1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Cam kết của việt nam về dịch vụ pháp lý với tư cách là thành viên của WTO những vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sỹ luật)

73 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Cam Kết Của Việt Nam Về Dịch Vụ Pháp Lý Với Tư Cách Là Thành Viên Của WTO Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Tác giả Phan Thị Thu Thảo
Người hướng dẫn TS. Trần Việt Dũng
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Quốc Tế
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP.HCM
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 1,38 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT WTO ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÁP LÝ (0)
    • 1.1. Khái quát về dịch vụ pháp lý và khung pháp lý của WTO đối với dịch vụ pháp lý (10)
      • 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ pháp lý với tư cách là một ngành dịch vụ (10)
      • 1.1.2. Khung pháp lý của WTO về dịch vụ pháp lý (15)
        • 1.1.2.1. Quy định chung của GATS về thương mại dịch vụ (15)
        • 1.1.2.2. GATS và nghĩa vụ của các nước thành viên WTO trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý (18)
    • 1.2. Chế độ pháp lý cơ bản áp dụng đối với dịch vụ pháp lý (22)
    • 1.3. Nội dung cơ bản của cam kết của một số nước thành viên WTO về dịch vụ pháp lý (26)
  • CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ CAM KẾT WTO LIÊN QUAN CỦA VIỆT NAM (0)
    • 2.1. Tổng quan về chính sách pháp luật điều chỉnh dịch pháp lý của Việt Nam. 26 2.2. Cam kết của Việt Nam về dịch vụ pháp lý trong WTO (30)
      • 2.2.1. Khái quát về Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam (35)
      • 2.2.2. Phạm vi dịch vụ pháp lý trong bảng phân loại CPC của WTO (38)
      • 2.2.3. Nội dung cam kết WTO của Việt Nam về dịch vụ pháp lý. ............... 39 CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN TỚI CHẾ ĐỘ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ (43)
    • 3.1. Thực tiễn về thực hiện dịch vụ pháp lý của Việt Nam (50)
      • 3.1.1. Đánh giá tác động của các quy định liên quan với nghĩa vụ pháp lý từ (50)
      • 3.1.2. Thực trạng hoạt động của những tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý (59)
    • 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch vụ pháp lý của Việt (61)
      • 3.2.2. Nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ cho ngành dịch vụ pháp lý (63)
  • PHỤ LỤC (67)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT WTO ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÁP LÝ

Khái quát về dịch vụ pháp lý và khung pháp lý của WTO đối với dịch vụ pháp lý

1.1.1.Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ pháp lý với tư cách là một ngành dịch vụ

Theo Từ điển Luật học – Nhà xuất bản Tư pháp, dịch vụ được định nghĩa là “sản phẩm kinh tế bao gồm công việc dưới dạng lao động thể lực, khả năng tổ chức, quản lý, kiến thức và kỹ năng chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của tổ chức, cá nhân” Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cung ứng dịch vụ rất đa dạng và phong phú, bao gồm các dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ công cộng, dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh, và dịch vụ chuyên môn.

Dịch vụ pháp lý, một lĩnh vực thương mại đặc biệt, đang thu hút sự quan tâm lớn từ xã hội và khách hàng Cùng với các ngành sở hữu trí tuệ và thương mại dịch vụ khác, dịch vụ pháp lý đã được đưa vào hệ thống thương mại toàn cầu và được điều chỉnh bởi Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS).

Dịch vụ pháp lý bao gồm dịch vụ tư vấn, dịch vụ đại diện và các hoạt động liên quan đến quản lý tư pháp như thẩm phán, công tố viên, thư ký tòa án và luật sư Tuy nhiên, các hoạt động quản lý tư pháp không thuộc phạm vi Hiệp định GATS, vì chúng được coi là "dịch vụ cung cấp trong khi thực hiện quyền lực nhà nước" theo Điều I(3) GATS GATS chỉ điều chỉnh các dịch vụ tư vấn và đại diện trong nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau.

Theo Bảng phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, "dịch vụ pháp lý" được xếp vào tiểu ngành của "dịch vụ chuyên môn" trong ngành "dịch vụ kinh doanh" Theo Danh mục phân loại dịch vụ tạm thời của Liên hợp quốc (CPC), dịch vụ pháp lý mang mã số 861 và bao gồm các tiểu phân ngành cụ thể.

- Dịch vụ tư vấn và đại diện trong nhiều lĩnh vực khác nhau (CPC 8611);

- Dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến luật hình sự (CPC 86111);

- Dịch vụ tư vấn và đại diện về các thủ tục tại tòa án liên quan đến các lĩnh vực pháp luật khác (CPC 86119);

- Dịch vụ tư vấn và đại diện về các thủ tục tố tụng theo luật tại các tổ chức mang tính tòa án (CPC 8612/CPC 86120);

- Dịch vụ giấy tờ pháp lý và công chứng (CPC 8613/CPC 86130);

- Dịch vụ thông tin và tư vấn pháp lý khác (CPC 8619/CPC 86190)

Bảng CPC sửa đổi năm 1998 của Liên hợp quốc không có nhiều thay đổi đối với dịch vụ pháp lý, nhưng đã bổ sung tiểu ngành "dịch vụ trọng tài và hòa giải", trước đây thuộc nhóm dịch vụ tư vấn quản lý.

Bảng Danh mục CPC của Liên hợp quốc đã có sự phân biệt các dịch vụ

Hiệp định GATS quy định phạm vi và điều chỉnh các dịch vụ thương mại toàn cầu, bao gồm cả dịch vụ pháp lý của các thành viên WTO Do đó, GATS sẽ áp dụng cho các vấn đề liên quan đến dịch vụ pháp lý trong khuôn khổ thương mại quốc tế.

2 WTO, Bảng phân loại các loại dịch vụ, MTN.GNS/W/120, (1991)

Theo tài liệu của Liên hợp quốc S/CSC/W6/Add.10 (27/3/1998), danh mục phân loại dịch vụ tạm thời không phản ánh đúng thực tiễn thương mại quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý Việc phân loại này không tương thích với cam kết của các nước thành viên WTO Do đó, trong quá trình đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ theo GATS, các nước thành viên WTO đã quyết định áp dụng một phương pháp phân loại khác phù hợp hơn.

- Pháp luật của nước tiếp nhận dịch vụ (tư vấn/đại diện);

- Pháp luật nước mình và/hoặc pháp luật nước thứ ba (tư vấn/đại diện);

- Pháp luật quốc tế (tư vấn/đại diện);

- Dịch vụ chứng từ pháp lý và chứng nhận;

- Các dịch vụ khác về tư vấn và thông tin pháp luật

Trong khuôn khổ WTO, các nước thành viên có thể cho phép chuyên gia nước ngoài thực hành pháp luật trong nước, pháp luật quốc tế, hoặc pháp luật của nước thứ ba Các thành viên có thể cam kết mở cửa dịch vụ tư vấn hoặc dịch vụ tranh tụng Điều này cho phép chuyên gia nước ngoài đại diện cho khách hàng trước tòa án hoặc tổ chức trọng tài tại nước tiếp nhận dịch vụ Khi thực hành pháp luật quốc tế hoặc pháp luật của nước khác, họ thường được gọi là Nhà tư vấn luật Quốc tế (Foreign Legal Consultants - FLCs), và định nghĩa này cũng được ghi nhận trong một số Biểu cam kết theo GATS.

Tóm lại, theo quy định của WTO, dịch vụ pháp lý được hiểu là bao gồm

“các lĩnh vực tư vấn và đại diện đối với pháp luật nước tiếp nhận dịch vụ, pháp

Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế đã trình bày "Chương 5 - Dịch vụ pháp lý" trong tài liệu Tổng quan về tự do hóa thương mại dịch vụ (Legal Services - Background Note by the Secretariat - S/C/W/43, 6 July 1998, Tổ chức Thương mại Thế giới), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2006), trang 5 Tài liệu này đề cập đến các khía cạnh quan trọng như luật pháp của nước sở tại, luật pháp của nước thứ ba và luật pháp quốc tế; đồng thời nêu rõ các dịch vụ như chứng thực giấy tờ tài liệu và các dịch vụ tư vấn, thông tin khác.

Dịch vụ pháp lý là loại hình thương mại dịch vụ liên quan đến lĩnh vực pháp luật, cung cấp thông tin pháp lý và thực hiện công việc cho khách hàng nhằm nhận thù lao Mục tiêu của dịch vụ này là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, đồng thời củng cố pháp chế.

Dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực thuộc ngành thương mại dịch vụ, do đó sẽ có những đặc điểm chung của ngành thương mại dịch vụ:

Dịch vụ pháp lý được coi là sản phẩm vô hình, vì khách hàng không thể nhìn thấy, cảm nhận hay nghe thấy trước khi sử dụng Điều này tạo ra một thách thức trong việc truyền đạt giá trị của dịch vụ đến khách hàng, khiến họ khó khăn trong việc đánh giá và quyết định tiêu dùng.

Dịch vụ pháp lý có đặc điểm nổi bật là quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, liên kết chặt chẽ về không gian và thời gian Khác với sản xuất hàng hóa, dịch vụ không thể được sản xuất trước và lưu kho để tiêu thụ sau Tương tác giữa nhà cung cấp và khách hàng là yếu tố quan trọng trong tiếp thị dịch vụ.

Khách hàng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình dịch vụ pháp lý với bốn tư cách: người sử dụng dịch vụ, yếu tố đầu vào trong sản xuất và cung ứng dịch vụ, đồng sản xuất cùng nhà cung cấp, và nhà quản lý Tùy thuộc vào loại hình dịch vụ, khách hàng còn có vai trò quyết định trong việc xác định địa điểm cung cấp dịch vụ.

Dịch vụ pháp lý khi lưu thông qua biên giới phụ thuộc vào từng cá nhân cụ thể, chịu ảnh hưởng bởi tâm lý, tập quán, văn hóa, ngôn ngữ và tính cách của cả người cung cấp và người tiêu dùng Điều này tạo ra sự khác biệt so với thương mại hàng hóa, nơi sản phẩm là vật vô tri và việc kiểm soát hàng hóa qua biên giới không phức tạp như kiểm soát con người trong thương mại dịch vụ Do đó, thương mại dịch vụ phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại hơn so với thương mại hàng hóa.

Bên cạnh những đặc điểm chung của thương mại dịch vụ trên, dịch vụ pháp lý còn có những đặc điểm riêng biệt sau:

Dịch vụ pháp lý là một loại hình dịch vụ đặc biệt, trong đó người cung cấp dịch vụ "bán" kiến thức và kỹ năng pháp luật theo yêu cầu của người sử dụng Người sử dụng dịch vụ sẽ trả thù lao dựa trên thỏa thuận giữa hai bên, tạo nên sự khác biệt rõ rệt trong việc trao đổi và mua bán Hàng hóa trong dịch vụ pháp lý chính là kiến thức và kỹ năng pháp luật.

Chế độ pháp lý cơ bản áp dụng đối với dịch vụ pháp lý

 Phạm vi áp dụng GATS đối với dịch vụ pháp lý:

Tất cả các nhóm dịch vụ trong lĩnh vực "dịch vụ pháp lý" đều có khả năng được các thành viên của WTO cam kết trong biểu cam kết mở cửa thị trường.

 P hương thức cung cấp dịch vụ pháp lý:

Cũng như các loại hình thương mại dịch vụ khác, dịch vụ pháp lý được cung cấp theo một trong 4 phương thức sau:

Cung cấp dịch vụ qua biên giới (phương thức 1) cho phép các chuyên gia pháp lý và luật sư của một quốc gia cung cấp dịch vụ pháp lý cho một quốc gia khác mà không cần di chuyển ra khỏi lãnh thổ của mình Phương thức này giúp người cung cấp và người sử dụng dịch vụ duy trì vị trí địa lý của mình trong khi vẫn có thể tiếp cận dịch vụ pháp lý quốc tế.

Tiêu dùng ngoài lãnh thổ là phương thức mà người mua dịch vụ pháp lý sử dụng dịch vụ tại quốc gia khác với nơi cung cấp dịch vụ.

Hiện diện thương mại (phương thức 3) là hình thức mà nhà cung cấp dịch vụ pháp lý của một thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh hoặc chi nhánh tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thành viên khác Mục đích của việc này là để cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng tại địa phương đó.

Phương thức hiện diện thể nhân (phương thức 4) cho phép các chuyên gia pháp luật và luật sư của một thành viên di chuyển đến lãnh thổ của thành viên khác để cung cấp dịch vụ pháp lý.

 Quy chế tối huệ quốc (MFN):

Theo các Hiệp định của WTO, các quốc gia không được phân biệt đối xử với các đối tác thương mại, nghĩa là nếu một quốc gia cấp đặc quyền thương mại cho một nước, thì cũng phải áp dụng điều này cho tất cả các thành viên khác của WTO Nguyên tắc này có hiệu lực ngay cả khi một quốc gia không cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ WTO Điều khoản tối huệ quốc áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ, nhưng các quốc gia có thể tạm thời miễn áp dụng điều khoản này đối với một số ngành đặc biệt, bao gồm ngành dịch vụ pháp lý.

Hiện tại, trong số các thành viên của WTO, có bốn quốc gia được miễn trừ Tối huệ quốc trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý, bao gồm Bru-nây, Bungary, Cộng hòa Dominica và Singapore.

Các nước thành viên đã đưa ra nhiều điều kiện hạn chế đối với nhà cung cấp dịch vụ pháp lý nước ngoài Số lượng biện pháp và điều kiện trong cột “hạn chế tiếp cận thị trường” trong Biểu cam kết dịch vụ càng nhiều, thì mức độ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng bị giới hạn.

Một trong những rào cản chính trong việc tiếp cận thị trường dịch vụ pháp lý là yêu cầu về quốc tịch của người cung cấp dịch vụ Trong lĩnh vực tư vấn luật quốc tế và luật của nước xuất xứ hoặc nước thứ ba, yêu cầu về quốc tịch thường không được áp dụng Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp mà các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài gặp khó khăn trong việc tiếp cận do các yêu cầu chung về quốc tịch đối với dịch vụ pháp lý.

Hàng rào quan trọng trong việc tiếp cận thị trường dịch vụ này là những hạn chế về di chuyển của các chuyên gia, quản lý và kỹ thuật.

Một hạn chế quan trọng trong các Biểu cam kết của các quốc gia là sự giới hạn về hình thức pháp lý mà các cá nhân và liên danh có thể lựa chọn Thông thường, các hình thức như quyền sở hữu duy nhất và liên danh bị hạn chế, ngoại trừ một số trường hợp cho các công ty hữu hạn và hình thức liên doanh.

Các quốc gia thành viên đã nêu rõ các biện pháp nhằm duy trì sự phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý trong nước và các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý nước ngoài.

Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế đã chỉ ra rằng, càng có nhiều biện pháp và quy định trong cột “hạn chế đối xử quốc gia” của dịch vụ pháp lý trong Biểu cam kết, thì sự phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ trong nước và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng gia tăng.

Các hạn chế về đối xử quốc gia trong dịch vụ pháp lý chủ yếu bao gồm yêu cầu cư trú, phân biệt trong cấp phép, hạn chế liên kết hoặc thuê chuyên gia địa phương, cùng với việc hạn chế sử dụng tên tuổi của công ty quốc tế và nước ngoài.

Ngoài những hạn chế đã đề cập, còn tồn tại nhiều hạn chế đối xử quốc gia khác, bao gồm yêu cầu về ngôn ngữ, việc công nhận bằng cấp nước ngoài chỉ áp dụng cho công dân đã học tập ở nước ngoài, và yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài phải có khả năng cạnh tranh tại quốc gia xuất xứ Bên cạnh đó, luật sư nước ngoài cũng phải tham gia tích cực vào hoạt động kinh doanh để duy trì lợi nhuận tại các công ty luật trong nước Tất cả những biện pháp này đều thể hiện sự phân biệt đối xử đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, bất kể là theo quy định hay trên thực tế.

Nội dung cơ bản của cam kết của một số nước thành viên WTO về dịch vụ pháp lý

Nghiên cứu các biểu cam kết về dịch vụ pháp lý của Úc, Trung Quốc, New Zealand và Hoa Kỳ cho thấy những điểm chính trong cam kết mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý bao gồm: tăng cường sự minh bạch, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, khuyến khích cạnh tranh và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dịch vụ pháp lý hoạt động hiệu quả hơn.

Trong số các quốc gia được đề cập, New Zealand nổi bật với cam kết mạnh mẽ nhất đối với việc tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia, trong khi các quốc gia khác, đặc biệt là Hoa Kỳ, thể hiện mức độ cam kết hạn chế hơn nhiều.

New Zealand không áp dụng bất kỳ hạn chế nào đối với việc tiếp cận thị trường dịch vụ pháp lý, bao gồm cả pháp luật trong nước, nước ngoài và quốc tế, cho tất cả ba phương thức cung cấp dịch vụ.

Trung Quốc cam kết hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với dịch vụ pháp lý, áp dụng cho phương thức cung cấp dịch vụ 3, nhưng không cam kết cho phương thức 4 Trong khi đó, Úc chỉ áp dụng hạn chế tiếp cận thị trường cho phương thức 3 trong lĩnh vực trọng tài và hòa giải, liên quan đến pháp luật nước ngoài và quốc tế Đối với dịch vụ tư vấn và đại diện pháp luật trong nước, Úc không đặt ra bất kỳ hạn chế nào về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia ở cả ba phương thức cung cấp dịch vụ.

Hoa Kì là nước có nhiều cam kết hạn chế nhiều trong dịch vụ pháp lý trong Biểu cam kết dịch vụ của mình:

Trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý tại Hoa Kỳ, việc thực hành pháp luật được quy định bởi tiêu chuẩn của luật sư, với các hạn chế về tiếp cận thị trường áp dụng cho cả bốn phương thức cung cấp dịch vụ Các cam kết này ảnh hưởng đến dịch vụ pháp lý do cá nhân cung cấp Đối với hạn chế về đối xử quốc gia, Hoa Kỳ chỉ miễn trừ cho phương thức cam kết dịch vụ thứ ba, trong khi các phương thức còn lại yêu cầu luật sư phải có giấy phép để hành nghề tại các khu vực cụ thể.

Trong lĩnh vực tư vấn dịch vụ pháp lý, nhà cung cấp dịch vụ phải đáp ứng tiêu chuẩn như luật sư, với ba hoạt động tư vấn cụ thể Quy định về hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia khác nhau giữa các vùng và bang tại Mỹ, nơi mà mỗi khu vực có quy định riêng về cấp phép hành nghề Tổng quan, Hoa Kỳ không áp dụng hạn chế đối xử quốc gia trong lĩnh vực này, ngoại trừ một số bang như Michigan, Texas và Washington Đối với ba phương thức cung cấp dịch vụ, không có hạn chế về tiếp cận thị trường, trừ một số bang như Ohio, New York, New Jersey, Minnesota và District of Columbia Về phương thức hiện diện thương mại, Hoa Kỳ chưa cam kết hạn chế tiếp cận thị trường, ngoại trừ các cam kết chung.

Hầu hết các quốc gia đều áp dụng hạn chế chủ yếu đối với phương thức cam kết 3 - hiện diện thương mại Trong số bốn quốc gia được đề cập, Trung Quốc có các hạn chế nghiêm ngặt nhất về hình thức thành lập hiện diện thương mại, trong khi Úc lại giới hạn sự tham gia của luật sư và chuyên gia luật nước ngoài tại các văn phòng luật sư địa phương Đối với phương thức cung cấp dịch vụ 4 - hiện diện thể nhân, phần lớn các nước không cam kết hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn chế đối xử quốc gia; tuy nhiên, Hoa Kỳ có một số trường hợp không áp dụng hạn chế đối xử quốc gia cho những luật sư đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo luật pháp của nước này.

 Các yêu cầu về cấp phép đối với dịch vụ tư vấn trong luật quốc tế và trong nước:

Nhiều quốc gia áp dụng các quy định phức tạp về cấp phép hành nghề cho luật sư và chuyên gia luật nước ngoài, tạo ra rào cản hiệu quả trong việc tiếp cận thị trường Các hạn chế này không chỉ liên quan đến sở hữu, quốc tịch và cư trú, mà còn bao gồm các quy định về dịch vụ tư vấn luật quốc tế và trong nước, như ở Hoa Kỳ và Úc Điều này khiến cho việc hành nghề của luật sư nước ngoài tại quốc gia sở tại trở nên khó khăn hơn.

CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ CAM KẾT WTO LIÊN QUAN CỦA VIỆT NAM

Tổng quan về chính sách pháp luật điều chỉnh dịch pháp lý của Việt Nam 26 2.2 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ pháp lý trong WTO

Ngành dịch vụ pháp lý tại Việt Nam đã hình thành và phát triển song song với sự ra đời của nghề luật sư, đồng thời phản ánh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước Sự phát triển này không chỉ nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý mà còn góp phần thúc đẩy môi trường kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.

Hoạt động của luật sư tại Việt Nam đã có nguồn gốc từ thời kỳ Pháp thuộc, khi Toàn quyền Pháp ban hành các Sắc lệnh quy định quyền biện hộ của luật sư người Pháp Sau đó, chính sách này dần được mở rộng, cho phép luật sư Việt Nam tham gia biện hộ trước các Tòa án, đánh dấu bước tiến quan trọng trong sự phát triển của nghề luật tại Việt Nam.

Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL, đánh dấu sự ra đời của tổ chức các Đoàn luật sư trong nước, thể hiện sự quan tâm của Chính phủ Cách mạng lâm thời đối với chế định luật sư Tiếp theo, Hiến pháp đầu tiên của VNDCCH được Quốc hội thông qua vào ngày 09/1/1946, trong đó điều 67 ghi nhận quyền bào chữa của người bị cáo, cho phép họ có quyền mời luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Trong bối cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều luật gia và luật sư đã tham gia mặt trận, nhưng nghề luật sư gặp nhiều khó khăn Sau năm 1975, chính sách kinh tế tập trung quan liêu đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân, dẫn đến việc không có cơ sở cho hoạt động tư vấn và luật sư Do đó, nghề luật sư chủ yếu chỉ tập trung vào lĩnh vực tư pháp và pháp luật hình sự.

Vào ngày 31 tháng 10 năm 1983, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa, quy định các tiêu chuẩn và điều kiện để trở thành bào chữa viên Thông tư này yêu cầu mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thành lập một Đoàn bào chữa viên Đặc biệt, tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh, các Đoàn luật sư và bào chữa viên được thành lập, bao gồm những luật sư đã được công nhận trước đó Đến cuối năm 1987, cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên hoạt động.

Sau 11 năm kế từ ngày đất nước thống nhất, với yêu cầu khách quan là phải đổi mới xóa bỏ cơ chế quan liêu - bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm

Năm 1986 đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ đổi mới tại Việt Nam, ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực xã hội, bao gồm cả hoạt động tư pháp Đường lối đổi mới đã dẫn đến việc ban hành các đạo luật tố tụng nhằm mở rộng dân chủ, tăng cường bảo đảm quyền bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án Điều này đã tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ của nghề luật sư Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành vào ngày 18/12/1987, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong việc phục hồi và phát triển nghề luật sư tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Pháp lệnh quy định tiêu chuẩn công nhận luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hỗ trợ pháp lý của luật sư cùng với việc tổ chức các Đoàn luật sư tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Sau gần 10 năm thi hành, hầu hết các tỉnh, thành phố đã thành lập Đoàn luật sư, với số lượng luật sư trong cả nước đạt hàng ngàn Hoạt động của luật sư đã phát triển đáng kể, không chỉ tăng cường số lượng và chất lượng tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự mà còn mở rộng sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác.

Vào nửa cuối thập niên 90, Việt Nam đã bước vào giai đoạn quan trọng trong quá trình đổi mới, với nhu cầu cấp thiết trong việc xây dựng cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

Từ năm 1995 đến 1998, Việt Nam đã tiếp nhận 24 công ty luật nước ngoài với 34 văn phòng đại diện, như Paul Weiss Rifkind, Wharton & Garriso, và Lovell White Durrant, cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý Nghị định số 42/CP ngày 8/7/1995 quy định về hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, đã thiết lập những quy định nghiêm ngặt cho hoạt động này Cụ thể, luật sư nước ngoài phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm và không được cung cấp dịch vụ liên quan đến pháp luật Việt Nam hay tham gia vào tố tụng tại tòa án Việt Nam Mỗi tổ chức luật sư nước ngoài chỉ được phép mở tối đa hai chi nhánh trong thời gian 5 năm, với khả năng gia hạn tối đa 3 năm và không được thuê luật sư Việt Nam Điều kiện để được cấp phép hoạt động bao gồm việc có khách hàng nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.

Việt Nam đã áp dụng nhiều quy định hạn chế đối với hoạt động của các công ty luật nước ngoài, dẫn đến việc nhiều hãng luật lớn như White & Case, Coudert Brothers, Clifford Chance, và Freshfields rút lui khỏi thị trường Tuy nhiên, việc mở cửa cho các tổ chức luật sư nước ngoài vào những năm 90 của thế kỷ XX đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế Để đáp ứng nhu cầu đổi mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành, thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ nhằm chính quy hóa và chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư, đồng thời tăng cường vai trò tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp Pháp lệnh này, được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua vào ngày 25/7/2001, đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế luật sư tại Việt Nam, đưa hệ thống pháp luật của nước ta gần hơn với các thông lệ quốc tế.

Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, số lượng luật sư đã tăng đáng kể, từ 1.632 lên 1.883 luật sư chính thức và từ 468 lên 1.535 luật sư tập sự (từ 9/2001 đến 5/2005) Trong thời gian này, hơn 1.000 tổ chức hành nghề luật đã được thành lập, bao gồm các văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh và các Đoàn luật sư, góp phần củng cố chức năng của tổ chức xã hội - nghề nghiệp tự quản của luật sư Hoạt động hành nghề của luật sư cũng đã được nâng cao về phạm vi và chất lượng.

Chuyên đề của Lê Thị Thu Hằng nghiên cứu về địa vị pháp lý của luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp luật hiện hành và những thách thức mà các luật sư đối mặt khi hành nghề trong môi trường pháp lý đa dạng này Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại [tuvanluatvietnam.net](http://tuvanluatvietnam.net/?urlail&idh0), truy cập ngày 6/6/2013.

Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đánh dấu bước khởi đầu quan trọng cho sự chuyên nghiệp hóa và hội nhập quốc tế của nghề luật sư tại Việt Nam, mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ cho ngành này Để thực thi Pháp lệnh Luật sư, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành nhằm hướng dẫn và củng cố hoạt động của nghề luật sư trong nước.

- Nghị định số: 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 qui định chi tiết thi hành

Pháp lệnh luật sư năm 2001;

- Thông tư số: 02/2002/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định

- Quyết định số: 356b/2002/QĐ-BT ngày 05/08/2002 cuả Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư;

- Thông tư số: 53/TT-BTC ngày 02/06/2003 hướng dẫn chế độ thuế với văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh …

Sức ép hội nhập kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam bắt đầu rõ nét từ khi ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) Kể từ khi thực hiện BTA, đặc biệt là sau khi ban hành Nghị định số 87/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 7 năm 2003, thị trường dịch vụ pháp lý đã có những bước tiến quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam.

Thực tiễn về thực hiện dịch vụ pháp lý của Việt Nam

3.1.1 Đánh giá tác động của các quy định liên quan với nghĩa vụ pháp lý từ cam kết WTO của Việt Nam

Việt Nam, với tư cách là thành viên chính thức của WTO, cam kết tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong các hiệp định và quy định của tổ chức này Cam kết gia nhập WTO, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, đã tạo ra tác động lớn đến quá trình đổi mới và cải cách hệ thống pháp luật và chính sách trong nước Để đáp ứng yêu cầu của WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách nhằm hoàn thiện thể chế và pháp luật.

Việt Nam cam kết thực hiện nghĩa vụ pháp lý đối với WTO bằng cách áp dụng trực tiếp hoặc nội luật hóa 22 cam kết, ưu tiên các điều khoản trong cam kết quốc tế Theo Nghị quyết 71/2006/QH11, Việt Nam sẽ áp dụng trực tiếp các quy định của WTO khi pháp luật trong nước không tương thích.

Nội luật hóa là quá trình tích hợp các quy định của điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật trong nước, thông qua việc xây dựng và sửa đổi văn bản pháp luật để đảm bảo tính hợp pháp với các cam kết quốc tế Theo Hoàng Phước Hiệp trong nghiên cứu của mình, điều này đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý, nơi mà Luật Luật sư 2006 đã được áp dụng theo nghị quyết 71/2006/QH11 Sự cam kết này đã tạo ra những tác động đáng kể đến thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam, thúc đẩy các thay đổi về cơ chế và chính sách pháp luật nhằm tuân thủ các nghĩa vụ tại WTO.

Khuôn khổ pháp lý đối với dịch vụ pháp lý tại Việt Nam bao gồm các văn bản quan trọng như Luật Luật sư 2006, Luật Công chứng 2006, Pháp lệnh về trọng tài thương mại, cùng với các nghị định hướng dẫn liên quan Những quy định này xác định quyền và nghĩa vụ của luật sư cũng như các tổ chức luật sư, trong đó Luật Luật sư 2006 là văn bản chính điều chỉnh ngành dịch vụ pháp lý Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện, Luật này đã bộc lộ một số bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động của luật sư tại Việt Nam và các cam kết quốc tế khi gia nhập WTO, đồng thời thiếu các quy định cần thiết để thu hút luật sư và tổ chức luật sư nước ngoài có kinh nghiệm và uy tín vào thị trường Việt Nam.

Trước tình hình đó, ngày ngày 8 tháng 2 năm 2012 Quốc hội đã ban hành

Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư số 65/2006/QH11 được Quốc hội thông qua vào ngày 20 tháng 11 năm 2012 với Luật số 20/2012/QH13 Mục tiêu của việc sửa đổi này là nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả và đúng các cam kết liên quan đến dịch vụ pháp lý.

Bài viết này phân tích sự phù hợp của Luật Luật sư 2006, được sửa đổi và bổ sung năm 2012 (gọi tắt là Luật Luật sư), với các cam kết của Việt Nam trong Biểu cam kết dịch vụ.

Việt Nam không cho phép tổ chức luật sư nước ngoài tham gia tố tụng với vai trò người bào chữa hay đại diện cho khách hàng tại tòa án Việt Nam Theo Điều 70 Luật Luật sư, các chi nhánh và công ty luật nước ngoài chỉ được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác, nhưng không được cử luật sư nước ngoài hoặc luật sư Việt Nam trong tổ chức của mình tham gia tố tụng Tuy nhiên, họ có thể cử luật sư Việt Nam để tư vấn về pháp luật Việt Nam.

Luật Luật sư đã giới hạn phạm vi hành nghề của các tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, nhằm bảo vệ thị trường dịch vụ pháp lý trong nước Trước khi sửa đổi vào năm 2012, luật đã có quy định thoáng hơn so với cam kết của WTO về việc tham gia tố tụng của luật sư nước ngoài Việt Nam cam kết không cho phép các tổ chức luật sư nước ngoài tham gia vào hoạt động tố tụng tại các tòa án, bởi vì việc xử lý luật sư nước ngoài không thể giống như cách mà tòa án xử lý luật sư Việt Nam.

Theo Điều 70 Luật Luật sư 2006, chi nhánh và công ty luật nước ngoài tại Việt Nam có quyền cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác, nhưng không được cử luật sư nước ngoài tham gia tố tụng với vai trò bào chữa hay bảo vệ quyền lợi của đương sự Thay vào đó, họ phải sử dụng luật sư Việt Nam trong tổ chức của mình để tư vấn và đại diện cho khách hàng tại Tòa án Việt Nam, ngoại trừ trong các vụ án hình sự.

Phạm vi hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài theo Luật Luật sư hiện hành phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO.

Việt Nam đã cam kết hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với tổ chức luật sư nước ngoài theo Biểu cam kết dịch vụ Các quy định của Luật Luật sư liên quan đến những cam kết này sẽ được áp dụng cho các tổ chức luật sư của các nước thành viên hoạt động tại Việt Nam.

 Hạn chế tổ chức luật sư nước ngoài tiếp cận thị trường dịch vụ pháp lý của Việt Nam:

Theo Điều 69 Luật Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam chỉ được hoạt động dưới bốn hình thức: (i) Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài; (ii) Công ty luật trách nhiệm hữu hạn với 100% vốn nước ngoài; (iii) Công ty luật trách nhiệm hữu hạn theo hình thức liên doanh; và (iv) Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam.

Khoản 1 Điều 72 Luật Luật sư định nghĩa: “Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài là tổ chức hành nghề luật sư do một hoặc nhiều tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thành lập tại Việt Nam”, tức là được hiểu Luật cũng đề cập công ty con của tổ chức luật sư nước ngoài với tư cách là công ty của một tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Việc quy định chế độ trách nhiệm hữu hạn của loại hình công ty luật nước ngoài là một điểm thuận lợi cơ bản cho luật sư, tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam Quy định này của Luật Luật sư phù hợp với xu thế phát triển của nghề luật sư trên thế giới Ngày càng có nhiều công ty luật với chế độ trách nhiệm hữu hạn thay vì mô hình công ty luật truyền thống có trách nhiệm vô hạn Như vậy, có thể nhận thấy quy định của Việt Nam về hình thức hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam là phù hợp với cam kết của Việt Nam Việt Nam đã mở rộng hình thức hành nghề đối với tổ chức luật sư nước ngoài so với trước đây, thêm một hình thức công ty luật hợp danh giữa công ty luật hợp danh nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam

Luật sư nước ngoài và luật sư trong nước tại Việt Nam phải có trình độ chuyên môn ngang nhau về pháp luật Việt Nam, thể hiện qua văn bằng luật Việt Nam Theo Điều 76 Luật Luật sư, luật sư nước ngoài có thể tư vấn về pháp luật nước ngoài và quốc tế, cũng như tư vấn pháp luật Việt Nam nếu có bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng các yêu cầu tương tự như luật sư Việt Nam Tuy nhiên, họ không được tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam, điều này tạo ra rào cản cho luật sư nước ngoài trong việc tiếp cận thị trường pháp lý tại Việt Nam.

Luật Luật sư của Việt Nam không có quy định hạn chế về việc tiếp cận thị trường tư vấn luật nước ngoài và luật quốc tế, không phân biệt giữa luật Việt Nam và luật nước thứ ba, cả hai đều được xem là luật nước ngoài Để tư vấn về luật nước ngoài hoặc luật quốc tế, cả luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam đều phải đáp ứng các điều kiện phù hợp Điều này thể hiện sự cởi mở của Việt Nam trong lĩnh vực tư vấn luật quốc tế và nước ngoài.

24 Điều 74, 76 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012)

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch vụ pháp lý của Việt

3.2.1 Từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh ngành dịch vụ pháp lý trong hội nhập kinh tế quốc tế

Sau khi gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, cần thiết phải sửa đổi và bổ sung các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động dịch vụ pháp lý tại Việt Nam Những kiến nghị này nhằm đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả trong việc điều chỉnh các dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngành này trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

 Đối với luật sư, tổ chức luật sư nước ngoài:

Xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh quan hệ dịch vụ pháp lý của các tổ chức luật sư nước ngoài là cần thiết trong bối cảnh hội nhập hiện nay Điều này không chỉ đảm bảo tính thống nhất trong quản lý giữa các tổ chức luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư trong nước mà còn góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững cho ngành luật.

Cần thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ đối với tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm sự giám sát từ cơ quan nhà nước và Liên đoàn luật sư, nhằm đảm bảo các chính sách phù hợp với hoạt động của họ Việt Nam hiện đang yêu cầu quốc tịch đối với việc gia nhập Đoàn luật sư, điều này gây khó khăn cho các tổ chức luật sư nước ngoài muốn hoạt động lâu dài và tham gia vào các hoạt động khác Do đó, cần có cơ chế tạo điều kiện cho các luật sư nước ngoài gia nhập Đoàn Luật sư, từ đó tăng cường sự hội nhập, hợp tác và học hỏi lẫn nhau giữa luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài.

Quy định yêu cầu luật sư nước ngoài phải có mặt thường xuyên tại Việt Nam là không hợp lý, vì điều này gây khó khăn cho mối quan hệ quản lý giữa họ và cơ quan quản lý tại quốc gia cư trú Điều này cũng tạo thêm gánh nặng cho các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý nước ngoài Do đó, cần loại bỏ quy định này và thay thế bằng các quy định quản lý hiệu quả hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm tạo điều kiện cho luật sư nước ngoài cư trú tại quốc gia của họ Chẳng hạn, yêu cầu cư trú chỉ nên áp dụng cho những luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật có hiện diện thương mại tại Việt Nam.

Việt Nam cần xây dựng bộ "Quy tắc về đạo đức nghề nghiệp luật sư" dành riêng cho luật sư nước ngoài, nhằm đảm bảo rằng họ tuân thủ các nguyên tắc hành nghề và quy tắc đạo đức tương tự như luật sư Việt Nam Tuy nhiên, do đặc điểm hoạt động phức tạp của tổ chức luật sư nước ngoài, việc áp dụng các quy tắc chung là chưa đủ Do đó, cần thiết phải có những quy tắc riêng biệt để điều chỉnh hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của luật sư nước ngoài tại Việt Nam.

Theo điểm b khoản 2 Điều 77 của Luật Luật sư (sửa đổi, bổ sung 2012), các luật sư nước ngoài khi hành nghề tại Việt Nam phải tuân thủ những nghĩa vụ nhất định.

 Đối với luật sƣ, tổ chức hành nghề luật sƣ Việt Nam:

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến luật sư và hành nghề luật sư tại Việt Nam, đồng thời triển khai hiệu quả các văn bản pháp luật hiện hành Cần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thể chế và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong tổ chức và hoạt động của luật sư Mục tiêu là tạo điều kiện cho nghề luật sư Việt Nam tiếp cận gần hơn với các thông lệ hành nghề luật sư quốc tế.

Quy định hiện tại tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý ở nước ngoài Mặc dù Luật cho phép các tổ chức này mở cơ sở hành nghề luật sư tại nước ngoài, nhưng lại quy định thu hồi chứng chỉ hành nghề đối với luật sư không thường trú tại Việt Nam Do đó, cần có quy định hợp lý hơn về việc thu hồi chứng chỉ hành nghề, liên quan đến tình trạng thường trú của luật sư Việt Nam, nhằm giúp họ dễ dàng hoạt động tại thị trường quốc tế và tích lũy kinh nghiệm để phát triển dịch vụ pháp lý trong nước.

Khuyến khích các tổ chức luật sư nước ngoài sử dụng nguồn nhân lực là các luật sư Việt Nam nhằm nâng cao vai trò của họ trong lĩnh vực pháp lý Việc này không chỉ tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho luật sư Việt Nam mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho các tổ chức nước ngoài khi khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành dịch vụ pháp lý tại Việt Nam.

3.2.2 Nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ cho ngành dịch vụ pháp lý Để đảm bảo quá trình mở cửa thị trường ngành dịch vụ pháp lý nói chung và sự phát triển của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam và các luật sư Việt

35 Khoản 1 Điều 43 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012)

36 Điểm b, khoản 1, Điều 18 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012)

Nam nói riêng, nhà nước cũng cần có các chính sách và biện pháp quản lý nhà nước phù hợp, như sau:

Tăng cường nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

Nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật và nghề luật sư là mục tiêu quan trọng, hướng tới việc cải thiện chương trình tập sự hành nghề luật sư Chương trình này sẽ được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn quốc gia và tiếp cận các mô hình đào tạo tiên tiến từ các nước trong khu vực và trên thế giới.

Cần thành lập cơ sở đào tạo liên kết và tổ chức chương trình đào tạo luật sư nhằm phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việc lựa chọn luật sư để tham gia đào tạo chuyên sâu ở nước ngoài là cần thiết, đồng thời khuyến khích các luật sư tự nâng cao kiến thức và kỹ năng của mình để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Mỗi luật sư và chuyên gia dịch vụ pháp lý cần nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc tự trau dồi kiến thức, không chỉ trong lĩnh vực pháp lý mà còn về ngoại ngữ và kinh nghiệm hành nghề quốc tế Việc học hỏi các phương pháp làm việc khoa học và chuyên nghiệp sẽ giúp nâng cao trình độ và chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp cho khách hàng.

Thay đổi phương pháp đào tạo luật sư và những người hành nghề dịch vụ pháp lý

Chất lượng đào tạo cử nhân luật và nghề luật sư tại Việt Nam hiện còn hạn chế, với chương trình và phương pháp đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn Nhiều luật sư thiếu kinh nghiệm và trình độ khi tham gia tố tụng và tư vấn pháp luật, do chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng và tư vấn trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại Hầu hết luật sư hiện nay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm tự học hỏi và rút ra từ thực tiễn.

Sinh viên đại học cần không chỉ tiếp thu kiến thức lý thuyết mà còn phải tham gia vào các chương trình thực hành nghề luật, đặc biệt là tại những tổ chức hành nghề uy tín.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:04

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w