Khuyến nghị chính sách

Một phần của tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến thay đổi thu nhập hộ gia đình ở tỉnh bình thuận (Trang 64 - 71)

(i) Thúc đẩy tăng trưởng và đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo

Kết quả nghiên cứu cho thấy chênh lệch thu nhập khá lớn giữa hộ có xuất phát điểm là hộ nghèo với hộ không phải là hộ nghèo ở cả 2 thời kỳ và sự chênh lệch ngày càng cao; đồng thời hộ gia đình thuộc diện nghèo ở thời điểm năm 2015 có khả năng thoát nghèo cao hơn các hộ gia đình thuộc diện nghèo ở thời điểm năm 2010.

Giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo luôn có mối quan hệ với nhau; do vậy thực thi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, đồng thời việc duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định có vai trò qua trọng trong việc ổn định và nâng cao mức sống người dân.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh việc tạo việc làm và giảm nghèo chưa được bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao; chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc

sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế còn thấp; đời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khó khăn.

Theo Cục Thống kê Bình Thuận (2015), cho thấy khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa hộ thuộc nhóm thu nhập cao và nhóm thu nhập thấp vẫn còn khá xa.

Thu nhập bình quân/nhân khẩu thuộc nhóm hộ có thu nhập cao nhất gấp 5,35 lần so với nhóm hộ có thu nhập thấp nhất. Nhóm hộ có thu nhập cao thường có tài sản, vốn sản xuất kinh doanh khá, đầu tư trên nhiều lĩnh vực nên dễ ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu. Nhóm hộ có thu nhập thấp thường là hộ có vốn sản xuất kinh doanh ít, đông nhân khẩu ăn theo và lao động trong hộ có việc làm không ổn định nên dễ dẫn đến tình trạng “tái nghèo” nếu không có sự trợ giúp của địa phương. Do vậy trong thời gian tới, các chính sách giảm nghèo phải tiếp tục tập trung vào việc hỗ trợ nguồn lực về sản xuất để cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo thông qua việc tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ người nghèo, huyện nghèo, xã, thôn đặc biệt khó khăn nhằm hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách về đời sống.

Thực tế cho thấy ở khu vực nông thôn, thiên tai và dịch bệnh là những rủi ro lớn nhất đối với người nghèo. Thiếu việc làm phù hợp; bệnh tật và các vấn đề chi phí chăm sóc sức khỏe cũng là những rủi ro nghiêm trọng cho người dân. Do vậy cần phải đảm bảo cung cấp hệ thống an sinh xã hội có độ bao phủ rộng và hoạt động hiệu quả để nâng cao mức sống của người dân, chú trọng nâng cao độ phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về tham gia bảo hiểm xã hội, đặc biệt là bảo hiểm y tế để gia tăng vai trò của an sinh xã hội trong việc ổn định và nâng cao mức sống dân cư; có chính sách hỗ trợ phí mua cho người dân có thu nhập từ dưới trung bình trở xuống hiện chưa bắt buộc tham gia (đến cuối năm 2015, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế toàn tỉnh chỉ đạt 59,9%).

Trong thời gian tớicần phải có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế và giảm nghèo một cách bền vững như:

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng và có chính sách thu hút đầu tư ở các khu công nghiệp. Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; đẩy mạnh công nghiệp chế biến, ưu tiên phát triển các sản phẩm có hàm

lượng khoa học – công nghệ cao; đồng bộ sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm lợi thế, có khả năng cạnh tranh cao; chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm lợi thế. Thực hiện tốt các chính sách khuyến công và hỗ trợ ưu đãi tín dụng, thông tin thị trường, tư vấn kỹ thuật đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Thực hiện đảm bảo quy hoạch phát triển ngành du lịch, trong đó cần đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến đầu tư phát triển du lịch; khai thác có hiệu quả cá lợi thế về điều kiện tự nhiên, giá trị lịch sử và văn hóa của địa phương; đa dạng hóa các sản phẩm du lịch; nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ.

Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, các chương trình hỗ trợ cho các hộ gia đình thuộc diện nghèo, nhất là những hộ thuộc thành phần dân tộc ít người. Để thực hiện tốt hơn nữa vấn đề này, trong những năm tới tỉnh cần rà soát, tổ chức thực hiện tốt các chính sách hiện hành về an sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, hệ thống hỗ trợ tích cực và tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách an sinh xã hội như: Cho vay vốnvới lãi suất cho vay ưu đãi, hỗ trợ phương tiện, tư liệu sản xuất để phát triển sản xuất kinh doanh đối với những những hộ nghèo và những hộ mới thoát khỏi diện hộ nghèo. Triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách dạy nghề gắn với tạo việc làm cho lao động nông thôn, trong đó quan tâm ưu tiên cho lao động nông thôn thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; thực hiện đầy đủ, hiệu quả các chính sách hỗ trợ học sinh con hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định của Chính phủ. Hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề; nhân rộng các mô hình khuyến nông - lâm – thủy sản, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho lao động nghèo; hỗ trợ nhân rộng các mô hình sản xuất chuyên canh.Hỗ trợ hộ nghèo và cộng đồng tham gia liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; nhân rộng mô hình giảm nghèo liên kết giữa hộ nghèo với doanh nghiệp; hỗ trợ kết nối hộ nghèo với thị trường thông qua phát triển các đơn vị cung cấp dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

(ii)Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đào tạo nghề;thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ vốn; tạo việc làm ổn định cho người lao động

Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng lao động.Từ kết quả khảo sát cho thấy nhìn chung mặt bằng trình độ văn

hóa của người lao động trên địa bàn tỉnh còn thấp; đồng thời kết quả nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố trình độ văn hóa tác động khá lớn đến sự thay đổi thu nhập giữa năm 2010 và năm 2015.

Theo Báo cáo của UBND tỉnh Bình Thuận về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 thì trong những năm qua công tác đào tạo, dạy nghề và phát triển các trường chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên trong được chú trọng, song tỷ lệ người lao động từ 15 tuổi trở lên được đào tạo qua trường lớp chưa nhiều, tuy nhiêntỷ lệ lao động qua đào tạo bằng các hình thức tăng từ 28%

năm 2010 lên 55% năm 2015. Kết quả trên cho thấy số lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụđã tăng lên. Tuy vậy, so với các tỉnh, thành trong khu vực, chất lượng lao động của tỉnh Bình Thuậncòn thấp. Do vậy, trong thời gian tới cần phải có giải pháp tích cực hơn nữa trong đào tạo để phát triển nguồn nhân lực tại địa phương, nâng cao năng suất lao động. Trong đó,các cấp liên quan phải phối hợp tốt trong việc xác định rõ mục tiêu nâng cao chất lượng, trình độ nguồn nhân lực, chú ý đào tạo người lao độngphù hợp theo từng bậc học, ngành học. Trên cơ sở đó, định hướng đào tạo nghề nghiệp cho người lao động theo nhu cầu nhân lực và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Có chế độ chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật tay nghề; có cơ chế hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; điều tra, khảo sát nhân lực hiện đang làm việc và nhu cầu nhân lực trong các năm tới ở các ngành để có định hướng phân bổ hợp lý nguồn lao động.

Song song với đào tạo nghề thì cũng cần phải có chính sách tạo công ăn việc làm cho người lao động. Theo Cục Thống kê Bình Thuận (2015), tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có nhu cầu làm việc năm 2015 là 90,7% (năm 2010: 80,5%); trong đó thành thị 88,7% (năm 2010: 77,7%); nông thôn 91,8% (năm 2010: 81,9%). Tỷ lệ người đang làm việc ổn định so với số người có nhu cầu làm việc là 83,3% (năm 2010:

81,7%); trong đó thành thị 82,7% (năm 2010: 87%); nông thôn 83,6% (năm 2010:

79,2%). Tỷ lệ người có việc làm nhưng chưa ổn định so với người có nhu cầu làm việc là 13,2% (năm 2010: 14,5%); trong đó thành thị 13,6% (năm 2010: 9,4%); nông thôn 12,9% (năm 2010: 16,9%). Tỷ lệ người thất nghiệp so với người có nhu cầu làm việc là 3,6% (năm 2010: 3,8%); trong đó thành thị 3,6% (năm 2010: 3,6%); nông thôn

3,5% (năm 2010: 4%). Như vậy tỷ lệ người lao động có nhu cầu làm việc năm 2015 ở 2 khu vực nông thôn và thành thị đều tăng so với năm 2010; tỷ lệ người đang làm việc ổn định so với số người có nhu cầu làm việc ở khu vực thành thị năm 2015còn thấp hơn so với năm 2010, song ở khu vực nông thôn tỷ lệ này đã cao hơn; tỷ lệ người thất nghiệp năm 2015 ở khu vực nông thôn giảm so với năm 2010, song ở thành thị chưa có gì chuyển biến; tỷ lệ người có việc làm “bấp bênh” ở khu vực nông thôn có giảmkhá ít, song ở khu vực thành thị lại tăng cao hơn so với năm 2010. Điều đó cho thấy, thực trạng có nhu cầu việc làm năm 2015 tăng lên, song thực trạng có việc làm ổn định, việc làm còn bấp bênh ở thành thị chưa có thay đổi nhiều so với năm 2010; tỷ lệ người thất nghiệp ở khu vực thành thị có chiều hướng gia tăng.

Trong thời gian tới cần phải có những giải pháp tích cực hơn nữa để tạo nhiều cơ hội việc làm, có thu nhập ổn định cho người lao động. Trong đó, cần quan tâm mở rộng mối quan hệ với các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động đào tạo nghề trực tiếp tại các công ty, nhà máy để gắn với việc làm sau đào tạo; thực hiện tốt Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề; Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề lao động nông thôn, …. khắc phục từng bước tình trạng thất nghiệp. Đồng thời, phải đẩy mạnh chính sách hỗ trợ vốn cho người dân phát triển sản xuất, hỗ trợ người nghèo, phát triển quỹ tín dụng nhân dân vàcác chính sách vay vốn sản xuất.Cần phải đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với nguồn vốn dễ dàng, lãi suất thích hợp để các cơ sở kinh tế có thể vay vốn, mở rộng phát triển sản xuất. Trong thời gian tới, cần tiếp tục xem xétmở rộng diện cho vay, chú ý đến đối tượng “cho vay không cần thế chấp” để các hộ có việc làm, thu nhập ổn định, hạn chế tình trạng phải đi vay “tín dụng đen”.Ở vùng đồng bào dân tộc, nông thôn nguyên nhân nghèo bắt nguồn từ đất canh tác nghèo nàn, thiếu kỹ năng và trình độ giáo dục, hạn chế trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công, do vậy cần có các chính sách đặc thù hỗ trợ gia tăng năng suất nông nghiệp, tiếp cận giáo dục và cơ sở hạ tầng cho nhóm dân cư này.

(iii)Từng bước thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động theo hướng phi nông nghiệp; nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp

Theo kết quả nghiên cứu thì hộ gia đình có ngành nghề là nông lâm nghiệp tác động ít nhất đến thay đổi thu nhập hộ gia đình. Điều đó đặt ra vấn đề là phải từng bước

chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động theo hướng phi nông nghiệp; đồng thời song song với việc chuyển dịch cơ cấu thì cũng cần phải có giải pháp để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp vì đặc điểm ở Bình Thuận diện tích đất nông nghiệp chiếm đến 89.5% (Cục Thống kê Bình Thuận, 2015).

Theo Báo cáo của UBND tỉnh Bình Thuận về tình hình phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015thì tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ năm 2015 là42.79%, công nghiệp – xây dựng 28.32%, nông lâm thủy sản là 28.89%, qua đó cho thấycơ cấu kinh tế nhóm ngành nông lâm thuỷ sản ở tỉnh hiện nay còn ở mức cao (chỉ tiêu của tỉnh đề ra đến năm 2015 tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản là từ 12% -13%). Số lao động ở nhóm ngành nông lâm thuỷ sản còn chiếm tỷ trọng lớn. Để mở rộng cơ hội cho người lao động ở khu vực nông thôn tăng năng suất nông nghiệp nên có các chính sách hỗ trợ qua việc ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn.

Cơ sở hạ tầng địa phương có tác động đến tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động.

Do vậy phải có chính sách tăng cường việc nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng trên cơ sở có quy hoạch một cách khoa học khu vực nông thôn, làm cho thị trường hàng hóa nông thôn phát triển, tạo nên sự đa dạng của ngành nghề lao động, giảm dần khoảng cách với khu vực thành thị và tạo mối liên kết chặt chẽ với khu vực thành thị.Cần thực hiện tốt công tác quy hoạch đi đôi với quản lý quy hoạch. Trên cơ sở định hướng xây dựng nông thôn mới, tiến hành rà soát lại toàn bộ các quy hoạch đã triển khai để tiếp tục bổ sung, điều chỉnh phù hợp; xây dựng các trung tâm thương mại, mở rộng mạng lưới chợ, tạo môi trường thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ; củng cố, nâng cấp những công trình hiện có theo hướng hiện đại hóa từng bước thay thế thiết bị cũ đã lạc hậu, công suất thấp, kiên cố hóa hệ thống kênh mương, tiếp tục đầu tư nâng cấp các công trình thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu, chủ động cho trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt nông thôn.

Bên cạnh đó,trong thời gian tới cần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp để đưa nền kinh tế tăng trưởng ổn định.

Ở nông thôn, nếu chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nhóm ngành nông lâm thủy sản để tăng nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ sẽ tạo thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy nhanh đến tiến trình xây dựng nông thôn mới. Nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ nếu được phát triển đồng

đều ở 2 khu vực sẽ tạo điều kiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất lao động, tạo động lực để chuyển dịch lao động giữa các ngành và nội bộ ngành, giảm thiểu việc di chuyển lao động giữa các vùng địa lý hành chính. Phát triển được các ngành công nghiệp dịch vụ hướng về xuất khẩu sẽ sử dụng nhiều lao động, đảm bảo tăng việc làm nhanh, duy trì được sự cân bằng giữa tăng việc làm với tăng năng suất cả ở 2 khu vực, đưa nền kinh tế ổn định và bền vững. Hiện nay, lao động nông thôn ở Bình Thuận khá nhiều nhưng thời gian nhàn rỗi còn tương đối cao, đa số là thuần nông, thu nhập bấp bênh; lao động phi nông nghiệp cả thành thị và nông thôn lại chưa tạo ra động lực về chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm, không đáp ứng đúng và theo kịp nhu cầu thị trường. Đây là vấn đề tồn tại, cần khắc phục trong thời gian tới.

5.3. Những hạn chế của đề tài

Nghiên cứu đã xác định được một số yếu tố làm thay đổi thu nhập hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Bình Thuận giữa 2 thời 2010 và 2015; đồng thời trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đề xuất những khuyến nghị để giúp tăng thu nhập hộ gia đình, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới tại Bình Thuận. Bên cạnh đó, nghiên cứu vẫn còn những hạn chế nhất định như:

Số lượng biến độc lập đưa vào mô hình còn chưa nhiều nên chưa đánh giá được một cách đầy đủ các yếu tố tác động đến thay đổi thu nhập hộ gia đình giữa năm 2010 và năm 2015 trên địa bàn tỉnh Binh Thuận.

Kiến thức kinh tế lượng của tác giả có giới hạn nên chưa thật sự phân tích sâu kết quả nghiên cứu.

Một phần của tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến thay đổi thu nhập hộ gia đình ở tỉnh bình thuận (Trang 64 - 71)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(87 trang)