Nâng cao năng lực giáo viên về sƣ phạm kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, năng lực bổ trợ và thái độ, phẩm chất đạo đức chính trị cho ĐNGV

Một phần của tài liệu Một số biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề điện công nghiệp (Trang 66 - 72)

Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ ĐIỆN CÔNG NHIỆP TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP NGHỀ NGA SƠN - THANH HÓA

3.3. Các biện pháp góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề Điện công nghiệp tại trường Trung cấp nghề Nga Sơn - Thanh Hóa

3.3.2. Nâng cao năng lực giáo viên về sƣ phạm kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, năng lực bổ trợ và thái độ, phẩm chất đạo đức chính trị cho ĐNGV

* Nâng cao năng lực sư phạm kỹ thuật.

Bồi dƣỡng nâng cao năng lực sƣ phạm cho giáo viên dạy nghề là hết sức cần thiết. Vì năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên dạy nghề Điện Trường Trung cấp nghề Nga Sơn thiếu và yếu. Mặc dù 100% số giáo viên dạy nghề Trường Trung cấp nghề Nga Sơn đã qua bồi dƣỡng nghiệp vụ sƣ phạm. Nhƣng để có kỹ năng sƣ phạm tốt

cần phải được rèn luyện, được tiếp tục bồi dưỡng. Nhà trường xác định cho giáo viên thấy rằng dạy nghề là công việc sẽ gắn bó suốt đời đối với người giáo viên. Phần lớn giáo viên dạy nghề của nhà trường hiện nay đều không được đào tạo về sư phạm kỹ thuật, muốn họ hoàn thành đƣợc nhiệm vụ thì tất yếu phải bổ sung cho họ những hành trang còn thiếu. Vì vậy Cấp uỷ, Ban giám hiệu nhà trường phải sắp xếp kế hoạch tổ chức cho giáo viên được học tập để nâng cao năng lực sư phạm kỹ thuật tương xứng với năng lực chuyên môn, nếu không đƣợc xác định rõ ràng thì giáo viên sẽ có xu hướng nâng cao về trình độ chuyên môn. Như vậy sẽ chênh lệch giữa hai năng lực này ngày càng lớn điều đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề.

* Nâng cao trình độ chuyên môn

Năng lực bậc nghề: Người giáo viên dạy nghề được coi là có năng lực sư phạm kỹ thuật, ngoài trình độ chuyên môn, sƣ phạm, còn phải có trình độ tay nghề bậc cao, đây là điều đặc trƣng về năng lực sƣ phạm giáo viên dạy nghề Điện công nghiệp mà giáo viên các bậc học khác không thể có. Hiện nay số giáo viên có tay nghề bậc cao của nhà trường còn ít, phổ biến bậc nghề giáo viên chỉ cao hơn bậc nghề đào tạo 2 bậc.

Mặc dù nhà trường rất trân trọng giáo viên có bậc nghề, song giải pháp kích thích động viên còn chƣa hấp dẫn. Lực lƣợng này có khả năng giải quyết những công việc phức tạp của nghề, chế tạo đƣợc những sản phẩm có độ chính xác kỹ thuật cao, chất lượng tốt. Nhà trường xem đây là lực lượng nòng cốt, là tấm gương cho học sinh phấn đấu, học tập, tu dưỡng. Đối với trường nghề, thời gian thực tập tại xưởng chiếm gần 3/4 nên nó ảnh hưởng rất lớn đến trình độ tay nghề của học sinh. Thời gian tới, ít nhất 3 năm một lần tổ chức thi tay nghề cho giáo viên. Cần bổ sung vào quy chế, chế độ chính sách hợp lý để giáo viên hăng hái tham gia các kỳ thi nâng bậc thợ nhƣ: Giảm giờ dạy, nâng lương trước kỳ hạn, cho giáo viên đi tập huấn tiếp cận với công nghệ kỹ thuật mới… cho giáo viên có bậc nghề cao. Phải xác định rằng: việc bồi dƣỡng để giáo viên có bậc nghề cao có khi còn khó khăn hơn đào tạo sau Đại học, bởi nó còn phụ

nhiều hình thức: Tự bồi dưỡng, bồi dưỡng trong nước và bồi dưỡng ngoài nước. Có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên dạy nghề cả trong, ngoài nước và cần khai thác điều kiện thuận lợi này để tiến hành bồi dưỡng nâng cao bậc nghề cho giáo viên. Trước mắt, Ban giám hiệu chỉ đạo các trưởng phòng, khoa cần có kế hoạch, giao chỉ tiêu, động viên đội ngũ giáo viên thực hành sắp xếp thời gian để chủ động tự bồi dưỡng, đây là con đường có khả năng thực thi nhất, phấn đấu đến năm 2015 có 50% số giáo viên thực hành có bậc nghề cao hơn bậc đang đào tạo 3 bậc, 35% cao hơn 2 bậc và 15% cao hơn 1 bậc.

* Nâng cao kiến thức ngoại ngữ, tin học

Ngoài những nội dung bồi dƣỡng về năng lực sƣ phạm, năng lực chuyên môn nghề nghiệp, hiểu biết về kinh tế - xã hội, phẩm chất nghề nghiệp. Giáo viên dạy nghề cần phải được bồi dưỡng năng lực bổ trợ, nhà trường quy định bắt buộc đối với giáo viên dưới 45 tuổi, nếu trên 45 tuổi vẫn tham gia thì sẽ có chế độ khen thưởng động viên khuyến khích thêm.

- Về ngoại ngữ: Nội dung bồi dƣỡng gồm có 2 phần: Ngoại ngữ cơ bản và ngoại ngữ chuyên ngành.

+ Ngoại ngữ cơ bản: Nước ta đang ở trong thời kỳ hội nhập mở cửa, hợp tác với nhiều nước. Nhìn chung các nhà đầu tư đều quan tâm đến dạy nghề, nhằm sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ. Nhà trường còn giới thiệu và tuyển dụng lao động xuất khẩu, vì vậy đội ngũ giáo viên nhất thiết phải có trình độ ngoại ngữ để giao tiếp và làm việc với nước bạn. Hiện nay, Trường Trung cấp nghề Nga Sơn đã đưa ngoại ngữ vào dạy chính khoá để giúp đội ngũ công nhân kỹ thuật có khả năng khai thác sử dụng ít nhiều tài liệu kỹ thuật của nước ngoài, để nghiên cứu và hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu chuyên ngành. Mục tiêu đặt ra đến năm 2015, 100% giáo viên dưới 45 tuổi phải biết ngoại ngữ, trong đó 15% giáo viên phải thành thạo có thể làm việc trực tiếp với chuyên gia nước ngoài. Để thực hiện được mục tiêu này, trong những năm tới phải đưa vào quy định cụ thể các chế độ đãi ngộ, bồi dƣỡng bằng vật chất kết hợp với các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể vừa động viên, bắt buộc vừa kèm theo các chế độ khác

nhƣ trong quy định giáo viên dạy nghề một năm có 4 tuần học tập nâng cao, giáo viên nào không tham gia tăng thêm giờ giảng, giáo viên tham gia tính theo buổi và kết quả để bồi dưỡng phụ cấp thêm. Mặt khác, trường sẽ tổ chức học tập tại trường nhằm tạo điều kiện cho đông đảo giáo viên tham gia học tập.

+ Ngoại ngữ chuyên ngành: Với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế thì nhu cầu giao lưu trao đổi kinh nghiệm về chuyên môn với các nước là rất cần thiết.

Vì vậy giáo viên phải có năng lực sử dụng ngoại ngữ chuyên ngành, mới có khả năng trao đổi về chuyên môn với chuyên gia nước ngoài, sử dụng tài liệu nước ngoài vào dạy nghề. Việc bồi dƣỡng ngoại ngữ cho giáo viên dạy nghề phải kéo dài hàng năm, phương pháp, cách học ngoại ngữ cũng cần phải thay đổi, chuyển từ tái nhận sang tái hiện.

Cùng với việc mở các lớp bồi dưỡng ngoại ngữ, Nhà trường cần chủ động có kế hoạch tổ chức cho giáo viên đi tham quan, thực tập ở nước ngoài, để vừa nâng cao trình độ ngoại ngữ vừa tăng cường hiểu biết thực tế, động viên được mọi người tích cực tham gia học tập.

- Về công nghệ thông tin: Bồi dƣỡng công nghệ thông tin gồm 2 phần: Tin học cơ sở và tin học ứng dụng vào dạy nghề.

Cũng như ngoại ngữ, đã đến lúc dạy nghề phải đưa tin học vào chương trình đào tạo chính khoá, để người công nhân trong tương lai có thể sử dụng thành thạo các thiết bị tin học như là một phương tiện sản xuất. Hiện nay các công ty nước ngoài hợp tác với Việt Nam đều đòi hỏi người lao động phải biết tin học. Nhà trường cũng đã mở lớp đào tạo tin học cho giáo viên, nhiều giáo viên đã tích cực tham gia học tập. Việc bồi dưỡng tin học cho giáo viên cần đi trước một bước. Nhà trường tiếp tục trang bị thêm máy vi tính, thiết bị công nghệ thông tin cho từng khoa để giáo viên có điều kiện sử dụng đƣợc máy tính vào công việc giảng dạy hàng ngày.

- Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy nghề: Nhà trường đã phát động phong

học chủ yếu. Trong đó 50% số giáo viên sử dụng công nghệ thông tin có khả năng mô phỏng, biểu diễn sự vật theo không gian ba chiều, tạo ra mô hình động giúp cho học sinh dễ hình dung, tiếp thu kiến thức mới sẽ mang lại hiệu quả đào tạo cao. Hiện nay một số giáo viên ở khoa Điện - Điện tử - Tin học đã có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy khá tốt.

* Bồi dưỡng nâng cao hiểu biết về KT-XH, thái độ và phẩm chất nghề nghiệ.

- Hiểu biết về kinh tế xã hội:

Nhìn chung một số giáo viên trường Trung cấp nghề Nga Sơn ít hiểu biết về KT-XH, kể cả những nội dung liên quan mật thiết với dạy nghề. Ngày nay trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi nền kinh tế đổi mới, giáo viên dạy nghề cần phải được thêm về kinh tế thị trường nắm chắc quy luật vận động của nó để tạo ra đội ngũ công nhân thích ứng với nền kinh tế thị trường.

Cùng với kinh tế thị trường, kinh tế tri thức đang hình thành và phát triển. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cần phải đƣợc bồi dƣỡng nhiều lĩnh vực để có thể hiểu biết toàn diện. Uy tín của người giáo viên trước học sinh ngoài năng lực sư phạm, chuyên môn nghiệp vụ thì sự hiểu biết về xã hội cũng vô cùng quan trọng. Học sinh luôn xem thầy giáo là người hiểu biết nhiều, có gì không hiểu, chưa hiểu đều hỏi thầy, sự hiểu biết của thầy là niềm tự hào của học sinh. Nhất là đối với giáo viên dạy nghề Trường Trung cấp nghề Nga Sơn tuổi đời còn trẻ, trong khi đó nhiều học sinh là Đảng viên nhận thức xã hội đã có chiều sâu, còn giáo viên dạy nghề lại thường thờ ơ với nhận thức xã hội. Vì vậy, Ban giám hiệu nhà trường cần phải tăng cường liên hệ với các cơ quan chức năng để thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện thời sự về KT-XH, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác phát triển nguồn nhân lực để góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Ban giám hiệu nhà trường duy trì, nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng thư viện từng bước tăng cường cơ sở vật chất, tăng cường các đầu sách thư viện và xây dựng thư viện điện tử, cần tiếp tục bổ sung hệ

thống mạng Internet để đội ngũ giáo viên truy cập, khai thác thông tin và sử dụng các mã nguồn mở để bổ sung cho công tác giảng dạy.

- Về thái độ, phẩm chất nghề nghiệp: Giáo dục cho người giáo viên phải có lòng yêu nghề, xem đây là một tiêu chuẩn quan trọng đối với thầy cô giáo. Thực tế đã chứng minh bất cứ làm việc gì cũng phải có lòng yêu nghề. Chỉ những ai tha thiết với nghề dạy học mới trở thành nhà sƣ phạm chân chính, mới xứng đáng với vị trí “Người thầy”

của xã hội. Chỉ có những ai yêu nghề mới cảm nhận đƣợc cái hay cái đẹp của nghề dạy học. Chỉ có những nhà giáo yêu nghề mới tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung và trình độ của học sinh. Chỉ có thầy, cô giáo yêu nghề mới trăn trở khi học sinh không chịu học, khi giờ học của mình học sinh chƣa hiểu bài, khi học sinh đào tạo ra không được xã hội chấp nhận,… Phần đông đội ngũ giáo viên dạy nghề Trường Trung cấp nghề Nga Sơn hiện nay là chấp nhận số phận, sự phân công xã hội chứ không phải xuất phát từ tình yêu nghề nghiệp. Trong quá trình dạy học họ mới tìm ra cái hay, cái đẹp của nghề dạy học, mới nảy nở tình yêu nghề nghiệp. Lòng yêu nghề sẽ đƣợc nâng cao khi đƣợc xã hội quan tâm bằng chính sách đãi ngộ. Ngoài các chính sách của Đảng, Nhà nước, nhà trường cũng cần phải có các chính sách quy định nội bộ… tạo điều kiện nâng cao đời sống để giáo viên yên tâm, toàn tâm toàn ý với công việc. Phải nói rằng người giáo viên chỉ thực sự có lòng yêu nghề khi cuộc sống của họ tốt hơn, thiếu các điều kiện đảm bảo cuộc sống thì giáo viên cũng chỉ là người làm công ăn lương. Họ sẵn sàng từ bỏ vị trí “Kỹ sư tâm hồn” để đến nơi nào có thu nhập cao hơn và điều kiện tốt hơn. Vì vậy việc bổ sung sửa đổi kịp thời quy chế nội bộ sẽ đáp ứng cuộc sống của đội ngũ giáo viên nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường biến động.

- Về đạo đức nghề nghiệp: Bất cứ xã hội nào cũng đòi hỏi ở người giáo viên phải có đạo đức chuẩn mực, thái độ ân cần, tận tâm thực hiện nhiệm vụ lời nói đi đôi với việc làm. Có đƣợc phẩm chất nhƣ thế thì mới có thể giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ

và thần tƣợng cho học sinh. Niềm tin là cơ sở hình thành tính tích cực cho tuổi trẻ, và học tập sáng tạo hơn. Do đó trong tuyển dụng bổ sung sàng lọc đội ngũ giáo viên không thể chấp nhận những người thường có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm với nhiệm vụ, với nhà trường và những người xung quanh dù đó là những người có trình độ sƣ phạm, chuyên môn nghề nghiệp giỏi.

Sơ đồ 3.1: Sơ đồ đào tạo bồi dƣỡng

Một phần của tài liệu Một số biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề điện công nghiệp (Trang 66 - 72)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(90 trang)