Cái Tôi cô độc và một số hình thức kết cấu bài thơ

Một phần của tài liệu Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945 (Trang 52 - 57)

Chơng 3: Nghệ thật thể hiện cái tôi cô độc của các nhà Thơ mới

3.2. Cái Tôi cô độc và một số hình thức kết cấu bài thơ

“Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phơng tiện cơ

bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật” [10, 131].

Trong Thơ mới, Cái Tôi cô độc không những chi phối ảnh hởng đến những cảm hứng sáng tạo mà còn chi phối cả những phơng thức biểu hiện nghệ thuật đặc thù của các nhà Thơ mới. Để chuyển tải những cảm hứng sáng

tạo biểu hiện của sự cô độc đó các nhà Thơ mới đã tìm đến các hình thức kết cấu, đối lập”, tự họa chân dung hay phát biểu một luận đề.

Không phải đến Thơ mới, chúng ta mới nói đến kết cấu “đối lập”, đây là hình thức kết cấu quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn, của thơ lãng mạn. Nó là sản phẩm của tâm trạng bất mãn về sự không ăn khớp giữa lý tởng và hiện thùc.

Chán ngán về một thực tại lắm chua cay, hơn bao giờ hết, các nhà Thơ

mới thấm thía cảnh cô độc lạc lõng của mình giữa xã hội nhân quần. Trong Thơ mới, đồng thời với việc khẳng định và tuyên bố quyền sống của mình, cái Tôi đã tiến hành một loạt và đối lập với mọi cái chung quanh không phải là nó. Trong khi làm cái công việc soát xét lại mình bằng cách đối lập ấy, nhân vật trữ tình có cơ hội nhìn thấu suốt bản thân mình hơn trong sự phức tạp đa chiều của nó. Để làm đợc điều đó, các nhà Thơ mới cũng tìm đến kiểu kết cấu

đối lập trên. Với kết cấu đối lập, Cái Tôi cô độc đợc thể hiện rõ hơn. Nh vậy, rõ ràng là Thơ mới đã đoạt lấy một thủ pháp quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn để thể hiện chủ đề riêng của mình. Đây là nết riêng của lối kết cấu đối lập trong Thơ mới. Phải chăng lối kết cấu đối lập này phù hợp với việc diễn tả

tâm trạng cô độc của các nhà Thơ mới. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ nh Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Ch-

ơng đều tìm đến hình thức kết cấu này. …

ở đây, trớc hết khi đi vào những biểu hiện cụ thể của những bài thơ xây dựng theo kiểu kết cấu “đối lập”, chúng tôi muốn đề cập đến một số đặc điểm cơ bản của nó. Đối với những bài thơ xây dựng theo kiểu kết cấu “đối lập”, hiện thực thờng đợc phân ra làm hai mảng, có thể là sáng - tối, tôi - ta, xa - nay… Tuy nhiên, việc chọn lựa kết cấu theo mảng nào tuỳ thuộc vào từng cảm hứng của nhà thơ, của bài thơ cụ thể. Nếu bài thơ kết cấu theo kiểu “đối lập”

giữa cái Tôi cái ta– , thì nhà thơ có thể bắt đầu bằng một không gian rộng lớn và đối lập với nó là một cái nhỏ nhoi đơn chiếc. Ngợc lại, nếu bài thơ đợc xây dựng theo kiểu kết cấu đối lập xa - nay, thì nhà thơ có thể bắt đầu bằng một cảnh tợng đẹp đẽ, thanh bình trong quá khứ và đối lập với nó là một thực tại

Tràng giang (Huy Cận), Xóm ngự viên (Nguyễn Bính) thể hiện rõ các dạng… kết cấu trên. Hình nh trong tâm khảm, các nhà thơ thấy mất đi một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng. Đó cũng chính là tâm trạng của Huy Cận trong Tràng Giang: Lòng quê dợn dợn vời con nớc/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Văn hóa làng quê Việt Nam luôn gắn bó với những cái gì thân thuộc nhất. Nh- ng trong hoàn cảnh bấy giờ, con ngời bị bứt ra khởi nền văn hoá của mình không khỏi cảm thấy chơ vơ, cô độc: Bởi vì quê hơng không chỉ là làng quê than thơng nào đó, mà nó con là cội nguồn đời sống tinh thần. Tức là, nỗi khắc khoải quê hơng có mặt ở khắp nơi và luôn luôn giày vò tâm hồn thi sĩ

(Huy Cận). Cái buồn tủi vì không có quê hơng hầu nh nơi nào cũng giống nhau. Nh vậy, cả một thế hệ các nhà Thơ mới đều cảm thấy đau xót. Mỗi bài thơ có cách tổ chức thế giới nghệ thuật riêng, nhng những bài thơ kết cấu theo kiểu “đối lập” còn khá nhiều trong Thơ mới.

Thơ mới với việc biểu hiện tâm trạng và cảm xúc của mình một cách tỷ mỷ nn đã đề cập ở trên làm hiện lên thật sinh động những Cái Tôi cô độc và lạc lõng. Là hình thức kết cấu quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn, với tâm trạng cô độc đã khiến nhiều nhà thơ tìm đến với kết cấu “đối lập”đó, và ở đây cái Tôi cô dộc đợc bộc lộ khá rõ nét.

Bên cạch kiểu kết cấu “đối lập” thì kết cấu “chân dung tự hoạ” cũng là một biểu hiện về mặt nghệ thuật trong phong trào Thơ mới. Cái Tôi cô độc nó chi phối đến cách tổ chức nghệ thuật và dẫn các nhà Thơ mới đến việc tự họa ch©n dung m×nh.

Thời đại Thơ mới là thời đại của chữ “tôi”. Cái Tôi cá nhân ấy trỗi dậy một cách mãnh liệt để khẳng định mình, sự trỗi dậy của cái Tôi cá nhân gắn liền với chân dung tự hoạ. Đỗ Lai Thuý trong “Con mắt thơ” cũng đã phát hiện ra điều này: “Sự thức tĩnh của cái Tôi cá nhân đó cũng thờng gắn liền với thể loại chân dung tự hoạ, bởi lúc đó con ngời biết phân thân để nhìn mình từ bên ngoài với con mắt của kẻ khác, biết biến mình thành đối tợng của chình mình. Chân dung cá nhân cổ truyền chỉ là tranh đồ thờ hay thơ chúc tụng, vẽ viết theo quy phạm. Các đặc điểm cá nhân bị tẩy xoá hoặc uốn nắn cho phù hợp với mục đích giáo dục nêu gơng” [16, 42].

Nh chúng tôi đã trình bày ở chơng 2, cái Tôi cá nhân trong Thơ mới là một cái Tôi “cô độc”, cái Tôi ấy không có chỗ dựa và chổ bấu víu trong cuộc

đời, do đó khoảng trống và sự lạc lõng của họ càch lớn, họ không biết làm gì

hơn là quay lại tự vẽ mình tìm mối quan hệ giữa cảm hứng sáng tạo. Với kiểu kết cấu này, phải chăng đó cũng là một cách để họ làm vơi đi nỗi cô độc. Cha bao giờ, việc tự họa chân dung lại phát triển rầm rộ nh trong Thơ mới. Hầu hết các nhà Thơ mới đều tự họa chân dung mình. Trong Thơ mới, các nhà thơ có ý thức sâu sắc về mình, thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Do

đó, họ vẽ mình một cách rành rọt nh một đối tợng khách quan. Và nh vậy họ có dịp nhìn lại một cách đầy đủ hơn về mình. Trớc hết, chúng tôi muốn nói

đến t duy phân tích của nhng bức chân dung tự họa trong Thơ mới. Cùng với nhiều ảnh hởng khác, chân dung tự họa trong Thơ mới cũng ảnh hởng t duy phân tích phơng Tây, đó là lối t duy a chẻ ngọn ngành và nói hết các khía cạnh của sự thật, trên cơ sở lối phân tích đó giúp độc giả hiểu về nhân vật trữ tình một cách đầy đủ hơn. Một đặc điểm dễ thấy trong những bức chân dung tự họa Thơ mới là sự bộn bề chi tiết, mỗi câu trong bài thơ nh vẽ ra một cảnh, nói những chi tiết tả, kể hết sức tỉ mỉ nh trong văn xuôi. Trong bài “Ngời phóng

đãng”, Thế Lữ đã khắc họa chân dung của mình, đó là kiểu nhân vật tài tử, lãng mạn những con ngời luôn thấy mình cô độc vô nghĩa giữa cuộc đời, giữa xã hội. Họ sống tởng nh là bằng phẳng nhng kỳ thực đầy biến động và họ đã

phản ứng lại xã hội đó bằng lối sống tài tử của mình. Con ngời ấy muốn thể hiện cái hiên ngang “bất cần đời” theo kiểu cảnh “chinh phu”, nhng trong lòng sao tránh khỏi sự đau xót buồn tủi và cô độc trống trải. Đặc biệt nh ở bài “Con ngời vẩn vơ”, câu cuối trong bài “Ngời phóng đãng”, tác giả đã khách quan hoá mình:

Cho đến khi Hà Nội sáng trng đèn Mới sực nhớ: Đêm nay không chỗ nghỉ

Để quan sát mình rõ hơn, đầy đủ hơn. Nh vậy, với cách kể, tả, sự bề bộn của những chi tiết trên tác giả đã một lần nữa tô đậm sự lạc lõng cô độc của mình không có chỗ dựa của mình giữa cuộc đời. Ta bắt gặp trong thơ của rất

nhiều nhà Thơ mới nỗi niềm này nh trong thơ của Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chơng…

Ngoài ra, kiểu kết cấu chân dung tự họa trong Thơ mới còn có hỗ trợ cho giọng mỉa mai. Cũng là chân dung, nhng do các nhà Thơ mới tự họa mình trên nền của sự cô độc lạc lõng cho nên giọng thơ có cái gì đó rất u uất hơn, bất cần hơn. Trên thực tế, chân dung tự họa trong những bài thơ còn mang nhiều ý nghĩa nữa.

Bên cạnh hai kiểu kết cấu trên thì kiểu kết cấu “phát biểu một luận đề”

cũng là một biểu hiện nghệ thuật, miêu tả về Cái Tôi cô độc trong Thơ mới, có nhiều bài thơ mà ở đó cảm hứng chủ đạo là cảm hứng phô bày trực tiếp một suy nghĩ một quan niệm. Trong đó, có một số bài chỉ xoay quanh một luận đề và tác giả bám riết vào đó để lập luận triển khai.

Những bài thơ này đã tạo thành một mảng khá đậm và có ảnh hởng sâu sắc cả phong trào Thơ mới. Các nhà Thơ mới nh Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chơng đều có những bài thơ thuộc loại này. Việc ra đời mảng… thơ trên cũng là điều dễ hiểu. Bởi vì, thời đại đã thay đổi, Thơ mới đợc xem là cuộc cách mạng trong thi ca. Nó cần phải tuyên bố, cần tới những tuyên ngôn, cần tới một sự chính danh. Cái Tôi cá nhân Thơ mới phát biểu nhiều chuyện, nhiều vấn đề của cuộc sống. Trong mảng thơ trực tiếp trình bày quan niệm, một t tởng có không ít bài thơ trực tiếp phát biểu về “Cái Tôi cô độc” trớc hết chúng tôi muốn nêu lên một số đặc điểm cơ bản về loài kết cấu phát biểu một

“luận đề” lôgíc của nó thờng là từng đoạn, từng khổ kế tiếp nhau theo yêu cầu làm nổi bật tuần tự từng đặc điểm của hình tợng. Bài thơ kết thúc khi những

đặc điểm chính của hình tợng đợc miêu tả hết cũng có nghĩa là khi t tởng đã

đợc triển khai một cách đầy đủ, mỗi khổ thơ nh vậy ứng với một luận điểm trong văn nghị luận, mà chúng ta có thể tóm tắt, gạch đầu dòng. Nó khác với những bài thơ “tự họa chân dung” mà ở đó mỗi câu là một nét vẽ, một chi tiết thể hiện hết sức tỉ mỉ. Lôgíc kết cấu trên cũng đợc thể hiện ở những bài thơ

trực tiếp phát biểu về cái Tôi trữ tình cô độc nh trong những bài: “Trình bày”,

“Thân thể” (Huy Cận), “Phơng xa”, “Đời tàn ngõ hẹp” (Vũ Hoàng Chơng)…

ở bài “Trình bày”, Huy Cận đã luận giải vấn đề một cách rành mạch từ

đầu đến cuối, các câu thơ trong bài thơ đã xác định một cách chặt chẽ từng ngời trình bày (Nhà thơ) đối tợng trình bày (thợng đế) đến mục đích trình bày (kêu than) và thời gian trình bày (khi đã lìa đời), toàn bộ khổ thơ đầu nh đặt nền tảng cho bài thơ để từ đó khơi sự thuyết phục cho độc giả.

Nếu ở khổ một, nhà thơ nêu lên kết quả thì sang khổ hai, nhà thơ lại lý giải nguyên nhân của những sự đau khổ. Sự lý giải ở đây cặn kẽ, có sức thuyết phục, ta nh nghe đợc lời giải thích của tác giả. Sở dĩ: “trái tim tôi khô héo”, tôi cô độc vì “ngây thơ” vì trái tim ban phát một cách bừa bãi “chân mỏi chạy theo tình” kèm theo lời giải thích là hàng loạt từ ngữ diễn tả sự đau khổ đến tột cùng của nhà thơ: “Lủi thủi”, “chia biệt”, “gôi rã”, “mỏi”, “cô độc”, “đìu hiu”. Nhờ hệ thống từ ngữ này mà hình ảnh một con ngời cô độc, lạc lõng càng đợc nổi lên rõ nét, việc lý giải càng chặt chẽ hơn.

Nh vậy, sản phẩm đích thực của Thơ mới với ảnh hởng rõ nét của lối phân tích Phơng Tây, những bài thơ kết cấu theo kiểu “phát biểu một luận đề”

đã tạo thành một kiểu kết cấu cùng với kiểu kết cấu “đối lập” và “chân dung tự họa”, trên cơ sở đó, các nhà Thơ mới có điều kiện trình bày một vấn đề nào

đó dễ dàng hơn. Cũng nh vậy nhờ các kiểu kết cấu này, Cái Tôi cô độc trong Thơ mới đợc bộc lộ một cách rõ ràng, tỉ mỉ. Tuy nhiên, khi tìm hiểu kết cấu của những bài thơ thuộc loại này, chúng ta cũng không nên rập khuôn máy móc. Bởi vì, trên thực tế không cố một loài kết cấu nào tỏ ra thuần khiết mà gi÷a chóng cã sù giao thoa víi nhau.

Một phần của tài liệu Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945 (Trang 52 - 57)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(55 trang)
w