Chơng 2 Phong Cách Thơ Nôm truyền tụng
2.3.3. Thể loại thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng
Thơ Nôm Đờng luật xuất hiện từ thời Lý - Trần , phổ biến vào thời hậu Lê, phát triển và thịnh hành vào thời Lê mạt - Nguyễn sơ .Có nhiều thi nhânViệt Nam thời trung đại đã vận dụng thành thạo thể thơ Đờng luật trong sáng tác thơ Nôm nh: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức , Nguyễn Bỉnh Khiêm , Hồ Xuân Hơng, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ Quá trình… hình thành và phát triển của thơ Nôm Đờng luật đã xuất hiện hiện tợng: trong một số bài thơ thất ngôn bát cú Đờng luật có xen một số câu thơ lục ngôn. Đó là một
đặc điểm nghệ thuật về mặt thể loại của thơ Nôm Đờng luật so với thơ Nôm truyÒn thèng.
Toàn bộ 40 bài thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng đều là thơ Nôm Đờng luật : thơ thất ngôn bát cú và thơ tuyệt cú. Thơ Nôm Đờng luật là thể thơ đợc dùng trong thi cử và các nhà thơ quý tộc thờng dùng thể tài này để ngâm vịnh.
Với niêm luật chặt chẽ, thơ Đờng luật có một hình thức đờng bệ và thờng chứa
đựng một nội dung cũng đờng bệ nh thế. Tiêu biểu cho thể thơ này là thơ Bà huyện Thanh Quan. Những sáng tác của Bà huyện Thanh Quan đọc lên nghe “nh có con hầu đi theo sau”. Đối lập với Bà huyện Thanh Quan và cũng đối lập với
quan niệm phổ biến về thơ Đờng luật của nhiều nhà thơ quý tộc khác, Xuân Hơng
đem đến cho thể thơ này một nội dung hết sức thông tục, chẳng có gì kiêng kị đối với thơ Đờng luật. Xuân Hơng thực tế đã “cải tạo” thể thơ Đờng luật. Một sự thay
đổi về nội dung tất phải đa đến một sự thay đổi về hình thức tơng ứng, trong khuôn khổ mà thể thơ cho phép. Dới ngòi bút của Xuân Hơng, những bài thơ Đ- ờng luật hồn nhiên, tơi trẻ không khác gì cô gái Xuân Hơng. Việc xuất hiện câu thơ lục ngôn trong một số bài thơ Nôm truyền tụng không phải là không có:
- Tình cảnh ấy, nớc non này (Một cảnh chùa) - Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
(Vịnh s)
- Anh đồ tỉnh, anh đồ say
(Trách Chiêu Hổ I) - Chàng Có ơi ! Chàng Cóc ơi!
(Khóc Tổng Cóc)
Nhng nếu nh câu thơ lục ngôn xuất hiện trong một số bài thơ Nôm Đờng luật của các nhà thơ tiền bối đã có nhiều cách ngắt nhịp khác nhau thì câu thơ lục ngôn trong một số bài thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng đều đợc nhà thơ ngắt nhịp theo một nhịp cố định 3/3 tạo nên sự đối ngẫu giữa hai vế. Điều đó chứng tỏ, về cơ bản câu thơ lục ngôn trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng không phải là nhng câu thơ bình thờng, mà đó là những câu thơ có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện tứ thơ của bài thơ.
Thật vậy, “nhờ có câu khai đề đợc Hồ Xuân Hơng viết theo hình thức tiểu
đối (Tình cảnh ấy, nớc non này) cho nên bức tranh phong cảnh trong bài thơ
“Một cảnh chùa” càng nỗi bật vẻ đẹp của một nơi sơn thuỷ hữu tình. Nhờ tứ thơ
đợc nêu lên từ đầu trong câu khai đề viết theo hình thức tiểu đối (Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta), cho nên hình tợng nhà tu hành trong bài “Vịnh s” của Hồ Xuân Hơng hiện lên rất rõ những nét chân dung về một ngời đàn ông sống trái tự nhiên; trên từng bộ phận thân thể và trong sinh hoạt của nhà s ở chốn tu hành có nhiều mâu thuẫn, đầy những sự kệch cỡm. Nhờ tứ thơ đợc nêu lên khá rõ trong câu khai đề theo hình thức tiểu đối (Anh đồ tỉnh, anh đồ say) mà hình tợng Chiêu Hổ trong bài thơ thất ngôn tuyệt cú “Trách Chiêu Hổ I” hiện lên là một nhân vật
đàn ông tỉnh – say không rõ ràng, có những hành vi bỉ ổi, cử chỉ bờm xơm, mất t cách”[20,tr176].
ở bài thơ thất ngôn tuyệt cú “Khóc Tổng Cóc”, câu khai đề cũng đợc Hồ Xuân Hơng ngắt theo nhịp 3/3 nhng không theo hình thức tiểu đối, mà lại đợc nhà thơ diễn đạt dới hình thức điệp ngữ (Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!). Vì vậy, ngay từ câu khai đề, nhịp thơ trở nên dồn dập, giọng thơ trở nên day dứt, hơi thơ trở nên khẩn trơng, thể hiện chính xác nỗi thơng tiếc xót đau của ngời vợ trớc cái chết của ngời chồng là Tổng Cóc.
Qua khảo sát những bài thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng có câu thơ
lục ngôn, dới góc độ thể loại về cơ bản đó vẫn là những bài thơ thất ngôn Đờng luật theo kiểu thơ Đờng truyền thống. Đây hẳn không phải là sự vô tình, Lã Nhâm Thìn phỏng đoán: “Phải chăng là một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, một ý thức khẳng định mình bằng cách khác Trung Quốc” [16,tr206].
Thơ Hồ Xuân Hơng bao giờ cũng ngầm chứa một sự trỗ dậy, ngầm chứa sự mạnh mẽ, khoẻ khoắn: chân xoạc, tay với, xiên ngang, đâm toạc...Đó là những
động từ mạnh đi với biện pháp đối tạo cho câu thơ có nhịp, có khúc, nh nhảy, nh bay. Hồ Xuân Hơng thờng sử dụng những vần mà ngời ta cho là “tử vận” (vần chết) và “độc vận” (chỉ có một vần). Nhng cách gieo vần này lại tạo cho thơ Hồ Xuân Hơng một cách không lẫn vào đâu đợc, không ai bắt chớc đợc : tẻo-tèo-teo, hõm-hòm-hom, teo-neo-đèo-rêu-léo-đeo, mõm mòm-lòm lom...Đó là những vần thơ khó thành công nhng tác giả đã vận dụng rất khéo léo. Cái khoẻ khoắn, độc
đáo của nhịp, của cách gieo vần tạo sức sống cho cả hồn thơ.
ở thể thơ thất ngôn bát cú Đờng luật gồm 27 bài, Hồ Xuân Hơng đã đảm bảo sự gắn bó chặt chẽ với nhau về âm luật giữa các câu thơ. Tuy nhiên, có một số bài viết theo thể thất ngôn bát cú bị thất niêm, thất luật là do dụng ý nghệ thuật của nhà thơ (Bỡn bà lang khóc chồng, Chùa Quán Sứ, Đèo Ba Dội, Vịnh s...).
Mỗi bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hơng viết theo thể thất ngôn bát cú
đều đảm bảo luật thơ về vần (8 câu 5 vần); và do vậy nên rất giàu nhạc tính. Nghệ thuật đối trong thơ Hồ Xuân Hơng rất chặt chẽ, cân xứng cả về thanh lẫn ý làm cho ý câu thơ càng nổi bật, tiết tấu trong câu thơ càng trở nên linh hoạt, âm hởng câu thơ càng mạnh mẽ. Trong những bài thơ này thì cách ngắt nhịp chủ yếu là nhịp hai (21 bài) và nhịp ba (6 bài). Xét ở góc độ bố cục thì thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng viết theo thể thất ngôn bát cú đợc tác giả trình bày bằng bố cục truyền thống của thơ Đờng luật, có rất nhiều bài đạt giá trị cổ điển Đờng thi, có rất nhiều liên thơ trở thành những “thần cú”, những “giai tác”.
Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng viết theo thể thất ngôn tuyệt cú gồm 14 bài, thuộc dạng thơ “4 câu 3 vần”. Các bài thơ của Hồ Xuân Hơng đảm bảo chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối, tiết tấu, bố cục, chỉ có 2 bài bị thất niêm, thất luật (Con ốc nhồi, Khóc Tổng Cóc). Mặc dù có sự thất niêm, thất luật nh vậy, nhng nhờ cách cấu tứ, cách hiệp vần của bài thơ, tiếng nói trữ tình đằm thắm và chân chất của Hồ Xuân Hơng ở đây vẫn không hề bị rối rắm, sức cuốn hút của bài thơ
đối với ngời đọc vẫn không vì thế mà kém đi, trái lại càng tăng thêm sự chú ý của mọi ngời.
Dới góc nhìn loại hình thể loại, nội dung của hình thức thể loại trong thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng đựơc chia thành thể loại đạo đức thế sự (12 bài) và thể loại đời t (8 bài). Giọng điệu trong những bài thơ thuộc thể loại đạo đức thế sự vừa tràn đầy chất phản kháng, thơng xót, thông cảm đối với những nạn nhân- những ngời phụ nữ bất hạnh; vừa sục sôi, mạnh mẽ, thẳng thắn, tiếng nói châm biếm, tố cáo, chế giễu bọn thống trị trong xã hội phong kiến đơng thời. ở thể loại
đời t là “sự giãi bày nhắn nhủ, nhỏ nhẹ, là sự đồng cảm, sẻ chia, xúc động, là nụ cời và nớc mắt của một ngời phụ nữ; là tiếng thơ vừa trào tiếu vừa cảm thán của một hồn thơ đầy cá tính” [20,tr202].
Việc nghiên cứu loại hình thể loại không chỉ dừng lại ở việc phân tích nội dung của thể loại, mà còn phải đề cập đến cấu trúc thể loại. Tìm hiểu cấu trúc thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng có nghĩa là miêu tả những đặc trng thể loại (chủ thể của thế giới nghệ thuật, hình thức ngôn từ biểu hiện, cấu tạo hình tợng nhân vật, chức năng xã hội và phơng thức tiếp nhận tác phẩm). Trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng chủ thể chính là nhà thơ, là ngời tự thể hiện cảm xúc, bộc lộ nội tâm, ý nghĩ của mình. Xét theo hình thức ngôn ngữ ở bình diện thể loại thì thơ
bà bên cạnh những đặc trng truyền thống lại có những đặc trng phi truyền thống, ngôn ngữ vừa có tính bác học vừa có tính bình dân, một ngôn ngữ đa giọng điệu về cấu tạo hình tợng nhân vật và việc miêu tả sự kiện ngoại cảnh cũng hết sức độc
đáo, đa dạng. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng có hai hệ thống nhân vật chính: nhân vật đợc tác giả đề cao (ngời phụ nữ) và nhân vật bị tác giả phê phán (vua, chúa, hiền nhân, quân tử, s sãi, học trò dốt...). Sự kiện đợc đề cập miêu tả là những sự kiện đời t, thờng nhật, liên quan đến đời sống tình cảm cá nhân con ng- ời. Do đó, “dù hình thức thì vẫn là thơ luật Đờng, song thể loại thơ Nôm của Hồ Xuân Hơng nh là thành quả một sự kết tinh sắc sảo giữa văn chơng bác học và văn chơng bình dân. Vì vậy, cấu trúc thể loại thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân H-
ơng càng trở nên vừa lạ, vừa quen đối với bạn đọc”[20,tr206]. Đứng ở góc độ chức năng xã hội và phơng thức tiếp nhận để tìm hiểu cấu trúc thể loại thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng thì những bài thơ Nôm Đờng luật này đều nhằm bộc lộ tiếng nói trữ tình của nhà thơ đối với thế giới tự nhiên và con ngời Việt Nam ở giai đoạn lịch sử cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX.
Hồ Xuân Hơng là ngời tiếp thu rất nhiều và sâu sắc tinh hoa văn hoá dân gian. Nó tạo cho Hồ Xuân Hơng một phong cách riêng nhng cũng đem bà trở về gần với văn hóa dân gian hơn. Loại thơ Nôm Đòng luật là một thể loại bác học nhng Hồ Xuân Hơng lại đa vào trong thơ một nội dung hết sức dân dã, nôm na.
Đặc biệt, bà đã vận dụng một cách sáng tạo các thành ngữ, tục ngữ. Điều đó đã
góp phần làm nên một Hồ Xuân Hơng với phong cách bình dân giản dị.