1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Cam kết về lao động cưỡng bức và sử dụng lao động trẻ em trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

91 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 1,65 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • Luận văn Thạc sĩ - Kim Cúc

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ CAM KẾT VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI

Những vấn đề cơ bản về cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

mại tự do thế hệ mới

1.1.1 Khái niệm cam kết về lao động

Các cam kết về lao động, theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), thường được quy định trong nhiều loại hình cam kết và thỏa thuận thương mại, đặc biệt là các cam kết thương mại đơn phương và các hiệp định thương mại song phương và khu vực Cam kết thương mại đơn phương thường là các ưu đãi thương mại một chiều của quốc gia phát triển dành cho các quốc gia đang phát triển Hệ thống ưu đãi phổ cập của Hoa Kỳ năm 1984 là một ví dụ điển hình, đánh dấu cam kết thương mại đơn phương đầu tiên đề cập đến lao động Điều kiện để các quốc gia được hưởng ưu đãi thương mại là thực hiện hoặc nỗ lực công nhận quyền của người lao động theo các tiêu chuẩn quốc tế.

(i) quyền tự do lập hội;

(ii) quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể;

(iii) quyền tự do lao động, không là nạn nhân của lao động cưỡng bức; (iv) quyền được đảm bảo về độ tuổi làm việc tối thiểu;

Quyền đảm bảo về điều kiện làm việc chấp nhận bao gồm chế độ tiền lương tối thiểu, thời gian làm việc hợp lý, an toàn và vệ sinh lao động Đồng thời, cần thực thi các cam kết nhằm xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất Các tổ chức của người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức xã hội dân sự có liên quan có quyền đệ trình cáo buộc về các hành vi vi phạm các quy định này.

Năm 1995, Ủy ban châu Âu đã đưa ra các cam kết về lao động trong hệ thống ưu đãi phổ cập của Liên minh châu Âu.

6 ILO (2016), Studies on Growth with Equity: Assessment of labour provisions in trade and investment arrangements, Printing and Distribution Branch (PRODOC) of the ILO, tr.21

7 UNCTAD (2016), Generalized System of Preferences: Handbook on the Scheme of the United States of America, United Nations, tr.9

Hệ thống ưu đãi phổ cập của EU áp dụng phương pháp “cà rốt và cây gậy”, bao gồm các biện pháp trừng phạt đối với hành vi vi phạm nghiêm trọng các cam kết về lao động, đồng thời cung cấp ưu đãi bổ sung cho các quốc gia thực thi đầy đủ quyền lợi của người lao động Qua các thế hệ của hệ thống này, các quyền và lợi ích được mở rộng Ở thế hệ đầu tiên năm 1995, các ưu đãi thương mại sẽ bị rút bỏ nếu có vi phạm nghiêm trọng liên quan đến lao động cưỡng bức Thế hệ thứ hai năm 1999 đã mở rộng các cam kết, yêu cầu các quốc gia xóa bỏ lao động trẻ em và phân biệt đối xử trong công việc Cuối cùng, tại thế hệ thứ ba, vi phạm nghiêm trọng các cam kết liên quan đến bốn tiêu chuẩn lao động quốc tế sẽ dẫn đến việc rút bỏ ưu đãi thương mại, trong khi các quốc gia tuân thủ sẽ nhận được ưu đãi bổ sung.

Các hiệp định thương mại song phương và khu vực phản ánh sự chuyển biến trong chính sách tự do hóa thương mại toàn cầu, cho thấy sự hợp tác ngày càng gia tăng giữa các quốc gia nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư.

Kể từ khi kết thúc vòng đàm phán U-ru-goay, thương mại đa phương đã giảm sút, nhường chỗ cho sự phát triển mạnh mẽ của thương mại song phương và khu vực Xu hướng "phân mảnh" hệ thống thương mại toàn cầu đã xuất hiện như một phản ứng tự nhiên đối với những bế tắc trong các cuộc đàm phán thương mại đa phương.

8 ILO, International Institute for Labour Studies (2009), World of Work Report 2009: The Global Jobs Crisis and Beyond, ILO Publications, International Labour Office, tr 67

Theo Baldwin (2006), các quốc gia đang ngày càng chuyển sang ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) trong bối cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt là tại vòng đàm phán Đô-ha Tính đến đầu năm 2020, Tổ chức Thương mại thế giới đã ghi nhận 262 FTA trong tổng số 484 hiệp định thương mại khu vực Ngày nay, FTA không chỉ đơn thuần là các thỏa thuận hội nhập khu vực hay song phương mà còn đại diện cho những thỏa thuận kinh tế sâu sắc giữa nhiều quốc gia, được gọi là FTA thế hệ mới Những hiệp định này có phạm vi toàn diện, bao gồm cả các lĩnh vực truyền thống như thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ, cũng như các vấn đề phi truyền thống như lao động và môi trường.

Cam kết về lao động đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới FTA đầu tiên có quy định liên quan đến cam kết lao động là Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), thông qua Hiệp định Hợp tác lao động Bắc Mỹ (NAALC) Hiệp định này đã liệt kê 11 nguyên tắc lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.

Quyền tự do hiệp hội bao gồm quyền thành lập công đoàn và quyền liên kết để tạo thành các hiệp hội lớn hơn của người lao động, góp phần bảo vệ lợi ích và quyền lợi hợp pháp của họ trong môi trường làm việc.

(ii) quyền thương lượng tập thể;

Chương trình nghị sự Đô-ha về phát triển, hay còn gọi là 10 Vòng đàm phán Đô-ha, được khởi động tại Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại thế giới lần thứ 4 diễn ra vào tháng 11 năm 2001 tại Đô-ha, Ca-ta.

Vào năm 2001, các bộ trưởng đã đặt mục tiêu kết thúc vòng đàm phán Đô-ha vào năm 2005, nhằm giảm đáng kể các rào cản thương mại Mục tiêu này không chỉ hỗ trợ sự phát triển của các quốc gia nghèo mà còn tìm cách giải quyết những vấn đề khó khăn còn tồn tại, như trợ cấp nông nghiệp, mà trước đó chưa được giải quyết trong các hiệp định như GATT.

“Global Trade After the Failure of the Doha Round”, https://www.nytimes.com/2016/01/01/opinion/global- trade-after-the-failure-of-the-doha-round.html, 09/12/2018

11 Bùi Trường Giang (2010), Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn Đông Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.40

12 Tên tiếng Anh: North American Free Trade Agreement, viết tắt là NAFTA NAFTA được ký kết năm 1994 giữa Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô

13 Tên tiếng Anh: North American Agreement on Labor Cooperation, viết tắt là NAALC

(iv) nghiêm cấm cưỡng bức người lao động làm việc;

(v) nghiêm cấm sử dụng lao động là trẻ em;

(vi) xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp giữa lao động nam và lao động nữ;

(vii) trả lương bình đẳng dựa trên giá trị công việc cho lao động nam và lao động nữ;

(viii) đảm bảo các tiêu chuẩn việc làm tối thiểu;

(ix) phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;

(x) thực hiện đền bù phù hợp khi xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;

(xi) bảo vệ người lao động di cư làm việc ở nước ngoài 14

Các thành viên của NAALC cam kết thúc đẩy các nguyên tắc lao động theo quy định của pháp luật quốc gia, trong đó không được thiết lập tiêu chuẩn tối thiểu chung về lao động Họ cũng phải bảo vệ quyền lợi của người lao động thông qua các văn bản pháp lý và quy định thực thi Nếu pháp luật quốc gia không thực hiện đúng cam kết về lao động, như lao động trẻ em và an toàn lao động, mức phạt có thể lên tới 20 triệu USD Từ khi NAFTA ra đời, số lượng hiệp định thương mại tự do (FTA) có điều khoản về lao động đã tăng mạnh, từ ba hiệp định vào năm 1995 lên 77 hiệp định vào năm 2016, trong đó gần một nửa được ký kết sau năm 2008 và hơn 80% có hiệu lực từ năm 2013 có quy định liên quan đến lao động.

Các báo cáo thường niên của ILO đã đạt được sự thống nhất trong cách hiểu các điều khoản liên quan đến cam kết về lao động trong các FTA Theo đó, các cam kết này được định nghĩa là những quy định bao gồm:

16 ILO (2017), Studies on Growth with Equity: Handbook on assessment of labour provisions in trade and investment arrangements, Printing and Distribution Branch (PRODOC) of the ILO, tr.11

Bất kỳ tiêu chuẩn lao động nào cũng cần thiết lập điều kiện làm việc tối thiểu, các điều khoản tuyển dụng và quyền lợi của người lao động Đồng thời, cần có cơ chế nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, dựa trên pháp luật quốc gia về lao động và việc thực thi các cơ chế này.

(iii) bất kỳ khuôn khổ hợp tác và/hoặc giám sát các vấn đề này 18

Nội dung bài viết đề cập đến ba khía cạnh quan trọng liên quan đến tiêu chuẩn lao động và điều kiện làm việc Đầu tiên, các cam kết về quyền tự do lựa chọn công việc, tiền lương tối thiểu, thời gian làm việc hợp lý và an toàn sức khỏe Thứ hai, các nghĩa vụ về thể chế và thủ tục thực thi, bao gồm khuôn khổ đối thoại và giám sát cùng với thủ tục giải quyết tranh chấp Cuối cùng, bài viết nhấn mạnh các hoạt động hợp tác nhằm thúc đẩy sự tuân thủ, bao gồm phát triển hợp tác để hỗ trợ thực thi và giám sát thông qua các cơ quan được thành lập dựa trên cơ chế tham vấn và đối thoại thường xuyên giữa các bên.

1.1.2 Nội dung cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Những vấn đề cơ bản về lao động cưỡng bức

1.2.1 Khái niệm lao động cưỡng bức

Khái niệm lao động cưỡng bức được chính thức ghi nhận trong Công ước số

29 về Lao động cưỡng bức năm 1930 của ILO Theo đó, lao động cưỡng bức là

Mọi công việc hoặc dịch vụ mà một cá nhân bị buộc phải thực hiện dưới áp lực hoặc đe dọa về hình phạt, và người đó không có sự tự nguyện trong hành động của mình, được coi là sự ép buộc.

1, Điều 2) Ở đây, lao động cưỡng bức được nhìn nhận như một tập hợp các loại hành vi khác nhau, thỏa mãn các đặc tính gồm:

Hành vi này bao gồm mọi loại hình công việc hoặc dịch vụ, không chỉ giới hạn trong những công việc hợp pháp theo hợp đồng lao động mà còn cả những công việc bất hợp pháp, không liên quan đến quan hệ lao động Do đó, các loại hình công việc và dịch vụ được hiểu là đa dạng, không phân biệt lĩnh vực và tính hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Các hành vi không tự nguyện này thường bị ép buộc và không phản ánh ý chí hay mong muốn của người thực hiện Những cá nhân này có thể bị tác động bởi nhiều hình thức khác nhau, dẫn đến việc họ phải thực hiện công việc hoặc dịch vụ mà không có sự đồng thuận Hành vi này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người thực hiện mà còn có thể tác động đến gia đình và những người có mối quan hệ gần gũi với họ.

Người thực hiện các hành vi không đúng sẽ phải chịu hình phạt, không nhất thiết phải là hình phạt hình sự theo quy định pháp luật Hình phạt có thể là việc cá nhân mất đi một số quyền lợi hoặc đặc quyền như tiền thưởng, phúc lợi, tiền tái tạo sức lao động và quyền chăm sóc y tế.

61 Phan Thị Thanh Huyền (2015), Nhận diện về lao động cưỡng bức trong pháp luật lao động Việt Nam hiện hành, Tạp chí Dân chủ và pháp luật điện tử

62 The Asian Development Bank and International Labour Office (2006), Core Labour Standards, tr.42

1.2.2 Phân loại lao động cưỡng bức

Phân loại lao động cưỡng bức có thể được thực hiện dựa trên ba tiêu chí chính: đối tượng gây ra tình trạng lao động cưỡng bức, nạn nhân của lao động cưỡng bức và mục đích của hình thức lao động này.

Theo tiêu chí về chủ thể gây ra tình trạng lao động cưỡng bức, lao động cưỡng bức gồm:

Lao động cưỡng bức do người sử dụng lao động gây ra là hình thức phổ biến nhất hiện nay Người sử dụng lao động thực hiện nhiều hành vi khác nhau, trực tiếp khiến người lao động trở thành nạn nhân của tình trạng này.

Lao động cưỡng bức xuất phát từ các mối quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động Những cá nhân liên quan trong tình huống này có thể bao gồm những người được thuê bởi người sử dụng lao động để thực hiện các công việc tại cơ sở, chẳng hạn như quản đốc phân xưởng.

Theo tiêu chí về chủ thể là nạn nhân của lao động cưỡng bức, lao động cưỡng bức gồm:

Lao động cưỡng bức ảnh hưởng đến nhiều đối tượng, trong đó có người lao động thông thường và các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ và lao động di trú.

Mỗi loại chủ thể bị ảnh hưởng bởi lao động cưỡng bức phải đối mặt với các hình thức cưỡng bức khác nhau Việc phân loại lao động cưỡng bức sẽ hỗ trợ các cơ quan liên quan trong việc xây dựng các phương án và biện pháp linh hoạt nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt là các nhóm đối tượng đặc thù.

Theo tiêu chí về mục đích của lao động cưỡng bức, lao động cưỡng bức gồm:

Lao động cưỡng bức vì mục đích kinh tế xảy ra khi các chủ thể buộc cá nhân thực hiện những công việc mà họ không mong muốn, nhằm khai thác tối đa nguồn lực và tối ưu hóa lợi ích kinh tế.

Lao động cưỡng bức không chỉ nhằm mục đích kinh tế mà còn có thể được sử dụng như một hình phạt hoặc biện pháp răn đe đối với những người lao động có quan điểm trái ngược với nhà tuyển dụng, đặc biệt liên quan đến tiền lương, thời gian làm việc và nghỉ ngơi Khi người lao động tổ chức đình công hoặc biểu tình, họ có thể bị áp dụng lao động cưỡng bức như một hình thức trừng phạt Hơn nữa, lao động cưỡng bức cũng có thể xảy ra trong bối cảnh tình dục hoặc mại dâm, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em gái.

1.2.3 Các dấu hiệu của lao động cưỡng bức

Theo Công ước số 29 về Lao động cưỡng bức, ILO đã giới thiệu 63 dấu hiệu nhận diện lao động cưỡng bức, giúp xác định và phân loại các hình thức lao động không tự nguyện.

(i) Lạm dụng tình trạng khó khăn của người lao động

Nạn nhân của lao động cưỡng bức rất đa dạng, và bất kỳ ai cũng có thể trở thành nạn nhân Tuy nhiên, những người có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là những người thiếu hiểu biết về ngoại ngữ và pháp luật, thường dễ bị lạm dụng và buộc phải thực hiện những công việc mà họ không tự nguyện làm Ngoài ra, các nhóm dễ bị tổn thương cũng thường là mục tiêu của tình trạng lao động cưỡng bức.

Một cá nhân gặp khó khăn không nhất thiết là nạn nhân của lao động cưỡng bức Lao động cưỡng bức xảy ra khi người sử dụng lao động lợi dụng tình trạng khó khăn để áp đặt các quy định như thời gian làm việc quá nhiều hoặc giữ lại tiền lương Ngoài ra, lao động cưỡng bức còn phát sinh khi người lao động phụ thuộc vào người sử dụng lao động về điều kiện sinh hoạt của gia đình, bao gồm nhà ở, thực phẩm và công việc.

Lừa gạt trong môi trường lao động xảy ra khi nhà tuyển dụng không thực hiện các cam kết đã hứa với người lao động, những cam kết này có thể được thể hiện qua lời nói hoặc văn bản Thực tế cho thấy, người lao động thường phải đối mặt với những lời hứa không được thực hiện.

63 Nội dung của các dấu hiệu này được tham khảo tại tài liệu “Các dấu hiệu nhận biết lao động cưỡng bức của

Những vấn đề cơ bản về lao động trẻ em

1.3.1 Khái niệm lao động trẻ em và tuổi lao động tối thiểu

Theo pháp luật quốc tế, trẻ em được xác định là những người dưới 18 tuổi Cụ thể, Điều 1 của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 định nghĩa trẻ em là những cá nhân dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn Thêm vào đó, Điều 2 của Công ước số 182 về những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 cũng áp dụng thuật ngữ "trẻ em" cho tất cả những người dưới 18 tuổi trong khuôn khổ của công ước này.

Lao động trẻ em, theo định nghĩa của ILO, là những công việc làm trẻ em mất đi tuổi thơ, tiềm năng và nhân cách, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ, bao gồm cả việc cản trở khả năng đến trường.

(i) nguy hiểm và gây hại cho trẻ em về mặt tinh thần, thể chất, xã hội hay đạo đức; và

Việc cản trở học tập của trẻ em xảy ra khi các em bị tước đi cơ hội học hành, dẫn đến việc phải nghỉ học sớm hoặc kết hợp việc học với công việc nặng nhọc trong thời gian dài.

Thuật ngữ “lao động trẻ em” chỉ tình trạng trẻ em dưới 18 tuổi phải thực hiện các công việc gây hại cho sức khỏe, tinh thần, trí tuệ, đạo đức và nhân cách của họ Những công việc này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện mà còn cản trở cơ hội học tập của trẻ Để xác định khi nào một công việc trở thành lao động trẻ em, cần làm rõ khái niệm về tuổi lao động tối thiểu theo quy định pháp luật.

Theo Điều 1 và Điều 2 của Công ước số 138 về Tuổi tối thiểu năm 1973, tuổi lao động tối thiểu là độ tuổi mà trẻ em có thể tham gia lao động mà không ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và trí tuệ Độ tuổi này không được thấp hơn tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và phải tuân theo quy định của pháp luật quốc gia.

Theo Công ước số 138 về Tuổi tối thiểu năm 1973, tuổi lao động tối thiểu được phân loại thành ba loại: tuổi tối thiểu cơ bản, tuổi tối thiểu cho các công việc nguy hại và tuổi tối thiểu cho những công việc nhẹ nhàng.

(i) Tuổi tối thiểu chung áp dụng cho mọi quốc gia là không dưới 15 tuổi, và không dưới 14 tuổi cho các quốc gia đang phát triển

Tuổi tối thiểu cho các công việc nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm tại mọi quốc gia là 18 tuổi Tuy nhiên, nếu tuổi tối thiểu cho những loại công việc này được quy định là 16 tuổi, thì các quy định cụ thể sẽ được áp dụng.

Quốc gia cần bảo vệ an toàn và phẩm giá của trẻ em Việc sử dụng trẻ em trong công việc nguy hiểm là một trong những hình thức lao động trẻ em nghiêm trọng nhất.

Tuổi tối thiểu cho các công việc nhẹ ở nhiều quốc gia dao động từ 13 đến 15 tuổi, trong khi ở các quốc gia đang phát triển, độ tuổi này có thể giảm xuống từ 12 đến 14 tuổi Công việc nhẹ là những nhiệm vụ mà trẻ em có thể thực hiện mà không gây hại cho sức khỏe, sự an toàn và không ảnh hưởng đến việc học tập hoặc đào tạo nghề của các em.

1.3.2 Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất

Theo Điều 3 của Công ước số 182 năm 1999 về Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất được quy định bao gồm những hoạt động gây hại nghiêm trọng đến sức khỏe, sự phát triển và nhân phẩm của trẻ em.

Mọi hình thức nô lệ và các hoạt động tương tự như buôn bán, vận chuyển trẻ em, gán nợ, lao động nô lệ và lao động cưỡng bức, bao gồm cả việc tuyển mộ trẻ em tham gia vào xung đột vũ trang, đều cần phải được lên án và ngăn chặn triệt để.

Nô lệ trẻ em là tình trạng trẻ em bị lệ thuộc vào người khác, buộc phải làm việc mà không có quyền bày tỏ ý kiến Những trẻ em này thường bị giam giữ trái ý muốn, có thể từ khi bị bắt giữ, bị mua hoặc ngay từ khi sinh ra Họ không có quyền tự ý rời khỏi nơi ở và làm việc, cũng như không thể từ chối công việc được giao.

Buôn bán trẻ em là hành vi bất hợp pháp liên quan đến việc mua, bán hoặc vận chuyển trẻ em nhằm mục đích bóc lột sức lao động hoặc tình dục Trẻ em thường bị buôn bán vì nhiều lý do, bao gồm lao động cưỡng bức, mại dâm và tham gia vào xung đột vũ trang Gán nợ, một hình thức lao động cưỡng bức, xảy ra khi gia đình nghèo giao con cái cho người khác để trả nợ, buộc trẻ phải làm việc nhiều năm cho đến khi khoản nợ được thanh toán.

Lao động nô lệ là tình trạng mà một cá nhân bị buộc phải sống và làm việc cho người khác, thường nhận được mức lương rất thấp hoặc không được trả lương.

(ii) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào hoạt động mại dâm, sản xuất các sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm

Trẻ em có nguy cơ bị mua bán để kết hôn, tham gia mại dâm hoặc trở thành nô lệ tình dục ở cả nước phát triển và đang phát triển Trẻ em gái thường bị bắt cóc và buôn bán xuyên biên giới, dẫn đến việc trở thành gái mại dâm ở nước ngoài Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, bao gồm suy giảm thể chất, mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục và rối loạn tâm lý.

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ XOÁ BỎ LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC VÀ LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN 39 2.1 Các quy định về xoá bỏ lao động cưỡng bức và lao động trẻ em trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:04

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN