Vùng cổ có khoảng 30% tổng số hạch trong toàn cơ thể [2][16]. Trước đây, việc lấy bỏ hạch di căn chỉ là tìm và nhặt hạch. Cách này có ba nhược điểm là dễ làm vỡ vỏ hạch, bỏ sót hạch di căn vi thể và kéo dài thời gian phẫu thuật.
Để khắc phục điều này, người ta tìm cách phân vùng hạch để thuận lợi cho định khu phát hiện hạch di căn trên lâm sàng và triệt để trong phẫu thuật. Hệ thống bạch huyết ở vùng cổ chia thành 2 chuỗi là chuỗi hạch sâu và chuỗi hạch nông.
Hình 1.4. Tam giác bạch huyết Rouviere
11
*Chuỗi hạch sâu:
Còn được gọi là chuỗi cảnh sâu. Chuỗi hạch sâu trái trải dài từ trên nền sọ cho đến bờ trên xương đòn và được chia thành ba nhóm: trên, giữa, dưới.
- Nhóm cảnh trên: nhận những dẫn lưu bạch huyết từ khẩu cái mềm, amydale, mặt sau đáy lưỡi, xoang lê, phần trên thanh môn, đồng thời nhận bạch huyết những nhóm hạch nông hơn phần ở cao của vùng đầu - cổ (thành sau họng, nhóm hạch cạnh thần kinh XI, tuyến mang tai, nhóm cổ nông, và hạch dưới hàm)
- Nhóm cảnh giữa: nhận dẫn lưu bạch huyết từ phần trên thanh môn, và phần thấp của xoang lê, nhóm này nhận dẫn lưu thứ phát của nhóm cảnh sâu phía trên và những hạch thấp của vùng thành sau họng. Nhóm hạch thành sau họng, quanh khí quản nằm phía sau bao tạng nhận dẫn lưu từ những tạng này và vòm họng phía sau hốc mũi, xoang mũi, phía sau của họng miệng.
- Nhóm cảnh dưới: nhận dẫn lưu bạch huyết từ tuyến giáp, khí quản và thực quản cổ, đồng thời nhận dẫn lưu thứ phát từ nhóm hạch cảnh trên và các hạch quanh khí quản.
Hình 1.5. Phân bố hạch vùng cổ
12
*Chuỗi hạch nông:
Chuỗi hạch nông là trạm dẫn lưu thứ phát như đã nói ở nhóm cảnh sâu.
Nhóm hạch nông là nhóm dưới cằm, cổ nông, dưới hàm, nhóm thần kinh XI và nhóm trước cơ nâng vai.
Nhóm hạch dưới cằm dẫn lưu cho vùng cằm, vùng môi dưới, đầu lưỡi và phía trước của miệng, sau đó đổ vào những hạch dưới hàm. Hạch dưới cằm dẫn lưu của môi trên và bờ ngoài môi dưới, phần thấp nhất của sàn mũi, phía trước của miệng và da của vùng má. Những hạch dưới cằm này sau đó sẽ đổ vào nhóm cảnh trên của chuỗi sâu. Những hạch cổ nông nằm dọc theo tĩnh mạch cảnh ngoài nhận dẫn lưu từ da vùng mặt đặc biệt là những vùng quanh tuyến phía sau tai, hạch chẩm và tuyến mang tai đổ vào chuỗi cổ sâu của nhóm cảnh cao. Hạch nằm ở trong tam giác sau đi vào thần kinh XI nhận dẫn lưu của vùng đỉnh và vùng chẩm da đầu. Những hạch cao đổ vào phần cảnh cao của chuỗi sâu, những hạch thấp đổ vào hạch trên đòn.
Những hạch của tam giác cổ trước nhận dẫn lưu từ ống ngực. Đây thường là vị trí di căn từ phần thấp của cơ thể (như dạ dày...). Hạch trên đòn nhận dẫn lưu từ chuỗi hạch quanh thần kinh XI, tất cả những hạch này đổ vào hệ thống tĩnh mạch trên đòn qua ống ngực bên trái hoặc ống bạch huyết bên phải [24][25].
*Phân nhóm hạch cổ:
Nhóm I: Nhóm hạch dưới cằm và dưới hàm.
Nhóm Ia: Tam giác dưới cằm: được giới hạn bởi bụng trước cơ nhị thân và xương móng và đường giữa.
Nhóm Ib: Tam giác dưới hàm: được giới hạn bởi thân xương hàm dưới, bụng trước và bụng sau cơ nhị thân.
Nhóm II: Nhóm hạch cảnh trên.
- Giới hạn trước là bờ ngoài cơ ức móng, phía sau là bờ sau cơ ức đòn chũm, phía trên là nền sọ, phía dưới là ngang mức xương móng.
13
- Nhóm này chia ra làm IIa và IIb bởi thần kinh XI.
Nhóm III: Nhóm hạch cảnh giữa
- Giới hạn trước: bờ ngoài cơ ức móng; Phía sau: bờ trước cơ ức đòn chũm; Phía trên: ngang mức xương móng; Phía dưới: cơ vai móng.
Nhóm IV: Nhóm hạch cảnh thấp
- Giới hạn trên: cơ vai móng; Phía dưới: là xương đòn; Phía trước là bờ ngoài cơ ức móng; Phía sau: bờ sau cơ ức đòn chũm.
Nhóm IVa: Dọc theo tĩnh mạch cảnh trong, và sâu dọc đầu ức của cơ ức đòn chũm.
Nhóm IVb: Dọc theo đầu đòn của cơ ức đòn chũm.
Hạch nhóm II, III, IV gọi chung là hạch nhóm cảnh gồm các hạch gắn với tĩnh mạch cảnh trong, mỡ và tổ chức liên kết ở phía trong và sau của cơ ức đòn chũm. Đặc biệt, nhóm II liên quan mật thiết với thần kinh XI.
Hình 1.6. Phân nhóm hạnh cổ của Memorial Sloan-Kettery Center Nhóm V: Nhóm hạch của tam giác sau
- Gồm những hạch khu trú dọc theo nửa thấp của thần kinh XI và động mạch cổ ngang. Giới hạn trước: bờ sau cơ ức đòn chũm; Phía sau: bờ trước cơ thang;