KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Khái niệm và đặc điểm TTTM
Theo Điều 2, điểm a của Luật Mẫu, Trọng tài được định nghĩa là tất cả các hình thức Trọng tài, bất kể có sự giám sát của một tổ chức Trọng tài thường trực hay không.
Luật TTTM Việt Nam định nghĩa Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận, thực hiện theo quy trình pháp luật về TTTM Điều này có nghĩa là Trọng tài cung cấp một giải pháp hiệu quả để đạt được phán quyết cuối cùng, ràng buộc các bên trong tranh chấp mà không cần phải thông qua Tòa án.
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, phổ biến tại các quốc gia phát triển và ngày càng khẳng định tính hiệu quả của mình Trọng tài thương mại có năm đặc điểm nổi bật mà người tham gia cần nắm rõ.
TTTM là tổ chức giải quyết tranh chấp phi Chính phủ, được thành lập bởi các Trọng tài viên theo quy định pháp luật, không nhận lương từ Nhà nước và hoạt động tự trang trải Mặc dù là tổ chức phi Chính phủ, các Trung tâm trọng tài vẫn chịu sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua việc ban hành văn bản pháp lý, tuyên truyền pháp luật về Trọng tài, hợp tác quốc tế, hướng dẫn đào tạo Trọng tài viên và kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến Trọng tài.
Thương mại trọng tài (TTTM) là hình thức giải quyết tranh chấp không mang quyền lực Nhà nước, với nguồn gốc quyền lực xuất phát từ xã hội Khác với Tòa án, TTTM là cơ quan tài phán tư, hoạt động độc lập và không đại diện cho Nhà nước Trọng tài không có quyền lực công trong quá trình giải quyết tranh chấp, mà việc này phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên liên quan Điều này chứng tỏ thẩm quyền của TTTM không bị ràng buộc bởi hệ thống cơ quan nhà nước.
2 Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật TTTM về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thì
Tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên liên quan đã có thỏa thuận về việc trọng tài Tuy nhiên, việc giải quyết này chỉ có hiệu lực khi tất cả các điều kiện pháp lý được đáp ứng đầy đủ.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài kết hợp giữa thỏa thuận và tài phán, cho phép các bên chủ động lựa chọn Trung tâm trọng tài, Trọng tài viên, thời gian, địa điểm và phí trọng tài Khi quyết định sử dụng Trọng tài, phán quyết sẽ có tính ràng buộc đối với các bên liên quan.
Thứ tƣ, trong quá trình tố tụng, Trọng tài nhận đƣợc sự hỗ trợ to lớn từ Tòa án
TTTM, với tư cách là tổ chức phi Chính phủ, không có quyền lực Nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp, dẫn đến những khó khăn khi không có sự đồng thuận từ các bên liên quan Để hỗ trợ hoạt động của Trọng tài, pháp luật Trọng tài ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã quy định vai trò quan trọng của Tòa án Cụ thể, Tòa án đảm bảo thực hiện thỏa thuận Trọng tài, chỉ định và thay đổi Trọng tài viên, triệu tập người làm chứng, xem xét và giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định của HĐTT, áp dụng và thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời, thu thập chứng cứ, hủy phán quyết trọng tài khi có căn cứ, và công nhận, thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài mang lại tính bảo mật cao và phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm, không thể kháng cáo hay kháng nghị, đồng thời có hiệu lực thi hành với các bên liên quan Một trong những điểm khác biệt chính so với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án là quy trình diễn ra bí mật, giúp bảo vệ uy tín và thông tin kinh doanh của các bên Theo Điều 55 Luật TTTM, phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ không công khai trừ khi có thỏa thuận khác Do đó, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm và chỉ có một cấp xét xử, tạo ra sự rõ ràng và hiệu lực cho các bên tham gia.
Các hình thức TTTM tại Việt Nam
Trước ngày 01/07/2003, Việt Nam chỉ công nhận hình thức Trọng tài thường trực Tuy nhiên, hiện nay, đất nước đã điều chỉnh pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế, mở rộng các hình thức trọng tài khác.
Theo Luật TTTM 2010, Việt Nam công nhận hai hình thức Trọng tài: Trọng tài quy chế (thường trực) và Trọng tài vụ việc (ad-hoc) Điều này cho phép các bên tranh chấp có quyền tự do lựa chọn hình thức Trọng tài phù hợp nhất để giải quyết vấn đề của mình.
Trọng tài quy chế là phương thức giải quyết tranh chấp tại các Trung tâm trọng tài, được thực hiện theo quy định của Luật Trọng tài thương mại và các quy tắc tố tụng của từng Trung tâm.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được thành lập để giải quyết các tranh chấp cụ thể theo yêu cầu của các bên và sẽ tự giải thể sau khi hoàn tất việc giải quyết Đặc điểm nổi bật của trọng tài vụ việc là không có trụ sở cố định, không có bộ máy hỗ trợ và không phụ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào Các bên yêu cầu trọng tài ad-hoc có quyền lựa chọn quy trình và phương thức tiến hành tố tụng theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại.
Khái quát về tố tụng Trọng tài
Tố tụng trọng tài là quy trình giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các bên, trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, cũng như các tranh chấp khác được pháp luật quy định có thể giải quyết thông qua trọng tài.
1.3.1 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
Thẩm quyền của Trọng tài xác định giới hạn các vụ việc mà Trọng tài có quyền giải quyết Dù hoạt động của Trọng tài dựa trên thỏa thuận giữa các bên, tranh chấp phải thuộc phạm vi thẩm quyền theo quy định của pháp luật và cần có thỏa thuận trọng tài hợp pháp Do đó, một tranh chấp chỉ thuộc thẩm quyền của Trọng tài khi đáp ứng hai điều kiện quan trọng.
Tranh chấp được gửi đến Trọng tài theo Điều 2 Luật TTTM bao gồm các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại giữa các bên, cũng như những tranh chấp trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại Ngoài ra, còn có các tranh chấp khác được pháp luật quy định là sẽ được giải quyết bằng Trọng tài.
• Giữa các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài phải có hiệu lực
Theo Điều 107 Luật Doanh nghiệp, Điều 208, khoản 2 Luật Hàng hải, Điều 12 Luật Đầu tư 2005, Điều 32, 173 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Điều 79 Luật các công cụ chuyển nhượng, Điều 131 Luật Chứng khoán, Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 133 Luật Bảo vệ môi trường, các quy định này tạo ra khung pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trong các lĩnh vực khác nhau.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện cần thiết, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Khác với Tòa án, thẩm quyền của Trọng tài chỉ dựa trên vụ việc cụ thể Thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hay theo chỗ ở của bị đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài Các bên có quyền lựa chọn bất kỳ tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp, không phụ thuộc vào nơi ở hay trụ sở của nguyên đơn hoặc bị đơn, cũng như không bị giới hạn bởi các cấp xét xử.
1.3.2 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài quy định rằng các bên có thể đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ mối quan hệ pháp lý xác định Thỏa thuận này có thể được thể hiện dưới dạng điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng Khác với Tòa án, thẩm quyền của trọng tài không phải là tự động mà dựa trên sự lựa chọn và tính chất của vụ việc, do đó, tố tụng trọng tài chỉ được tiến hành khi có thỏa thuận trọng tài hợp pháp.
Nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của Trọng tài viên là sự độc lập, khách quan và vô tư, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Trọng tài viên không bị ràng buộc bởi bất kỳ kết luận nào từ cá nhân hay tổ chức khác, và không chịu sự chi phối từ ý kiến của bên thứ ba Sự độc lập của Trọng tài viên cần phải gắn liền với việc tuân thủ pháp luật, và trong trường hợp Trọng tài viên không thể đảm bảo tính khách quan, họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc có thể bị thay thế.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên tham gia đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, và Hội đồng Trọng tài (HĐTT) có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện quyền lợi của mình Mọi bên đều bình đẳng trước pháp luật và Trọng tài, không phân biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa hay nghề nghiệp HĐTT không được phân biệt đối xử và phải đảm bảo rằng các bên có thể thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ mà không bị hạn chế.
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ khi các bên có thỏa thuận khác Nguyên tắc này nhằm bảo vệ uy tín và bí mật kinh doanh của các bên, khác với nguyên tắc công khai trong tố tụng tại Tòa Phiên họp diễn ra trong không gian kín, đảm bảo thông tin không bị rò rỉ ra ngoài.
5 Giáo trình Luật Thương mại tập 2 (2006), NXB Công an nhân dân, tr 479
6 Điều 7 Luật Mẫu mặt của các bên tranh chấp và có thể có thêm bên thứ ba nếu các bên tranh chấp đồng ý
Phán quyết của Trọng tài mang tính chung thẩm, không thể bị kháng cáo hay kháng nghị, và có hiệu lực thi hành trừ khi có yêu cầu tuyên hủy Điều này xuất phát từ việc Trọng tài chỉ có một cấp xét xử, và các bên đã thỏa thuận lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua hình thức này Những nguyên tắc này đã được Luật Mẫu xác định và được công nhận rộng rãi trong hoạt động Trọng tài trên toàn cầu.
1.3.3 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại TTTM
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài là phương thức sử dụng Trọng tài viên, bên thứ ba độc lập, để chấm dứt xung đột trong hoạt động thương mại thông qua phán quyết Khác với tố tụng Tòa án, nơi các quy định pháp luật tố tụng phải được tuân thủ mà không có thỏa thuận giữa các bên, tố tụng Trọng tài cho phép các bên tự thỏa thuận về quy trình nếu chọn Trọng tài vụ việc Nếu giải quyết tại các Trung tâm trọng tài, thủ tục sẽ tuân theo quy tắc của Trung tâm Theo Luật TTTM, quá trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài bao gồm các bước cơ bản như sau:
Bước 1: Nộp đơn kiện và thụ lý đơn kiện (Điều 30, 31, 32, 33)
Nguyên đơn cần gửi đơn kiện đến Trung tâm trọng tài mà hai bên đã chọn để giải quyết tranh chấp Đơn khởi kiện phải được gửi đến Trung tâm trọng tài trong thời hạn theo quy định tại Điều 33 Đồng thời, đơn kiện cần chứa các nội dung chính theo Điều 32 khoản 2 Bên cạnh đó, nguyên đơn cũng phải đính kèm thỏa thuận trọng tài và các tài liệu liên quan khi nộp đơn khởi kiện.
Thời điểm bắt đầu tố tụng được xác định từ khi Trung tâm Trọng tài nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, hoặc nếu là vụ việc trọng tài, thì tính từ khi bị đơn nhận đơn khởi kiện Nếu các bên không có thỏa thuận khác, quy định này sẽ được áp dụng.
Bước 2: Gửi bản tự bảo vệ và đơn kiện lại (Điều 35, Điều 36)
Trong thời gian quy định, bị đơn cần gửi bản tự bảo vệ đến nguyên đơn và Trọng tài Nếu không thực hiện việc nộp bản này, quá trình giải quyết tranh chấp vẫn sẽ tiếp tục diễn ra bình thường.
Bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về các vấn đề liên quan đến nội dung tranh chấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Đơn kiện lại cần được gửi đến Trung tâm trọng tài, và nếu vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, đơn này phải được nộp cho HĐTT và nguyên đơn Lưu ý rằng đơn kiện lại phải được nộp cùng thời điểm với bản tự bảo vệ.
Bước 3: Lựa chọn hoặc chỉ định Trọng tài viên, thành lập Hội đồng trọng tài (Điều 40, Điều 41)
Vai trò của Tòa án trong tố tụng trọng tài
1.5.1 Sự cần thiết của sự hỗ trợ của Tòa án trong tố tụng trọng tài
Sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động Trọng tài là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu pháp lý Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai trường phái chính liên quan đến vấn đề này.
Theo trường phái thứ nhất, Tòa án kiểm soát chặt chẽ hoạt động Trọng tài và các phán quyết của Trọng tài, cho phép xem xét toàn diện, bao gồm cả pháp luật áp dụng Tòa án có quyền yêu cầu Trọng tài trình bày cơ sở quyết định, hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần phán quyết, và yêu cầu xem xét lại tranh chấp từ đầu Quan điểm này được thể hiện trong Luật trọng tài Anh (1950, 1979, 1996) và trong pháp luật của một số quốc gia Châu Phi, Châu Á có hệ thống pháp luật tiếp nhận khái niệm Trọng tài theo trường phái thông luật.
15 http://tinnhanhchungkhoan.vn/GL/N/CIJHBJ/tranh-chap-thuong-mai-ra-toa-hay-go-cua-trong- tai.html truy cap luc 15h45 truy cập lúc 10 giờ ngày 11 tháng 06 năm 2012
Trường phái thứ hai về Trọng tài, được phát triển từ trường phái dân luật, chủ yếu phổ biến tại các quốc gia Châu Âu lục địa như Pháp, Ý, và Bỉ, cùng với các quốc gia áp dụng Luật mẫu Các quốc gia này thừa nhận thẩm quyền rộng rãi của Trọng tài, cho phép trọng tài viên có quyền lớn trong việc xem xét và giải quyết tranh chấp Tòa án không được phép xem xét lại nội dung phán quyết Trọng tài, ngay cả khi có vi phạm pháp luật, mà chỉ có thể can thiệp khi phán quyết đó vi phạm trật tự công cộng của Nhà nước.
Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng tư pháp và xét xử, đại diện cho Nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và xã hội, với bản án và quyết định có hiệu lực bắt buộc và được thi hành bằng sức mạnh của Nhà nước Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế dẫn đến quan hệ giao thương phức tạp hơn, kéo theo gia tăng tranh chấp với mức độ gay gắt Điều này khiến Tòa án trở nên quá tải, không đáp ứng kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp trong nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và danh tiếng của các chủ thể.
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và tiến bộ, mang lại nhiều lợi thế như thời gian giải quyết nhanh chóng, bảo đảm uy tín và bí mật kinh doanh, đồng thời giảm áp lực cho Tòa án Tuy nhiên, với tư cách là một thiết chế tài phán tư, Trọng tài không có quyền lực Nhà nước, mà quyền lực chỉ phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên, dẫn đến những khó khăn trong hoạt động của nó Những khó khăn này bao gồm việc triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp khẩn cấp, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Trọng tài Nếu không có sự hỗ trợ từ cơ quan công quyền, hoạt động trọng tài có thể gặp bế tắc, làm cho việc giải quyết tranh chấp trở nên khó khăn Do đó, Nhà nước cần thiết lập cơ chế hỗ trợ để tạo điều kiện cho Trọng tài phát huy vai trò của mình.
Tòa án giám sát đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển của Trọng tài thông qua việc ban hành các quyết định có tính cưỡng chế cao, buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trong mối quan hệ giữa Trọng tài và Tòa án ở Liên Bang Nga, Trọng tài thường giải quyết các vụ việc một cách thuận lợi hơn, tuy nhiên, Tòa án chỉ hỗ trợ khi có yêu cầu từ Trọng tài, mà không phải là nghĩa vụ tự động Trong quá trình hỗ trợ, Tòa án cần hạn chế can thiệp để bảo đảm tính độc lập của Trọng tài Do đó, việc xác định mức độ can thiệp của Tòa án để duy trì tính độc lập cho Trọng tài là rất quan trọng Pháp luật các quốc gia cần có định hướng rõ ràng về mối quan hệ này, với các văn bản pháp luật khuyến khích can thiệp tích cực Nếu Tòa án can thiệp quá sâu, sẽ cản trở hoạt động của Trọng tài Giải quyết tốt vấn đề này sẽ giúp Trọng tài trở thành "bằng hữu" thực sự của Tòa án, giảm áp lực cho cơ quan này.
1.5.2 Ý nghĩa của sự hỗ trợ của Tòa án trong tố tụng trọng tài
Hiện nay, trọng tài thương mại (TTTM) đang ngày càng trở nên phổ biến trong việc giải quyết tranh chấp, nhờ vào tính nhanh nhạy, linh hoạt và khả năng bảo vệ bí mật thông tin giữa các bên Tuy nhiên, TTTM vẫn gặp khó khăn do hạn chế về thẩm quyền, và nếu không có sự hỗ trợ từ cơ quan công quyền, hoạt động trọng tài có thể bị bế tắc Do đó, sự hỗ trợ từ Tòa án là rất cần thiết và mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp tiên tiến, nổi bật với những ưu điểm vượt trội Khi nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ cơ quan công quyền, trọng tài có thể giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, từ đó giảm thiểu áp lực cho Tòa án và góp phần giải quyết tình trạng quá tải hiện nay.
Việc giải quyết tranh chấp hiệu quả tại Trọng tài không chỉ mang lại lợi ích cho các bên tranh chấp mà còn giúp họ nhanh chóng ổn định hoạt động kinh doanh và duy trì mối quan hệ đối tác Ngược lại, nếu tranh chấp kéo dài sẽ dẫn đến tốn kém về thời gian và chi phí Do đó, một chính sách pháp luật tiến bộ và đúng đắn trong việc hỗ trợ giải quyết tranh chấp là điều mà cộng đồng doanh nghiệp rất quan tâm Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các chủ thể kinh doanh, khuyến khích doanh nghiệp tin tưởng và lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, từ đó tác động tích cực đến nền kinh tế.
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là xu thế tất yếu trong nền kinh tế hội nhập, được công nhận rộng rãi tại các quốc gia phát triển Tại Việt Nam, Luật Trọng tài thương mại được ban hành trong bối cảnh đất nước đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới, phản ánh sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Trọng tài.
Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về Trọng tài để phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế, từ đó khẳng định sự tiến bộ trong khung pháp lý của mình, đồng thời đảm bảo sự tương thích với pháp luật trọng tài thương mại quốc tế.
Sự hỗ trợ của Tòa án trong tố tụng Trọng tài không chỉ tăng cường tính hấp dẫn và hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp này, mà còn thúc đẩy sự phát triển của Trọng tài Đây được xem như một sự tiếp sức từ Nhà nước, thể hiện cam kết đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được bảo vệ pháp lý trong quá trình giao dịch thương mại, từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế.
18 Báo cáo thi hành pháp lệnh TTTM của VIAC
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tòa án có thẩm quyền trong việc hỗ trợ Trọng tài
Trước khi tìm hiểu về vai trò cụ thể của Tòa án, cần lưu ý rằng chỉ những Tòa án có thẩm quyền mới có thể thực hiện chức năng hỗ trợ Theo Điều 7 của Luật TTTM, Tòa án có thẩm quyền đầu tiên là Tòa án nhân dân cấp Tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương Trong trường hợp các bên đã thỏa thuận chọn một Tòa án cụ thể, thì Tòa án đó sẽ là Tòa án có thẩm quyền Nếu không có thỏa thuận, Tòa án có thẩm quyền sẽ được xác định theo quy định của pháp luật.
Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên để thành lập HĐTT vụ việc là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân, hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức Nếu có nhiều bị đơn, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của một trong các bị đơn Trong trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài, Tòa án có thẩm quyền sẽ là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn.
Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của HĐTT vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi HĐTT giải quyết tranh chấp;
Đối với việc giải quyết khiếu nại về quyết định của Hội đồng Trọng tài (HĐTT) liên quan đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được, thẩm quyền thuộc về Tòa án nơi HĐTT đưa ra quyết định.
Đối với yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có chứng cứ cần đƣợc thu thập;
Tòa án có thẩm quyền để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi mà biện pháp này cần được thực hiện.
Đối với việc triệu tập người làm chứng thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của người làm chứng;
Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và đăng ký phán quyết trọng tài, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi đã tuyên phán quyết trọng tài trong vụ việc đó.
Theo quy định tại Điều 30, 32, 34 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 35 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền xem xét yêu cầu công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài là Tòa án nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương Địa điểm thẩm quyền này phụ thuộc vào nơi cư trú hoặc nơi làm việc của cá nhân phải thi hành quyết định, hoặc nơi có trụ sở của cơ quan, tổ chức phải thi hành, hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Sự hỗ trợ của Tòa án trong tố tụng Trọng tài tại Việt Nam hiện nay
Vai trò hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài đã được nhiều quốc gia công nhận và quy định rõ ràng trong pháp luật Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong một thời gian dài, chúng ta không có quy định nào liên quan đến vấn đề này, dẫn đến sự xa lạ giữa Trọng tài và Tòa án Gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới và hội nhập, pháp luật về Trọng tài tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án trong việc hỗ trợ Trọng tài.
Pháp lệnh TTTM là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận vai trò của Tòa án trong hoạt động của Trọng tài thương mại, bao gồm việc chỉ định và thay đổi Trọng tài viên, giải quyết khiếu nại liên quan đến thỏa thuận trọng tài, và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời Văn bản này tạo tiền đề và cơ sở pháp lý cho sự hỗ trợ của cơ quan công quyền đối với hoạt động Trọng tài, góp phần nâng cao tính hiệu quả và công bằng trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Pháp lệnh đã chỉ ra một số hạn chế, và những thiếu sót này đã được khắc phục trong Luật TTTM, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của Tòa án trong việc hỗ trợ TTTM Theo quy định của Luật TTTM và BLTTDS, Tòa án đóng vai trò hỗ trợ quan trọng trong tố tụng Trọng tài.
• Đảm bảo cho th a thuận Trọng tài được thực hiện, thông qua việc từ ch i thụ lý đơn khởi kiện khi đ c th a thuận Trọng tài;
• Chỉ định Trọng tài viên; thay đổi Trọng tài viên;
Bài viết của Dương Thai Mai (1997) phân tích mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế thông qua hình thức Trọng tài Tác giả nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ và bảo đảm tính hợp pháp của các quyết định Trọng tài, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
• Triệu tập người làm ch ng;
Xem xét và giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định của Hội đồng Trọng tài (HĐTT) về thẩm quyền, bao gồm các vấn đề như tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và khả năng thực hiện thỏa thuận trọng tài.
• Áp dụng, thay đổi, hủy b biện pháp khẩn cấp tạm thời;
Hủy phán quyết trọng tài có thể được thực hiện khi một bên yêu cầu và đã cung cấp đầy đủ căn cứ chứng minh rằng phán quyết thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật Trọng tài Thương mại.
• Công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài
Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đăng ký phán quyết trọng tài, và để hiểu rõ hơn về vai trò này, cần phân tích chi tiết các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành cùng với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
2.2.1 Đảm bảo cho thỏa thuận Trọng tài đƣợc thực hiện, thông qua việc từ chối thụ lý đơn khởi kiện khi đã có thỏa thuận trọng tài hợp pháp
Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng quyết định quyền hạn của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh Nếu không có thỏa thuận trọng tài, việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài sẽ không thể diễn ra Thỏa thuận này phải được lập dưới dạng văn bản, và các hình thức thỏa thuận theo Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại cũng được xem là hợp lệ.
Mặc dù thỏa thuận trọng tài thường được xem là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, nhưng không phải lúc nào cũng được tuân thủ một cách tuyệt đối Khi xảy ra mâu thuẫn hoặc một bên thiếu thiện chí, thỏa thuận trọng tài có thể bị “treo” và không được thực hiện Điều này xảy ra vì trọng tài không có thẩm quyền như Tòa án và quyền lực của trọng tài phụ thuộc vào ý chí của các bên Nếu một bên không thực hiện cam kết, trọng tài không thể ra quyết định cưỡng chế như Tòa án Do đó, để tránh tình trạng bế tắc trong giải quyết tranh chấp, cần có sự hỗ trợ từ cơ quan công quyền nhân danh quyền lực Nhà nước.
Theo thông lệ quốc tế, khi các bên đã ký kết thỏa thuận Trọng tài hợp pháp, nếu một bên không thực hiện, Tòa án sẽ hỗ trợ thi hành Cụ thể, Điều 8 Luật Mẫu quy định rằng Tòa án sẽ chuyển vụ tranh chấp cho Trọng tài nếu một bên yêu cầu, trừ khi thỏa thuận bị coi là vô hiệu hoặc không thể thực hiện Quy định này cũng được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế công nhận.
Tại Việt Nam, Luật Trọng tài thương mại quy định rằng Tòa án phải từ chối thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài hợp pháp Cụ thể, theo khoản 1 Điều 5 và Điều 6, tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài khi có thỏa thuận giữa các bên Nếu một bên khởi kiện tại Tòa án trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài, Tòa án sẽ từ chối thụ lý, trừ khi thỏa thuận đó vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là những thỏa thuận không hợp lệ theo quy định tại Điều 18 Luật TTTM Các trường hợp này bao gồm: tranh chấp thuộc lĩnh vực không nằm trong thẩm quyền của trọng tài theo Điều 2; người lập thỏa thuận không có thẩm quyền theo pháp luật; người lập thỏa thuận không có năng lực hành vi dân sự theo Bộ luật dân sự; hình thức thỏa thuận không tuân thủ Điều 16 của Luật TTTM; một bên bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và yêu cầu tuyên bố thỏa thuận vô hiệu; và thỏa thuận vi phạm các điều cấm của pháp luật.
So với Pháp lệnh TTTM 2003, Điều 6 Luật TTTM 2010 đã bổ sung quy định về việc Tòa án sẽ thụ lý khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, phù hợp với Công ước New York Tuy nhiên, hiện tại, pháp luật Trọng tài Việt Nam chưa định nghĩa rõ ràng về khái niệm "thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được", điều này gây ra thiếu sót trong việc áp dụng luật và hạn chế thẩm quyền của Trọng tài Thỏa thuận này có thể vẫn có hiệu lực nhưng không thể thực hiện do sự nhầm lẫn giữa các bên Ví dụ điển hình về thỏa thuận không thể thực hiện được bao gồm việc quy định tranh chấp sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, nhưng lại yêu cầu giải quyết tại Tòa án, hoặc việc áp dụng quy tắc tố tụng của ICC mà không rõ ràng.
Theo Điều 2 của Công ước New York 1958, các quốc gia thành viên có trách nhiệm chuyển đơn khởi kiện về tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết bằng Trọng tài đến bên Trọng tài có thẩm quyền khi có yêu cầu từ một trong các bên, trừ khi thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu hoặc không thể thực hiện.
Theo khoản 3 Điều 2 của Công ước New York 1958, 21 Tòa án vẫn có quyền thụ lý vụ án nếu nhận thấy thỏa thuận không còn hiệu lực, không có hiệu quả hoặc không thể áp dụng.