Khái quát về điều kiện hình thành chế độ khí hậu gió mùa nhiệt đới Việt Nam

Một phần của tài liệu biển đông. t.1, khái quát về biển đông (Trang 146 - 151)

I. CHẾ ĐỘ KHÍ HẬU KHU VỰC BIỂN ĐÔNG

1. Khái quát về điều kiện hình thành chế độ khí hậu gió mùa nhiệt đới Việt Nam

Lãnh thổ Việt Nam hẹp ngang chạy dài theo phương kinh tuyến thuộc khu vực nội chí tuyến bắc Bán cầu, nằm ở tận cùng phía đông nam của lục địa Châu Á, một đại lục rộng nhất thế giới, tiếp giáp hai mặt với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là những điều kiện tự nhiên hình thành khí hậu Việt Nam với nhiều nét đặc biệt, không giống bất kỳ một nơi nào trên thế giới. Những yếu tố bức xạ Mặt trời nội chí tuyến, sự tác động mạnh mẽ của hoàn lưu gió mùa đổi hướng và đối lập về tính chất giữa hai mùa trong năm, cùng với các điều kiện địa hình đã dẫn đến hệ quả là chế độ khí hậu, thời tiết nước ta rất khác thường. Chế độ bức xạ Mặt trời nội chí tuyến với hai lần thiên đỉnh trong năm (bảng 8), kết hợp với hoàn lưu tín phong thường xuyên thổi ổn định một hướng từ chí tuyến về xích đạo là những điều kiện chi phối chủ yếu của thời tiết các vùng nhiệt đới nói chung và riêng ở khu vực Việt Nam. Những điều kiện đó không còn là căn bản và thuần nhất mà thay vào là hoàn lưu gió mùa với những trung tâm tác động theo cơ chế hoàn toàn khác do các đặc thù riêng về địa lý khu vực. Hoàn lưu gió mùa lấn át mạnh mẽ hoàn lưu tín phong, tín phong chỉ còn khả năng tác động một phần vào hoàn lưu gió mùa, dẫn đến việc hình thành một cơ chế hoàn lưu có tính địa phương và tính chất chung của hành tinh, trong đó những ranh giới có ý nghĩa địa đới đã bị phai nhạt.

Gió mùa như một hệ quả của sự tương phản về nhiệt chế giữa lục địa - đại dương và biển, thể hiện mối quan hệ Mặt trời - Trái đất với một sự chậm pha nào đó, không hoàn toàn phù hợp với điều kiện Châu Á. Mặc dù về hình thức cũng vẫn là sự thay đổi theo mùa của gió lục địa và gió đại dương, đối lập về hướng và về những thuộc tính nhiệt ẩm đặc trưng, song trên quy mô rộng lớn của khu vực Châu Á gió mùa trải rộng từ Ấn Độ Dương đến Philippin, từ Sibiri - Nhật Bản đến xích đạo, đã hình thành cả một cơ chế phức tạp, kết hợp nhiều trung tâm khí áp tác động khác nhau, chi phối nhiều hệ thống gió mùa khác nhau.

Bảng 8: Ngày mặt trời thiên đỉnh qua các vĩ độ chí tuyến

Vĩ độ Lần thứ nhất Lần thứ hai 50 N

100 N 150 N 200 N

3 tháng 4

17 tháng 4 2 tháng 5 21 tháng 5

10 tháng 9 28 tháng 8 12 tháng 8 24 tháng 7

Dựa vào đặc điểm của các trung tâm khí áp tác động và căn cứ vào những hệ quả thời tiết - khí hậu riêng biệt, có thể phân biệt ra 3 hệ thống gió mùa Châu Á (khống chế những khu vực địa lý khác nhau) gây tác động đến chế độ khí hậu gió mùa Việt Nam (hình 11 và 12).

Hệ thống Đông Bắc Á bao trùm các vùng Viễn Đông, Liên Bang Nga, Nhật Bản, Triều Tiên, có gió mùa đông lạnh, khô, mang tính lục địa thuần tuý. Do khối không khí cực đới từ rìa phía đông cao áp Xibia thổi theo hướng tây bắc về phía biển Nhật Bản tạo ra mùa đông giá rét không mưa. Gió mùa hạ có hướng đông nam đối lập với gió mùa đông, bản chất là không khí nhiệt đới từ rìa tây cao áp Thái Bình Dương tương đối nóng ẩm. Gió mùa hạ đem lại mưa không nhiều cho những vùng duyên hải song là hệ thống gió mùa khá ổn định về nhịp độ diễn biến và về tính chất.

Hệ thống Nam Á, khống chế khu vực Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Malaysia. Gió mùa đông chi phối bởi trung tâm cao áp Turkistan kết hợp với khí lưu tây ôn đới hạ thấp cho tính chất khí hậu lục địa ôn đới, nhiệt độ và độ ẩm khá thấp, nhưng không thấp bằng khối khí cực đới Xibia. Gió mùa hạ là gió tín phong nam bán cầu vượt xích đạo lên khá nóng và ẩm. Nét đối lập rõ nét giữa hai mùa là độ ẩm.

Hệ thống Đông Nam Á ảnh hưởng đến khu vực Philippin, Malaysia và vùng nội chí tuyến tây Thái Bình Dương, chính là tín phong bắc bán cầu từ rìa phía nam cao áp thổi về xích đạo, bản chất là khối không khí biển nhiệt đới không khí lạnh và khá ổn định. Gió mùa hạ thì ngược lại, có nguồn gốc từ nam Thái Bình Dương là khối không khí ẩm và mát của biển, chỉ đối lập với gió mùa đông về hướng. Dưới ảnh hưởng của hội tụ nhiệt đới và bão gió mùa, mùa hạ kém ổn định và mang lại nhiều mưa trong khu vực khống chế.

Như vậy, ba hệ thống gió mùa với ba cơ chế hoạt động riêng biệt đã kết hợp tạo thành hoàn lưu độc đáo của gió mùa Châu Á. Trong khi đó lãnh thổ Việt Nam không hoàn toàn nằm trong phạm vi khống chế của một hệ thống nào trong ba hệ thống gió mùa nói trên. Do vị trí có tính chuyển tiếp về mặt địa lý đã khiến cho khí hậu nước ta khi thì chịu ảnh hưởng của hệ thống gió này, khi thì chịu ảnh hưởng của hệ thống gió kia khiến chế độ gió mùa ở Việt Nam trở nên rất phức tạp.

Gió mùa đông có thể bị chi phối bởi trung tâm cao áp Xibia, nhưng cũng có thể là hệ quả phát triển của khí lưu tây ôn đới hay tín phong Thái Bình Dương. Cũng như vậy, gió mùa hạ vừa chịu ảnh hưởng của khối khí bắc Ấn Độ Dương, vừa chịu ảnh hưởng của luồng không khí từ nam Thái Bình Dương và có thể cả khối không khí tín phong bắc bán cầu xâm nhập vào. Kết quả là khí hậu Việt Nam không còn thuần tuý tính nhiệt đới theo quy luật địa đới vùng nội chí tuyến.

Đối chiếu với những tiêu chuẩn khí hậu của vùng nội chí tuyến (khí hậu nhiệt đới), khí hậu Việt Nam có nền nhiệt độ thấp hơn và lượng mưa ẩm cao hơn, sự phân hoá giữa hai mùa trong năm rất rõ về chế độ nhiệt ở phía bắc và chế độ mưa - ẩm ở phía nam Việt Nam.

Do vậy, cần phải hiểu rõ bản chất phức tạp của những điều kiện hình thành này, vừa thể hiện tính địa đới theo vĩ tuyến do những nhân tố thiên văn chi phối vừa mang tính địa đới theo kinh tuyến liên quan với những yếu tố hành tinh, để thấy được ý nghĩa đặc sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa ở khu vực nước ta. Đó là dạng khí hậu có thể xem như là một biến tính của khí hậu nhiệt đới, trong khi nền nhiệt độ cao nói chung của vùng vĩ độ thấp vẫn được duy trì, nhưng do ảnh hưởng của gió mùa quy mô lớn nên có sự phân hoá rõ rệt theo mùa.

Đây là những đặc điểm có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, vì khí hậu là điều kiện thường xuyên của sự tồn tại và phát triển của các quá trình tự nhiên trong sinh giới và cả trong thế giới vô cơ. Chỉ trong những điều

kiện tương đối đồng nhất về mặt khí hậu mới có thể áp dụng những kinh nghiệm sản xuất từ vùng này qua vùng khác, và chỉ trên cơ sở hiểu biết đầy đủ những đặc điểm thuộc về bản chất khí hậu mới thấy rõ được những vấn đề cần phải nghiên cứu giải quyết để dự đoán, dự báo trước những biến động của thời tiết và khí hậu.

nh 11: Bn đồ hình th khí áp trung bình tháng I

nh 12: Bn đồ hình th khí áp trung bình tháng 7

Một phần của tài liệu biển đông. t.1, khái quát về biển đông (Trang 146 - 151)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(316 trang)