CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP CHỊU THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
Lý luận chung về thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp
1.1.1 Khái quát chung về thuế thu nhập doanh nghiệp
Pháp luật, đặc biệt là pháp luật thuế, được hình thành từ các điều kiện kinh tế và xã hội cụ thể Khi có quan hệ mới xuất hiện, cần có sự điều chỉnh của pháp luật để đảm bảo sự phát triển tích cực của quan hệ đó Nhà nước, với vai trò quản lý xã hội, có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ xã hội Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc ban hành pháp luật có thể hạn chế sự phát triển, đặc biệt đối với các quan hệ tiêu cực Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (Luật thuế TNDN) cũng được hình thành theo quy luật này.
Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm các quy định pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ thuế của các chủ thể kinh doanh đối với thu nhập từ hoạt động kinh doanh.
Luật thuế TNDN ra đời là một phần quan trọng trong hệ thống văn bản pháp luật về thuế của Việt Nam, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ thuế Thuế TNDN không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn gắn liền với nhà nước, được ban hành bởi cơ quan quyền lực cao nhất và không mang tính đối giá Mặc dù thuế TNDN chia sẻ những đặc điểm chung với các loại thuế khác, nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng, giúp phân biệt với các sắc thuế khác trong hệ thống pháp luật về thuế tại Việt Nam.
1 Đại học luật Tp.Hồ Chí Minh (2009), Tập bài giảng luật thuế năm học 2009-2010, Tp.Hồ Chí minh, tr.169.
Thuế TNDN thường chiếm tỷ trọng cao trong nguồn thu ngân sách Nhà nước:
Các chủ thể nộp thuế TNDN, chủ yếu là doanh nghiệp trong khu vực sản xuất và kinh doanh, đóng góp một phần lớn vào thu nhập quốc gia Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác thuế năm 2010 cho thấy tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách tăng từ 61% năm 2009 lên 62,5% năm 2010, với thu từ khu vực sản xuất, kinh doanh chiếm 72% trong tổng thu nội địa và tăng 28,7% so với cùng kỳ Điều này chứng tỏ sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp vào ngân sách Nhà nước.
Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định và thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp cũng gia tăng sản xuất và cải tiến kỹ thuật, nâng cao khả năng cạnh tranh Điều này dẫn đến khả năng huy động nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách Nhà nước ngày càng lớn hơn.
Thuế TNDN là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội:
Các doanh nghiệp có lực lượng lao động tay nghề cao và năng lực tài chính mạnh sẽ có lợi thế và cơ hội nhận thu nhập cao, trong khi các doanh nghiệp với năng lực tài chính và lực lượng lao động hạn chế sẽ gặp khó khăn và có thể không có thu nhập Đại bộ phận dân cư, mặc dù chiếm đa số, nhưng lại có thu nhập thấp, đời sống ngày càng khó khăn, dẫn đến sự chênh lệch thu nhập gia tăng Để giảm thiểu sự bất bình đẳng này, Nhà nước áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp như một công cụ điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp có thu nhập cao, nhằm đảm bảo sự công bằng và hợp lý trong việc đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Thuế TNDN có tác dụng thực hiện vai trò bảo lưu quyền đánh thuế của quốc gia đối với các DN là đối tượng thường trú:
Trên thực tế, hầu hết các quốc gia đều đánh thuế TNDN đối với tất cả các
DN hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia mình không phân biệt về quốc tịch Dựa
Doanh nghiệp hoạt động trong lãnh thổ quốc gia không chỉ phải tuân thủ các quy định của Nhà nước mà còn được bảo vệ khỏi các xâm hại và hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư Điều này cho thấy rằng, thu nhập của doanh nghiệp từ hoạt động tại quốc gia đó là kết quả của sự hỗ trợ và quản lý từ phía Nhà nước.
Doanh nghiệp (DN) có cơ hội tối ưu để đạt được lợi nhuận cao nhất, tùy thuộc vào năng lực của mình Tuy nhiên, DN phải thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập đối với quốc gia mà mình mang quốc tịch, bất kể hoạt động đầu tư diễn ra trong nước hay ở nước ngoài Sự phát triển và khả năng tạo ra thu nhập của DN phụ thuộc nhiều vào chính sách thương mại và mối quan hệ giữa quốc gia của DN và quốc gia nơi DN đầu tư.
DN tiến hành hoạt động kinh doanh Qua đó cho thấy sự tác động của quốc gia là rất quan trọng đối sự phát triển của DN
Do đó, doanh nghiệp phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm giúp Nhà nước duy trì và ổn định xã hội, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội Đây là một đặc điểm riêng biệt của loại thuế này.
Thếu TNDN là loại thuế trực thu:
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp từ người nộp thuế, trong đó người nộp thuế cũng chính là người chịu trách nhiệm về khoản thuế đó Điều này cho thấy Nhà nước đã thực hiện việc điều tiết thu nhập của các tổ chức và cá nhân một cách thống nhất, góp phần vào ngân sách Nhà nước.
Theo Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 ngày 03 tháng 06 năm 2008, Điều 2 quy định rằng các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh là đối tượng nộp thuế và cũng là người chịu thuế Sắc thuế này đánh trực tiếp vào thu nhập của các đối tượng này, cho thấy thuế TNDN là một trong những sắc thuế trực thu điển hình Đối tượng chịu thuế TNDN chủ yếu là thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh Doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh Mục đích của doanh nghiệp là để tiến hành các hoạt động kinh doanh.
3 Đại học luật Tp.Hồ Chí Minh (2009), Tập bài giảng luật thuế năm học 2009-2010, Tp.Hồ Chí minh, tr 24
Theo khoản 1 điều 4 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH 11, các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát sinh thu nhập là đối tượng chịu thuế TNDN Đối tượng này chỉ bao gồm thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp, được xác định dựa trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư và các quy định khác của luật thuế TNDN Ngoài doanh nghiệp, các chủ thể như hợp tác xã và đơn vị sự nghiệp cũng có hoạt động kinh doanh tương tự và thu nhập của họ cũng thuộc đối tượng chịu thuế TNDN Do đó, có thể khẳng định rằng đối tượng chịu thuế TNDN là thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp, chủ yếu từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thu nhập chịu thuế TNDN
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, thu nhập trong kinh tế học vi mô được định nghĩa là phần chênh lệch giữa khoản thu và chi phí đã bỏ ra Cụ thể, khi một chủ thể kinh tế tiến hành hoạt động kinh doanh, họ cần đầu tư một khoản chi phí nhất định Sau khi kết thúc hoạt động kinh doanh, chủ thể này thu được một khoản thu, nhưng cần trừ đi các khoản đầu tư và chi phí đã bỏ ra Do đó, thu nhập được xác định là khoản thu còn lại sau khi trừ đi các chi phí đầu tư.
Trên cơ sở cách hiểu trên tác giả có thể hiểu về khái niệm thu nhập chịu thuế TNDN nhƣ sau:
Thu nhập của doanh nghiệp được xác định bằng tổng nguồn thu trừ đi các khoản chi phí Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh không hợp pháp, như kinh doanh trong các ngành nghề bị cấm Do đó, theo quy định pháp luật, khoản thu hợp pháp của doanh nghiệp phải đến từ hoạt động sản xuất.
5 Theo điều 3 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số14/ 2008/QH12 ngày 03/06/2008
6 Theo điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số14/ 2008/QH12 ngày 03/06/2008
7 http://vi.wikipedia.org/wiki/Thu_nh%E1%BA%ADp Truy cập vào lúc 09 giờ ngày 25 tháng 05 năm 2011
Sau khi thực hiện phép trừ, nếu không còn khoản dư nào hoặc kết quả trừ âm (-) do chi phí vượt quá nguồn thu, điều này có nghĩa là không phát sinh thu nhập từ hoạt động kinh doanh hợp pháp và các hoạt động bổ trợ Trong quá trình sản xuất và kinh doanh, việc này cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Quy định của pháp luật hiện hành về thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp 12
1.2.1 Sơ lƣợc về lịch sử thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Giai đoạn từ tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1965: Chủ tịch nước Hồ
Vào ngày 22 tháng 07 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 44, chính thức ban hành thuế công thương, đánh dấu sự khởi đầu cho các sắc thuế về thu nhập sau này Sắc thuế này quy định rằng "lợi tức là sự chênh lệch giữa doanh thu và giá thành sản xuất", và dựa vào lợi tức để xác định số thuế phải nộp.
Giai đoạn từ 1965 đến trước năm 1990, nền kinh tế Việt Nam hoạt động theo chế độ bao cấp, không có nền kinh tế thị trường, do đó việc xác định thu nhập chịu thuế dựa vào chỉ tiêu doanh thu do Nhà nước ấn định Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa, dẫn đến quyết định chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Tuy nhiên, chỉ đến năm 1990, việc mở cửa nền kinh tế mới chính thức được thực hiện.
Giai đoạn từ 1990 đến trước năm 1997, Việt Nam áp dụng hai loại thuế với đối tượng nộp thuế tương tự như thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay.
Thuế lợi tức là loại thuế áp dụng cho tổng lợi tức chịu thuế trong năm, được tính bằng cách lấy doanh thu trừ đi các chi phí hợp lý và hợp lệ, cộng với các khoản lợi tức khác.
Doanh thu hiện tại bao gồm toàn bộ tiền từ bán hàng, gia công và dịch vụ đã thực hiện, được sử dụng làm cơ sở để tính toán doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt Qua việc xác định doanh thu, có thể nhận thấy rằng luật đã có sự điều chỉnh trong thời điểm này.
Theo Điều 7 của Luật thuế lợi tức 1990 số 270b-NQ/HĐNN8 ngày 30/06/1990, việc đánh đồng giữa hoạt động bán hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh là không hợp lý, bởi vì đây là hai hoạt động độc lập.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có thể trừ các chi phí như chi phí sản xuất, khấu hao nguyên liệu và chi phí vận chuyển Tuy nhiên, không thể coi toàn bộ những hoạt động này là hoạt động bán hàng, vì hoạt động bán hàng chỉ liên quan đến doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại.
Luật thuế lợi tức 1990 thiếu căn cứ rõ ràng để xác định thu nhập doanh nghiệp, gây khó khăn cho cả cơ quan thuế và doanh nghiệp trong việc kê khai thu nhập tính thuế Điều này dẫn đến tình trạng trốn thuế, gian lận thuế và hối lộ nhằm mục đích trốn thuế, thể hiện sự không minh bạch trong quá trình kê khai và tính toán thu nhập chịu thuế.
Quốc hội đã điều chỉnh quy định về doanh thu để tính lợi tức chịu thuế, bao gồm toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công và tiền dịch vụ mà tổ chức, cá nhân thu được.
Tuy nhiên, nhìn chung việc tính thu nhập chịu thuế trong Luật thuế lợi tức vẫn dựa trên việc tính lợi tức
Ngoài ra, trong giai đoạn này còn tồn tại Luật thuế doanh thu ban hành ngày
Ngày 08 tháng 8 năm 1990 đánh dấu một sự kiện quan trọng, mặc dù không phải là nguồn gốc trực tiếp của thuế TNDN, nhưng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng các quy định liên quan đến thuế TNDN.
Theo quy định của Luật này, thu nhập tính thuế doanh thu của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ khoản thu nhập mà doanh nghiệp nhận được Đây là thu nhập thuần chưa bao gồm bất kỳ khoản giảm trừ nào dành cho người nộp thuế.
Theo Điều 8 của Luật Doanh thu, doanh thu được định nghĩa bao gồm thu nhập từ nhiều hoạt động như sản xuất, thương mại, dịch vụ ăn uống, gia công, đại lý, ủy thác, ngân hàng, tín dụng và cầm đồ Quy định này đã tạo ra gánh nặng thuế cho doanh nghiệp, gây khó khăn cho việc thu hút đầu tư và tái đầu tư phát triển.
Năm 1995, Quốc hội tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật thuế doanh thu theo đó
Doanh thu tính thuế bao gồm toàn bộ số tiền thu được từ hoạt động sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam, không phân biệt ngành nghề hay hình thức kinh doanh, dù cơ sở kinh doanh nằm trong nước hay ở nước ngoài.
15 Theo khoản 1 luật số 19-L/CTN ngày 06/07/1993của Quốc Hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế lợi tức.
16 Theo khoản 2 điều 1 luật số 43 năm 1995 L/CTN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của luật doanh thu
Phạm vi xác định doanh thu hiện nay đã mở rộng, bao gồm tất cả thu nhập từ hoạt động kinh doanh của tổ chức và cá nhân tại Việt Nam, không loại trừ trường hợp nào Mặc dù quy định đã được mở rộng, nhưng luật vẫn không quy định về bất kỳ khoản miễn trừ nào, dẫn đến gánh nặng thuế ngày càng tăng cho doanh nghiệp.
Giai đoạn từ 1997đến trước năm 2003: Ngày 10 tháng 05 năm 1997 Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế cho Luật thuế lợi tức
Thu nhập chịu thuế theo luật này được xác định là thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của cá nhân và tổ chức, tính bằng doanh thu trừ đi các chi phí hợp lý Các nhà làm luật đã đơn giản kết hợp các quy định của Luật thuế lợi tức và Luật thuế doanh thu để xây dựng sắc thuế này.