp đồng Chỉ những người đủ tư cách theo quy định của pháp luật hoặc được ủy quyền mới có quyền ký vào hợp đồng Hành vi ký không chỉ xác nhận sự tham gia của chủ thể mà còn khẳng định mối quan hệ hợp đồng giữa các bên Sau khi thống nhất nội dung, các bên sẽ ký tên vào cuối văn bản để thể hiện ý chí của mình Nếu hợp đồng có nhiều bản, các bên sẽ ký lần lượt vào từng bản Thời điểm giao kết hợp đồng được xác định khi tất cả các bên đã hoàn thành việc ký tên vào các bản hợp đồng.

Bộ luật dân sự quy định rằng "bên sau cùng ký vào văn bản" ngụ ý rằng chỉ khi có sự ký kết của cả hai bên thì hợp đồng mới được coi là đã giao kết Theo Điều 404 khoản 4 BLDS năm 2005, hợp đồng chỉ chính thức có hiệu lực khi cả hai bên đã ký vào văn bản, và thời điểm người ký sau cùng chính là thời điểm hợp đồng được giao kết Điều này chỉ đúng trong trường hợp giao kết được thực hiện bằng "bút đàm", tức là các bên cùng ký trên một văn bản hợp đồng.

Giao kết hợp đồng bằng văn bản có thể thực hiện qua đường bưu điện hoặc thư tín Chẳng hạn, A gửi thư đề nghị giao kết hợp đồng cho B và chỉ định thời hạn chấp nhận B đồng ý với nội dung trong thư.

17 Đỗ Văn Đại, “Luật hợp đồng Việt Nam bản án và bình luân bản án”, tập 2, trang 23

18 Lê Minh Hùng, Luận án Tiến sĩ luật học: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, trang 99

Trang 24 ý, gửi lại cho A văn bản có nội dung đồng ý việc giao kết hợp đồng cũng qua đường bưu điện trong thời hạn A đã quy định Trong trường hợp này, chúng ta phải áp dụng điều khoản về giao kết hợp đồng vắng mặt để xác định thời điểm giao kết hợp đồng

Trên thế giới, thời điểm giao kết hợp đồng vắng mặt được xác định khác nhau tùy theo pháp luật của từng quốc gia Có bốn học thuyết chính: (1) Học thuyết tuyên bố ý chí cho rằng hợp đồng được giao kết khi người được đề nghị bày tỏ ý chí chấp nhận; (2) Học thuyết tống phát cho rằng thời điểm giao kết là khi người được đề nghị gửi chấp nhận; (3) Học thuyết tiếp nhận cho rằng hợp đồng được giao kết khi người đề nghị nhận được sự chấp nhận; và (4) Học thuyết truyền thông tin cho rằng hợp đồng được giao kết khi người đề nghị biết được nội dung chấp nhận.

Pháp luật quốc tế công nhận nhiều học thuyết về thời điểm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Cụ thể, Bộ luật Dân sự Nhật Bản áp dụng thuyết vận tống, quy định rằng hợp đồng giữa những người vắng mặt có hiệu lực từ thời điểm mà bên nhận gửi đi câu trả lời chấp nhận (Điều 526, khoản 1).

Pháp cũng đồng tình với quan điểm này khi Tòa Phúc thẩm tuyên rằng "trong trường hợp các bên không có ý kiến ngược lại, thì áp dụng thuyết bày tỏ", nghĩa là khi bên được đề nghị không phản đối, thuyết này sẽ được áp dụng.

“trao thư trả lời chấp nhận cho bưu điện” Quan điểm này cũng được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của các nước Anh-Mỹ 20

Theo quy định tại khoản 1 Điều 404 BLDS, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi thuyết tiếp nhận, điều này hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh kinh tế và kỹ thuật hiện nay Rủi ro trong quá trình vận chuyển thư từ qua đường bưu điện là điều có thể xảy ra, và khi gặp sự cố, thư chấp nhận giao kết có thể không đến được địa chỉ của bên đề nghị trong thời gian quy định.

Ngô Huy Chương trong bài viết “Hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhìn từ góc độ luật so sánh” đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 24 (185) tháng 12/2010, trang 31, đã phân tích tính hợp pháp của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thông qua lăng kính so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ hiệu lực pháp lý trong quá trình giao kết hợp đồng, đồng thời chỉ ra những điểm khác biệt và tương đồng giữa các quy định pháp luật.

20 Lê Minh Hùng, Sđd, trang 86, 87

Trang 25 định, nếu áp dụng thuyết tống phát thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên đề nghị Bởi vì họ hoàn toàn bị động, trong khi không biết bên được đề nghị có chấp nhận giao kết hợp đồng hay không đã phải chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý theo những thỏa thuận trong hợp đồng Điều này không công bằng đối với bên đưa ra lời đề nghị

Để xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường, cần dựa vào phương thức giao kết Nếu các bên ký kết trên cùng một văn bản, thời điểm giao kết là khi bên ký cuối cùng Trong trường hợp giao kết qua hình thức gián tiếp như bưu điện, thời điểm giao kết được tính khi bên đề nghị nhận được phản hồi chấp nhận.

1.3.1.2 Thời điểm giao kết hợp đồng văn bản có công chứng, chứng thực

Trong thực tiễn pháp lý Việt Nam, việc giao kết hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực được chia thành hai trường hợp: Thứ nhất, là những hợp đồng mà pháp luật yêu cầu phải có công chứng, chứng thực; thứ hai, là các hợp đồng do các bên tự thỏa thuận yêu cầu lập thành văn bản có công chứng, chứng thực Sự khác biệt giữa hai trường hợp này nằm ở nguồn gốc yêu cầu hình thức giao kết: một bên là quy định bắt buộc của pháp luật, còn bên kia là sự thỏa thuận của các bên Điều này dẫn đến sự khác biệt về thời điểm giao kết hợp đồng trong từng trường hợp.

 Thứ nhất, thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực do pháp luật quy định:

Theo quy định tại Điều 403 khoản 5 BLDS 1995, hợp đồng cần có chứng nhận của công chứng Nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm được chứng nhận hoặc cho phép Tuy nhiên, đến BLDS 2005, quy định này đã bị xóa bỏ, dẫn đến sự thay đổi trong cách xác định thời điểm giao kết hợp đồng.

Điều 404 BLDS 2005 quy định rằng hợp đồng sẽ có hiệu lực ngay cả khi các bên đã tuân thủ các hình thức cần thiết Điều này có nghĩa là, mặc dù pháp luật yêu cầu hợp đồng bằng văn bản phải được công chứng hoặc chứng thực, nhưng thời điểm giao kết hợp đồng vẫn phải tuân theo nguyên tắc chung.

Theo quy định của Luật Công chứng năm 2006 thì có hai trường hợp công chứng:

- Công chứng hợp đồng do các bên được soạn sẵn;

- Công chứng viên soạn thảo và công chứng hợp đồng theo đề nghị của các bên giao kết

Theo Điều 35 của Luật Công chứng năm 2006, trình tự và thủ tục công chứng hợp đồng được soạn sẵn được thực hiện qua các bước cụ thể.

- Bước 1: Người yêu cầu công chứng nộp dự thảo hợp đồng và các hồ sơ cần thiết theo quy định cho công chứng viên

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN- THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
12. Trần Văn Biên, “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử qua mạng interne”t, tạp chí Nhà nước và pháp luật số tháng 10/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử qua mạng interne”t
13. Trần Văn Biên, “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 08/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về khái niệm hợp đồng điện tử”
14. Ngô Huy Chương, “Hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 24 (185) tháng 12/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhìn từ góc độ luật so sánh”
15. Đỗ Văn Đại, “Luật hợp đồng Việt Nam bản án và bình luân bản án”, NXB Chính trị quốc gia, 2010, tập 1, 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hợp đồng Việt Nam bản án và bình luân bản án”
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
17. Phan Chí Hiếu, “Hoàn thiện chế định hợp đồng”, tạp chí nghiên cứu lập pháp tháng 4/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện chế định hợp đồng”
19. Lê Minh Hùng, Luận án Tiến sĩ luật học: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam
20. Nguyễn Thị Mơ, “Luật GDĐT 2005 và những quy định về giao kết hợp đồng điện tử”, Tạp chí nghề luật, 5/2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật GDĐT 2005 và những quy định về giao kết hợp đồng điện tử”
21. Nguyễn Văn Phái, “Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong Bộ luật dân sự”, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 9, tháng 5/2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong Bộ luật dân sự”
22. Nguyễn Xuân Quang- Lê Nết- Nguyên Hồ Bích Hằng, “Luật Dân sự Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia Tp. HCM, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Dân sự Việt Nam”
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Tp. HCM
23. Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, Tập bài giảng “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
24. Vũ Đình Thành, “Hành lang pháp lý cho hợp đồng điện tử”, trích trong Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành lang pháp lý cho hợp đồng điện tử
25. Đinh Trung Tụng, “Bình luận những nội dung mới của BLDS”, NXB Tư pháp, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận những nội dung mới của BLDS
Nhà XB: NXB Tư pháp
26. Viện khoa học pháp lý-Bộ tư pháp, Thông tin khoa học pháp lý, chuyên đề “Một số vấn đề sửa đổi, bổ sung BLDS Việt Nam”, số 11+12/2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tin khoa học pháp lý", chuyên đề "“Một số vấn đề sửa đổi, bổ sung BLDS Việt Nam”
27. Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, “Bình luận khoa học BLDS 2005”, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học BLDS 2005
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
28. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, NXB Khoa học pháp lý- NXB từ điển Bách khoa, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Luật học
Nhà XB: NXB Khoa học pháp lý- NXB từ điển Bách khoa
29. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, 2006. Website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt
Nhà XB: NXB Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học
10. Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2006 về thương mại điện tử.  Văn bản pháp luật nước ngoài Khác
11. Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT.  Sách chuyên khảo, báo, tạp chí Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w