Giọng điệu thể hiện trong Thơ mới 1932 - 1945

Một phần của tài liệu Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945 (Trang 47 - 52)

Chơng 3: Nghệ thật thể hiện cái tôi cô độc của các nhà Thơ mới

3.1. Giọng điệu thể hiện trong Thơ mới 1932 - 1945

“Giọng điệu là thái độ tình cảm, lập trờng t tởng, đạo đức của nhà văn

đối với hiện tợng đợc miêu tả thể hiện trong lời văn, qui định cách xng hô gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”. Nh vậy, giọng điệu là một yếu tố đặc trng của hình tợng trong tác phẩm. Trong thơ văn, nhờ giọng điệu mà chúng ta nhận ra tác giả. Nền tảng giọng điệu là cảm hứng nhà của nhà văn. Nếu là cảm hứng cao thì giọng điệu là cao cả. Các tác phẩm thuộc sử thi, tình ca, hành khúc mang giọng điệu đó. Ngợc lại, nếu nhà văn có cảm hứng phê phán bất mãn với thực tại thì giọng điệu sẽ là mỉa mai, châm biếm. Thơ mới 1932 - 1945 cũng thể hiện một giọng điệu rất đa dạng và phong phú. Nh chúng tôi đã trình bày ở chơng 2, do tiếp thu những ảnh hởng của nền văn minh phơng Tây, các nhà Thơ mới đã làm nên một cuộc “cách mạng trong thi ca”. Thơ mới ra đời giải phóng cái Tôi cá nhân khỏi những ràng buộc cũ và đem lại những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ, thể loại Nh… ng rồi hầu hết các nhà Thơ mới đều tỏ ra không thoả mãn với công việc mà mình đã làm. Mặc dù họ đề cao cái Tôi cá

nhân, "quảng cáo" về triết lí của họ, nhng trong thâm tâm ngời nào cũng cảm thấy lạc lõng bơ vơ và cô độc trớc thực tại.

Xuất phát từ những tâm trạng ấy mà cha bao giờ giọng điệu lại xuất hiện nhiều dạng nh trong Thơ mới. Các nhà Thơ mới từ Thế Lữ, Xuân Diệu

cho đến Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Vũ Hoàng Chơng đều đã cảm thấy sự vô nghĩa lạc lõng cô độc của mình khi phải sống với một xã hội bóp chết mọi ớc mơ hoài bão của con ngời. Xuân Diệu là một nhà thơ tha thiết với cuộc

đời, sôi nổi rạo rực trong tình yêu mà cũng có lúc cảm thấy “cái nghiệp” thi nhân của mình vô nghĩa quá:

Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xơng da

(Lêi kü n÷)

Nguyễn Bính đợc xem là thi sỹ của yêu thơng, vậy mà trong ông cũng có không ít dằn vặt về cái Tôi cá nhân của mình, giọng điệu này thể hiện rõ trong các bài thơ nói về gia cảnh (Th gửi thày mẹ, Nhà tôi, Oan Nghiệt, Con nhà nho cũ…) và các bài viết theo thể hành (Bài hành phơng Nam, Đêm đất khách). Nghề thi nhân đẹp đẽ là thế mà Nguyễn Bính cho rằng, đó là do “trời

đày”, “trời bắt”. Riêng cái sự “giời đày làm thơ” của thi sĩ lại nhắc không giới hai lần, lần nào cũng đắng cay, tủi nhục, khi thì: Còn tôi sống sót là may/ mẹ hiền mất sớm, giời đày làm thơ (Nhà tôi); khi thì: Mình tôi giời bắt làm thi sĩ/

Mẹ mất khi cha kịp bạc đầu (Hoa với rợu).

Huy Cận thấy mình “lủi thủi” giữa cuộc đời và cay đắng nhận ra sự chia biệt của những Cái Tôi cô độc. Giọng điệu dằn vặt của ông thể hiện rõ trong các bài Trình bày, Thân thể:

Từng bớc lạnh teo, một mình lủi thủi Tin ngây thơ: Hồn sẽ hiểu qua hồn Tôi đâu biết thịt xơng là sông núi Chia biệt nguời ra từng xứ cô đơn.

(Trình bày)

Trong số các nhà Thơ mới, Vũ Hoàng Chơng tỏ ra cảm nhận thấm thía sự lạc lõng của mình giữa cuộc đời. Nhà thơ thấy mình và các thi nhân cùng thời nh những đứa con “Lạc loài”, “Đầu thai nhầm thế kỉ”. Giọng điệu thơ

trong các bài Phơng xa, Đời tàn ngõ hẹp dằn vặt, đay nghiến đến độ dữ dằn:

Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỉ Một đôi ngời u uất nỗi chơ vơ

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.

(Phơng xa)

Thời đại Thơ mới là thời đại của cái “Tôi”. Lần đầu tiên cái Tôi dọng dạc lên tiếng trong Thơ mới. Nhng rồi Thơ mới không nhiều những giọng tơi vui, mà trái lại nó xuất hiện nhiều giọng điệu dằn vặt. Tại sao vậy?

Nh chúng ta đã biết, làm nên một nền thi ca mới, nhng trong thâm tâm các nhà Thơ mới cảm thấy có điều gì đó không phải với cha ông, với nền văn hoá truyền thống. Là những ngời con của một nền văn hoá lâu đời, họ thấy mình thực sự có lỗi với truyền thống văn hoá đó. Bởi vậy, trong Thơ mới, bên cạnh những giọng điệu thơ dằn vặt, đay nghiến có không ít giọng điệu thơ sám hối. Đó cũng chính là sự sám hối của cả một thế hệ thi nhân đối với truyền thống văn hoá dân tộc. Qua đó, chúng ta cũng thấy đợc sức mạnh của văn hoá

truyền thống một khi đã đi vào công thức con ngời thì không dễ gì mà rũ bỏ đ- ợc.

Huy Cận xem cuộc đời mình là một “kiếp đi hoang”, bởi vậy, có lúc nhà thơ đã buông xuôi hai tay trớc thợng đế để cầu khẩn, van xin:

Hỡi thợng đế tôi cúi đầu trả lại Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang Sầu đã chín, xin Ngời thôi hãy hái!

Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đờng (Trình bày)

Thời đại Thơ mới đã tạo ra một nền thơ đa phong cách, đa giọng điệu, từ sôi nổi rạo rực, đến hùng tráng, mơ màng. Trong vô số giọng điệu đó của Thơ mới có không ít bài thơ mang giọng điệu hoài nhớ, hoài cổ.

Cảm nhận thấm thía sự lạc lõng vô nghĩa của mình giữa cuộc đời bất bình với thực tại chua xót, nhà Thơ mới cũng quay về với quá khứ để tạo lập sự thăng bằng. Cũng giống nh các nhà thơ xa, các nhà Thơ mới, xem quá khứ là những gì tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại, trở về quá khứ là để dịu đi những nỗi cô độc ở giữa xã hội nhân quần, về với quá khứ là về với bản sắc tốt đẹp của dân tộc, về với cuộc sống thanh bình, về với thời kì có sự hoà đồng giữa con ngời và vũ trụ. Nếu nh trong thơ ca trung đại, giọng điệu hoài cổ bị quy

định bởi những luật lệ gò bó của cả một nền thơ thì trái lại, giọng điệu hoài cổ trong Thơ mới đã bung ra với đủ cung bậc, màu vẽ, có đợc điều đó là do sự giải phóng cái Tôi cá nhân, thời đại mới đã làm nền cho giọng điệu. Các nhà thơ nh Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Nhợc Pháp, Nguyễn bính, Vũ Đình Liên đều tìm về quá khứ. Trên nguồn cảm hứng này, mỗi… nhà thơ làm nên một giọng điệu mới. Giọng điệu hoài cổ trong Thơ mới sinh

động, nhiều màu vẽ. Tuy vậy, nó vẫn nổi lên một số đặc điểm: Giọng hoài cổ gắn liền với quá khứ lịch sử, giọng hoài cổ gắn với hình ảnh quê hơng thanh bình, giọng hoài cổ gắn với hình ảnh tuổi thơ.

Huy Cận nhớ về những “đèo cao, quán chật”, “bến đò lau tha”, những

đồn xa “quằn quại bóng cờ”, những tiếng trống “còn vọng trên lầu ải quan".

Những bài thơ nh bài thơ nh Chiều xa, Đẹp xa, Buồn đêm ma… mang một giọng điệu thiết tha với quá khứ. Những cảm hứng hoài cổ ở đây đợc chuyển tải bằng thể thơ lục bát nhẹ nhàng, tứ xa vắng, hình ảnh, giọng điệu buồn man mác. Cộng thêm vào đó là hàng loạt từ ngữ diễn tả khát vọng hớng về quá

khứ: “Buồn”, “Xa”, “Vọng”, “Nhớ”, “Mơ”, “Xa vắng”, “Nghe”, “Hồn”…

Trong đó, từ “Buồn”, “Xa”, xuất hiện nhiều nhất. Chính điều đó càng chứng tỏ một tấm lòng da diết với quá khứ của nhà thơ. Nh vậy, cũng là giọng điệu hoài cổ, nhng ở Huy Cận có cái gì xa xăm của quá khứ lịch sử, mà mỗi khi nhớ lại không khỏi làm cho con ngời cảm thấy bâng khuâng.

Trong những giọng điệu hoài cổ, có lẽ Chế Lan Viên đã làm nên một giọng điệu độc đáo ít thấy. Khác với giọng điệu hoài cổ của Huy Cận, Chế Lan Viên tìm về quá khứ bằng chất giọng riêng của mình. Mợn câu chuyện Chiêm Thành, thi sỹ thổ lộ một nỗi đau xót của ngời dân nô lệ trong con mắt

nhà thơ, một thời rực rỡ, huy hoàng hiện rõ mồn một: Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm quốc/ Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tơi/ Những chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp/ áo hồng nâu phủ phất xoã lời vui (Trên đờng vÒ).

Trong số các nhà Thơ mới, có thể nói Vũ Hoàng Chơng là ngời cảm nhận một cách thấm thía sự cô độc của mình giữa cuộc đời. Thực tại đối với

ông không có ý nghĩa, hay chỉ là “chốn bùn nhơ” nh ông từng quan niệm. Do

đó bên cạnh giọng điệu thơ giằn vặt, uất ức, chúng ta còn bắt gặp một giọng

điệu hoài niệm về quá khứ. Hình nh trở về với quá khứ, nhà Thơ mới tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống, với đi mặc cảm lạc loài và cô độc vốn tô đậm ở ông.

Không tìm đợc ngời tơng thông tơng cảm, tiếng nói đồng cảm các nhà Thơ mới tìm về quá khứ. Trên nền cảm hứng chung đó mỗi nhà thơ đã làm nên một giọng điệu riêng của mình. Bởi vậy cũng là cảm hứng quen thuộc của thơ

lãng mạn, nhng những giọng điệu hoài cổ trong Thơ mới trở nên phong phú,

đa dạng: Có khi xa xăm, bâng khuâng, có khi bật lên nhức nhối, có khi gần với dọng sám hối. Tất cả đã làm nên giọng điệu hoài cổ riêng của Thơ mới.

Hơn nữa, hoài cổ Thơ mới gắn liền với ý thức dân tộc cho nên trong giọng

điệu hoài cổ còn chứa đựng một ý thức níu giữ, bảo trì cả một nền văn hoá

đang dần đi đến cảnh biến thiên. Cùng với giọng điệu giằn vặt, sám hối, một lần nữa, giọng điệu hoài cổ biểu hiện rõ tinh thần dân tộc của các nhà Thơ

mới. Bên cạnh đó, Thơ mới còn có giọng điệu của sự khinh bạc, bi phẫn.

Trong thơ ca xa và nay, có không ít giọng điệu khinh bạc, bi phẫn với cuộc đời, với thế thái nhân tình. Điểm xuất phát của giọng điệu này thờng do mỗi cá nhân chán nản với xã hội lắm nhiễu nhơng và cuộc đời nhiều bất hạnh mà có. Họ không có ngời tri âm tri kỷ để thổ lộ những tâm sự uất ức của mình mà chỉ biết than thở trong thơ ca. Trong những trờng hợp nh vậy, có khi anh ta tự thần tợng hoá mình lên, cho mình là cao hơn cả, là ngời mang t tởng thời

đại, còn xung quanh là nhỏ bé, thấp hèn. Con ngời ấy sống với một thái độ ngông nghênh kiêu ngoạo, bất cần đời. Với cách sống đó, anh ta tởng sẽ làm

cái ngông nghênh, khinh bạc là cả một nỗi bi phẫn xót xa không có gì khoả

lấp nổi. Bởi vì, khi anh ta đứng cao hơn, xa hơn mọi ngời, cũng chính là lúc con ngời cá nhân anh ta bị nhấn sâu vào cô độc lạc lõng. Nhìn chung, giọng

điệu khinh bạc, bi phẫn đợc sinh ra khi không có sự ăn khớp giữa lý tởng cao

đẹp với thực tế chua xót. Tuỳ theo từng thời đại, từng hoàn cảnh cá nhân, giọng điệu đó đợc biểu hiện đậm đặc hay mờ nhạt.

Nh chúng tôi đã trình bày ở trên, ảnh hởng văn minh phơng Tây, một nền Thơ mới ra đời và góp thêm tiếng nói vào nền thơ ca dân tộc. Nhng rồi sự vô nghĩa giữa cuộc đời của các nhà Thơ mới đã dẫn đến sự cô độc buồn chán của họ, họ đã đi về nhiều chỗ để tìm sự an ủi, họ thấy mình nh sống trong sự luẩn quẩn bế tắc không thoát ra nỗi buồn khổ. Phải chăng, giọng điệu bi phẫn sinh ra từ đó.

Tóm lại, mặc cảm về sự lạc lõng cô độc của mình giữa cuộc đời, các nhà Thơ mới đến với con đờng văn chơng mong tìm một chỗ dựa, một niềm an ủi, nhng rồi con đờng văn chơng ấy cũng không làm cho cảm hứng sáng tạo của họ trở nên hào hứng sôi nổi hơn, mà trái lại còn làm cho họ buồn khổ, giọng điệu mà các nhà Thơ mới thể hiện trong thơ một phần cũng là do nguyên nhân vậy. Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều nhà Thơ mới đã vào cuộc, lúc đó giọng điệu buồn, uất ức, bi phẫn chán nản của họ đợc xoá bỏ, thay vào đó là những giọng điệu thơ tơi vui của một cái Tôi hoà nhập với xã

hội, cộng đồng.

Một phần của tài liệu Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945 (Trang 47 - 52)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(55 trang)
w