Những tiền đề xã hội, thẩm mỹ của cái tôi cô độc trong Thơ mới

Một phần của tài liệu Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945 (Trang 23 - 28)

Chơng 2: Cái tôi cô độc, một biểu hiện đặc biệt của cái tôi trữ tình

2.1. Những tiền đề xã hội, thẩm mỹ của cái tôi cô độc trong Thơ mới

Có thể nói rằng, sự gặp gỡ của văn minh phơng Tây là một biến thiên trong lịch sử dân tộc ta. Nó làm thay đổi mọi mặt của đời sống Việt Nam. Đặc biệt, đây là thời kì có nhiều biến đổi trong xã hội, hơn ai hết tầng lớp trí thức là những ngời tiếp thu những biến động đó. Trong hoàn cảnh cái mới nẩy sinh, buộc họ phải có sự lựa chọn. Một mặt, họ phải đối đầu với cái mới, mặt khác họ lại phải nhìn về cội nguồn dân tộc, nh chúng ta biết cái mới và cái cũ bao giờ cũng có “lệch pha” sự “không ăn khớp”, buộc họ phải lựa chọn hoặc đi theo cái mới quên đi truyền thống, hoặc tìm về với truyền thống mà ngoảnh mặt làm ngơ với những biến động của xã hội lúc bấy giờ, có thể nói điều đó buộc các nhà Thơ mới vào một tình thế rất khó khăn trong sự lựa chọn, thậm chí là bi kịch. Đây là một câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà Thơ mới. Có thể nói,

đó là những tiền đề xã hội thẩm mỹ đầu tiên, là sự manh nha, làm nẩy sinh Cái Tôi cô độc trong Thơ mới 1932 - 1945 . Chúng ta sẽ có dịp làm nổi rõ vấn đề này ở các phần tiếp sau.

2.1.1. Khái niệm Cái Tôi cô độc

Nh chúng ta đã biết, cái Tôi là một khái niệm có nội hàm rộng lớn đến nỗi khó xác định đợc toàn bộ ý nghĩa của nó. Theo “Từ điển triết học”, cái Tôi có nghĩa là cá nhân, cá thể riêng lẻ của một ngời, cái Tôi đó làm nên sự

đa dạng phong phú và phức tạp cho cuộc đời. Thơ văn phản ánh hiện thực tâm hồn con ngời, do đó cũng thể hiện cái Tôi ấy dới muôn màu muôn vẻ khác nhau.

Thực ra, khái niệm Cái Tôi cô độc cha ai có định nghĩa một cách chuyên biệt và cụ thể, cho nên vấn đề này trong lúc nghiên cứu chúng tôi cũng chỉ mạo muội đa ra cách hiểu của mình về “Cái Tôi cô độc”.

“Cô độc” vốn là từ Hán Việt chỉ trạng thái tâm lí của con ngời chỉ sự lẻ loi không nơi nơng tựa, thậm chí bị hắt ra ngoài cuộc sống của xã hội thực tại.

Hay nói cách khác, cô độc là một hiện tợng trái với sự hài hoà, hòa hợp với tập thể hay cộng đồng xã hội. Cô độc chính là ý thức về bản ngã của từng cá nhân khi cảm thấy mình bị tách ra khỏi cộng đồng, ra khỏi xã hội nhân quần. Gần

đây, khái niệm Cái Tôi cô độc đợc giới lý luận quan tâm nghiên cứu, bớc đầu

đã đem lại những kết quả cao, đó là những công trình nghiên cứu của: Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ. Mỗi công trình nghiên cứu có một cách tiếp cận riêng, quan niệm riêng về Cái Tôi cô độc trong Thơ mới. Theo Hoài Thanh – Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam”, phong trào Thơ mới 1932 - 1945 ra đời gắn với sự xuất hiện cái “Tôi” cô độc đã tự khẳng định mình bằng thực tế, sáng tác và sự đón nhận phía độc giả. Khi phát súng đầu tiên của Thơ mới nổ ra với bài “Tình già” của Phan Khôi thì Thơ mới phát triển nhanh ào ạt với những thành tựu rự rỡ và hàng loạt tên tuổi đợc nhắc đến.

Cùng lúc đó Cái Tôi cô độc xuất hiện với nhiều dáng vẻ (Hà Minh Đức) thời

đại Thơ mới ra đời là “Thời đại mà mỗi con ngời tự cảm thấy mình là những cá nhân cô đơn, lạc lõng bơ vơ Đó là những con ng… ời cảm thấy rõ nhất cái cá nhân, là lúc con ngời tự khám phá cá nhân mình, thổ lộ mình để mong tìm sự đồng cảm ở một ngời khác cá nhân khác” (Trần Đình Sử), “Thơ mới là thơ

của cái Tôi” (Lê Đình Kỵ) vì thế Cái Tôi cô độc cũng đồng thời xuất hiện trong phong trào Thơ mới. Xét cho cùng, tâm trạng cô độc không phải lúc này, khi những ngời tri thức tiểu t sản cảm thấy bơ vơ lạc lõng không khẳng định đợc mình trong xã hội mới cảm thấy cô độc, mà đó là tâm trạng xuyên suốt cả tiến trình văn học Việt Nam. Nó xuất hiện từ thơ Hồ Xuân Hơng đến Nguyễn Công Trứ, từ thơ Nguyễn Du đến Tú Xơng:

Ưa thời thốn niệm bằng thuỳ tả

Duy hữu hàn sơn bản dà chung (Tấc già lo đời nhờ ai miêu tả.

Chỉ có tiếng chuông từ bên núi lạnh vẳng đến) (Bạch C Dị)

Nh ở trong thơ cổ “Cái Tôi cô độc” cha phải là cái Tôi cá nhân đợc ý thức đầy đủ mà chỉ là cái Tôi cao cả, tĩnh lặng, tự đắc, tự tại dù ở trong nghịch cảnh vẫn thấy gắn bó với một cái gì thiêng liêng bền chặt không di dịch.

Phong trào Thơ mới đã là sự hội tụ là nở hoa của hàng loạt cái Tôi trữ

tình trong Thơ mới.

Chúng ta cũng có thể rút ra đợc một số đặc điểm cơ bản của Cái Tôi cô

độc trong Thơ mới 1932 - 1945:

Cái Tôi cô độc chỉ là một phơng diện biểu hiện của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới.

Cái Tôi cô độc không phải bao giờ cũng là cái Tôi đã viết ra bài thơ nhà thơ không đồng nhất với cái Tôi trữ tình nhng lại hoàn toàn thống nhất.

Cái Tôi cô độc là sự biểu hiện ý thức sâu sắc của chủ thể sáng tạo về chính mình trong nghệ thuật.

Những Cái Tôi cô độc của phong trào Thơ mới đã góp phần tạo nên những gơng mặt riêng nổi bật và “đợm chất bâng khuâng của thời đại” (Hoài Thanh), cô độc là trạng thái tình cảm chung của nhiều nhà thơ trong phong trào Thơ mới.

Huy Cận với nỗi cô độc:

Một chiếc linh hồn nhỏ.

Mang mang thiên cổ sầu

(£ chÒ) Xuân Diệu qua tiếng nói của thiên nhiên tạo vật:

Tôi là con nai bị chiều đánh lới Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối

(Khi chiÒu gi¨ng líi) Và Phạm Hầu lại có cách thể hiện riêng:

Tôi theo t tởng vô cùng tận Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu

“Cái Tôi cô độc” trong Thơ mới đợc biểu hiện dới nhiều màu vẽ, phong phú đa dạng, khẳng định Cái Tôi cô độc ở tính xã hội và tính chủ quan nhà thơ.

Việc áp dụng khái niệm Cái Tôi cô độc vào nghiên cứu Thơ mới một lần nữa nhằm làm sáng tỏ hơn về Cái Tôi cô độc trong thơ ca nó chung và Thơ mới nói riêng, đó là một phạm trù thể hiện cái Tôi trữ tình trong Thơ mới 1932 - 1945.

2.1.2. Những tiền đề xã hội thẩm mỹ

Có thể nói rằng, sự gặp gỡ phơng Tây là một biến thiên lớn nhất trong lịch sử (ở chơng1 chúng tôi đã có dịp đề cập). Trớc luồng gió văn minh ấy các nhà Thơ mới đặt mình trong sự lựa chọn mới: Hoặc tiếp thu cái mới để

đổi mới hoặc níu giữ nền văn hoá truyền thống. Điều đó nh là một bi kịch

đối với họ.

Trong cuộc lựa chọn ấy các nhà Thơ mới không khỏi những băn khoăn.

Chính nhà phê bình Hoài Thanh cũng đã nhận ra điều này: “Muốn tìm một nguồn sống thi ca, phải theo hớng khác, ảnh hởng Pháp đã giúp ta nhận thức cái cá tính của ta. Hoặc trở về thơ Việt xa, hoặc tìm đến thơ Đờng thơ Pháp, đi

đâu ta củng cốt tìm ra [18, 39]. Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và Thơ mới đã diễn ra quyết liệt, cuối cùng Thơ mới đã chiến thắng, đã sáng tạo ra một nền thi ca mới. Có điều Thơ mới lãng mạn chủ yếu là tiếng nói của tiểu t sản trí thức và viên chức thành thị. Những con ngời này không có hệ t tởng độc lập. Do đó khi tiếp thu ảnh hởng văn hoá Phơng Tây, nh một kẻ đứng giữa nga ba đờng, họ hoang mang dao động, chỗ đứng của họ hết sức chông chênh, không có chỗ dựa. Hơn nữa về mặt xã hội, các nhà Thơ mới không chấp nhận cái xã hội kim tiền ô trọc, đồng thời họ lại xa rời cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng. Của dân tộc, chính điều đó đã đẩy cái Tôi cá nhân vào trạng thái cô

độc không lối thoát, để tránh sầu thảm trong cuộc đời họ đi vào con đờng thơ

văn mong có thể gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Nhng chính khi họ sáng tạo ra một nền thi ca mới, đồng thời họ cũng cảm nhận đợc sự lạc lõng và bất lực của chính mình. Bởi vì sự sáng tạo ấy lại ở trên một nền văn hoá truyền thống lâu

đời của dân tộc. Khi mà ở đó những thành tựu lớn lao, có những anh hùng thực sự. Bởi vậy, khi tiếp xúc với nền văn minh phơng Tây, họ phải gồng mình lên để bảo vệ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Khi họ say sa nói về cái Tôi, đề cao tự do cá nhân tự khẳng định mình bằng cách đối lập với xung quanh kiểu nh Xuân Diệu từng tuyên bố:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất.

Không có chi bè bạn nổi cùng ta.

(Hi Mã Lạp Sơn)

Khi chạm vào văn minh phơng Tây, ý thức cái Tôi càng sâu sắc, sự buồn tủi cô độc càng thể hiện rõ. Từ trớc, sự cô độc ít đợc đề cập đến hoặc có chăng cũng chỉ nói chung chung. Khi nghiên cứu Thơ mới, các nhà nghiên cứu chủ yếu xoay quanh mặc cảm cá nhân của nhà thơ về vị trí của mình trong xã hội. Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề này, chúng ta vẫn nhận ra điểm trùng với Cái Tôi cô độc trong Thơ mới. Cuộc tiếp xúc văn hoá Việt Pháp đã diễn ra trên nhiều phơng diện. Đặc biệt, khi nhìn nhận về vấn đề cá nhân trong Thơ

mới, ta thấy chiều sâu ý thức của cái Tôi cá nhân trong Thơ mới đó chính là sự lạc lõng bất an, sự buồn tủi cô độc của cái Tôi cá nhân Thơ mới giữa xã hội nhân quần. Khi các nhà Thơ mới đề cao cái Tôi cá nhân và họ đối lập mình với xung quanh cũng chính là lúc họ cảm thấy mình nh là một sự bất lực, vô nghĩa và điều đó cũng đồng nghĩa với việc nẩy sinh mầm mống của sự lạc lõng, cô

độc trong t tởng của các nhà Thơ mới 1932 - 1945.

Bên cạnh yếu tố xã hội, cái Tôi cô độc trong Thơ mới còn là một phạm trù thẩm mỹ.

Trong thơ trung đại, nhất là mảng thơ của các nho sĩ ẩn dật đã từng xuất hiện hình ảnh con ngời cô độc. Nhân vật trữ tình ở trong thơ trung đại thích ngồi một mình, chúng ta nhận ra ở đây có sự trái ngợc với nhân vật trữ tình trong Thơ mới, cái hình ảnh cô độc xuất hiện trong thơ trung đại là do các nho sĩ muốn tạo ra, họ muốn tìm về sống ẩn dật, ở một nơi nào đó không ai biết

đến, họ không muốn giao lu với thế giới bên ngoài, không muốn tai mình phải nghe một cái gì ở ngoài xã hội. Tóm lại, tâm hồn họ không muốn vớng một

chút bụi trần nào cả để giữ cho mình đợc trong sạch. Nhân vật trữ tình ở trong thơ trung đại thích ngồi một mình, họ muốn cất đứt mọi mối quan hệ xã hội, sống chỉ mình với mình giữa thiên nhiên cây cỏ. Ngợc lại với nhân vật trữ tình trong thơ trung đại, nhân vật trữ tình trong Thơ mới muôn giao lu với thế giới bên ngoài nhng lại bị chính xã hội bên ngoài chối bỏ. Chính điều đó nên họ tự cảm thấy mình bơ vơ lạc lõng, cô độc giữa xã hội ồn ào náo động ấy, chính khi họ nhận thức đợc mình bị bỏ rơi bị hắt ra khỏi cuộc sống xã hội, họ tự nhủ mình là “đứa con hoang” là “kẻ đầu thai nhầm thế kỷ” phải sống trong sự lạc lõng, cô độc.

Trên đây là những tiền đề xã hội, thẩm mỹ của “Cái Tôi cô độc”, chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở những phần tiếp theo.

Một phần của tài liệu Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945 (Trang 23 - 28)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(55 trang)
w