KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH CỬA SÔNG Ở VIỆT NAM

Một phần của tài liệu quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên nước (Trang 154 - 159)

CHƯƠNG V. DÒNG CHẢY VÙNG CỬA SÔNG CHỊU ẢNH HƯỞNG TRIỀU

II. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH CỬA SÔNG Ở VIỆT NAM

Trong suốt hơn 3000 km bờ biển, cứ trung bình 20 km chúng ta lại có một cửa sông chịu ảnh hưởng thủy triều. Chính các cửa sông này đã làm cho dải bờ biển nước ta càng sống động hơn. Ở đó luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giành giật giữa đất liền và biển cả. Trải qua những tháng năm dâu biển, có lúc biển tiến có khi biển lùi… Trong vài chục năm trở lại đây hoạt động công nghiệp, quá trình đô thị

Hình 5.1:

Cửa sông hình tam giác châu

Hình 5.2:

Cửa sông hình loa

hóa gia tăng, sự can thiệp của con người đến cửa biển càng mãnh liệt hơn và cuối cùng đã làm cho môi trường biển nói chung và cửa biển nói riêng biến đổi phức tạp.

Sự phân bố các cửa sông ở Việt Nam về mặt hình dạng như có một sự sắp xếp đối xứng tự nhiên. Ở Nam bộ cũng có một cặp cửa sông lớn có hai dạng hình loa và hình tam giác châu. Bắc bộ cũng một cặp hình loa và hình tam giác châu như thế.

Các cửa sông hình loa của hai miền đất nước thường là nơi tập trung những hoạt động giao thông và du lịch nhộn nhịp. Còn các cửa sông có dạng hình tam giác châu đều là những vựa lúa lớn của đất nước.

1. Các cửa sông có dạng hình loa ở Việt Nam A. Các cửa sông đổ vào vịnh Hạ Long

Nằm ở rìa đồng bằng Bắc Bộ, đỉnh ở gần Kinh Môn, đáy từ Cát Bà sang bán đảo Đồ Sơn, ranh giới ngoài nằm trùng đường đẳng sâu h = 6,0 mét.

Các cửa sông chính trong vùng là Lạch Huyện (sông Chanh), cửa Nam Triệu (sông Bạch Đằng), cửa Cấm (sông Cấm) (sông Cấm năm 1983 đã bị bịt lại bằng đập Đình Vũ), cửa sông Lạch Tray (sông Lạch Tray).

Chế độ thủy triều vùng này là nhật triều. Biên độ triều lớn nhất đạt đến ∆H = 4,5m.

Tốc độ trung bình dòng triều Vg = 30 ÷ 50 cm/s, cực đại Vmax = 150 ÷ 180 cm/s.

Chênh lệch giữa thời gian triều lên và xuống thường từ 1÷2 giờ. Sóng triều ngoài vùng cửa sông có khi hơn 3m, phía trong cửa sông thường là 1,0m. Độ mặn vùng cửa sông giao động S ≈ 5 ÷ 20%o. Ảnh hưởng độ mặn lên đến 58 km cách bờ biển.

Vùng cửa sông có cấu trúc nửa kín - đảo Cát Bà chắn phía Đông Bắc, bán đảo Đồ Sơn chắn phía Tây Nam. Còn các hệ đảo cát như Phù Long, Long Vũ, Cát Hải…

chắn ở vùng cửa sông… tạo ra một hệ thống lạch triều dày đặc.

Cách đây 7÷10 thế kỷ, vùng cửa sông này là một bộ phận rìa của hệ thống sông Hồng. Từ đó đến nay, do biển lấn vùng cửa bị ngập trong điều kiện triều mạnh lên, bồi tích kém nên đã chuyển sang cấu trúc vùng cửa sông hình cái loa.

Có thể nói đây là trung tâm giao thông thủy lớn nhất miền Bắc. Cảng Hải Phòng nằm trên bờ phải sông Cấm được xây dựng từ năm 1876. Từ 1963 đến 1981 cảng được xây dựng lại để trở thành cảng quốc tế có thể tiếp nhận tàu có trọng tải trên 10.000 DWT… Luồng tàu chạy từ vùng nước sâu vịnh Bắc bộ đến cảng Hải Phòng dài 36 km đi qua bãi cát ngầm ở cửa Nam Triệu, sông Bạch Đằng, qua kênh Đình Vũ (đào từ năm 1911) để đi vào sông Cấm. Từ Hải Phòng, tàu thủy có thể đi về thành phố Hạ Long theo kênh Cái Tráp, vượt ngang đảo Hà Nam, đi qua vịnh Hạ Long. Từ Hải Phòng đi Hà Nội theo tuyến sông Đuống hoặc tuyến sông Luộc.

Từ Hải Phòng có tuyến đường biển đi vào Nam và vượt đại dương ra thế giới.

Trở ngại lớn nhất hiện nay là sự bồi lắp nghiêm trọng ở đoạn luồng cửa Nam Triệu. Hiện phải thường xuyên nạo vét để duy trì luồn lạch cho tàu 5000 ÷ 7000 DWT đi lại, còn tàu có trọng tải 10.000 DWT phải chuyển tải từ phao số “0”.

Các cửa sông đổ vào vịnh Gành Rái

Vịnh Gành Rái là một vịnh nông có độ sâu biến đổi từ vài mét đến 32 mét.

- Phía Đông vịnh giáp thành phố Vũng Tàu - Phía Tây giáp huyện Cần Giờ

- Phía Bắc giáp đảo Đông Sơn

- Cửa ra biển Đông ở phía Nam của vịnh.

Thủy triều ở vịnh Gành Rái thuộc chế độ bán nhật triều không đều, biên độ triều tương đối lớn.

Mực nước triều cao nhất ở vùng này thường trùng hợp với những tháng xảy ra gió mùa Tây Nam (tháng 6 - 7 - 8).

Dòng triều trong khu vực Gành Rái có tốc độ khá mạnh, có thể đạt Vmax = 1.0 ÷ 2,0 m/giaây.

Vịnh Gành Rái có bốn cửa sông đổ vào:

- Sông Dinh ở phía Đông (nơi tập trung nhiều cảng dịch vụ như dầu khí Vũng Tàu).

- Cửa sông ngã bảy của sông Lòng Tàu ở phía Tây hiện là cửa ngõ của lòng tàu dưới 18.000 DWT vào cảng Sài Gòn.

- Cửa Cái Mép ở phía bắc là cửa ngõ của cảng nước sâu Thị Vải.

- Phía Nam có cửa Soài Rạp của sông Đồng Nai. Cửa Soài Rạp đang được nghiên cứu cải tạo để tàu trên 20.000 DWT vào cụm cảng Sài Gòn.

Có thể nói vùng cửa sông này vốn có một điều kiện tự nhiên thuận lợi, là trung tâm giao thông vận tải lớn nhất nước ta, đang được đầu tư để hiện đại hóa.

Đây cũng là vùng có nhiều cửa sông gây ô nhiễm nguồn nước đáng lo ngại nhất.

2. Cửa sông hình tam giác châu (Delta) A. Cửa sông Hồng

Sau khi nhập tại tại ngã ba Việt Trì (của sông Đà, sông Lô, sông Thao), sông Hồng lại chia ra nhiều chi lưu để thoát nước ra biển. Trong đó có bốn cửa chính là:

- Cửa Trà Lý (sông Trà Lý)

- Cửa Ba Lạt (lạch chính của sông Hồng) - Cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ)

- Cửa Đáy (sông Đáy và sông Đào)

Vùng hạ lưu châu thổ sông Hồng bao gồm một vùng duyên hải chạy dài từ phía Nam cửa sông Thái Bình đến tận Nga Sơn và ăn sâu vào đất liền đến tận Hải Dương, Hưng Yên và Nam Định… Có thể nói đây là một vùng phù sa trẻ nhất của vùng hạ lưu sông Hồng mà quá trình hình thành đã có lúc biển tiến cũng có khi biển lùi.

Phù sa sông Hồng đổ ra cửa Ba Lạt và phù sa sông Thái Bình đổ ra cửa Thái Bình dưới tác động của dòng hải lưu ven bờ đã hình thành một vùng bồi tụ khá lớn theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Tốc độ phát triển của vùng bồi tụ này rất nhanh (100m /năm) (sông Mississipi Bắc Mỹ 120m /năm). Diện tích các bãi bồi tính từ Ninh Bình đến Nam Đồ Sơn ước tính 130 km2. Do điều kiện địa hình và tác dụng của sóng biển nên xen lẫn giữa vùng bồi tụ rộng lớn vẫn có nơi bị xói mòn (chênh lệch thủy triều ở đây không lớn lắm ∆H ≈ 1.90 ÷ 2.40 m nhưng độ cao sóng rất lớn, ví dụ vùng Văn Lý h ≈ 4.50 m, vì vậy hiện tượng xói mòn cục bộ vẫn luôn diễn ra).

Trong bốn cửa của hệ thống sông Hồng thì cửa Ba Lạt là một cửa sông mang dạng delta điển hình nhất, trong đó vai trò phù sa sông luôn chiếm vị trí quan trọng nhaát.

B. Cửa sông Mekong

Sông Mekong chảy đến Kratie (Campuchia) coi như đỉnh tam giác châu, với tổng lượng lũ là 400 tỷ m3.

- Khoảng 10% tổng lượng lũ từ thượng lưu được tràn qua biên giới Việt Nam – Campuchia.

- 15% tổng lượng lũ đổ về Châu Đốc (sông Hậu).

- 75% tổng lượng lũ đổ về Tân Châu (sông Tiền).

Chênh lệch mực nước lũ giữa Tân Châu và Châu Đốc khá lớn ∆H ≈ 40 cm. Do đó từ Vàm Nao trở lên (sông Vàm Nao nối liền sông Tiền và sông Hậu) khả năng chia nước từ sông Tiền sang sông Hậu khá lớn. Việc chia nước đó được thực hiện qua kênh Tân An và Vĩnh An, đặc biệt qua kênh Tân An ngày càng nhiều hơn (Tân An (kênh Tân Châu) ở phía trên còn Vĩnh An nối Tân Châu và Châu Đốc ở phía dưới).

- Lượng chia nước ở phía trên từ Tân An trở lên rất lớn (gần 7%).

- Vàm Nao chia nước sông Tiền sang sông Hậu đạt đến 22%.

Nhờ việc chia nước của các kênh đó mà lượng nước sông Tiền và sông Hậu sau kênh Vàm Nao xấp xỉ bằng nhau.

Nước sông Tiền chảy qua kênh Đồng Tiến gặp sông Vàm Cỏ Tây rồi đổ ra bieồn.

Lượng nước thoát ra Vàm Cỏ Tây tùy theo năm có triều lớn hoặc bé mà có tổng lượng nước tiêu ra biển chiếm từ 2,5% ÷ 3,0% tổng lượng từ sông Mekong.

- Hệ số uốn khúc sông Tiền là 1,15, nhiều đoạn sông bị sạt lở nghiêm trọng, có những hố xói sâu hơn 30 m.

- Hệ số uốn khúc sông Hậu là 1,02; điều kiện dẫn nước thuận lợi, ít bị sạt lở.

- Hệ số uốn khúc sông Vàm Cỏ Tây là 1,25, lòng dẫn sâu ít bị sạt lở nhưng khả năng dẫn nước kém, nếu cắt thẳng thì dễ thoát lũ hơn nhưng mặn cũng dễ xâm nhập sâu hơn .

Vàm Nao từ một con kênh nhỏ trải qua một thế kỷ đã phát triển một cách mạnh mẽ, lòng sông mở rộng như một con sông lớn với độ rộng từ 500 đến 800m.

Kênh Tân An (Tân Châu) chỉ mới được mở rộng trong vòng 20 năm trở lại ủaõy.

Điều này phù hợp với quá trình phát triển của tam giác châu lưu vực sông Cửu Long, khi các cửa sông cổ xưa được chuyển dần từ phía Đồng Nai về đến vị trí như hieọn nay.

Lòng dẫn sông Hậu trùng với một đứt gãy kiến tạo chính tương đối thẳng và khá ổn định. Tăng thêm lượng nước về cho sông Hậu sẽ có lợi về mặt thoát lũ nhưng kéo theo là việc xói lở và mở rộng lòng sông. Điều này cũng có nghĩa là làm cho sông Tiền chóng thoái hóa, các cửa sông chóng bị bồi lấp, sinh thái vùng hạ du sẽ diễn biến phức tạp.

Hàng năm về mùa lũ triều ở biển Đông (BNTKĐ) và cả ở miền Tây (NTKĐ) liên tục tăng từ tháng 7 ÷ 11 (cả về biên độ lẫn trị số trung bình).

Đỉnh lũ thường rơi vào tháng 10, đó là lúc triều cường. Triều cao và rất cao như năm 1994. Nếu gặp phải lũ lớn thì càng làm cho khả năng thoát lũ giảm yếu một cách rõ rệt, từ đó dẫn đến việc bồi tụ vùng cửa sông. Trong lịch sử, quá trình ấy đã từng xảy ra và cuối cùng mới tạo nên tam giác châu như ngày nay.

Triều cao gặp lũ nhỏ, phạm vi bị ngập có thể từ 1,2 ÷ 1,4 triệu ha.

Triều cao gặp lũ lớn, phạm vi ngập có thể từ 1,7 ÷ 1,8 triệu ha, thời gian bị ngập kéo dài từ 3 ÷ 6 tháng và độ sâu ngập lụt có thể từ 0,5 ÷ 4,0 mét

Khác với cửa sông Hồng, cửa sông Mekong không có đảo chắn ở xa bờ mà tồn tại những đảo lớn nhỏ ở ngay trong các cửa sông… Ví dụ tỉnh Bến Tre là do cù

lao Bảo và cù lao Minh hợp lại mà thành, có sông Hàm Luông chảy ở giữa… Các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc là một phần của tỉnh Long Xuyên cũ chỉ là một cù lao cực lớn nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.

3. Cửa sông bãi ngang miền Trung

Dọc theo các tỉnh duyên hải miền Trung đều có các cửa sông thuộc dạng bãi ngang do địa hình núi sát biển nên mỗi con sông chỉ có một cửa sông không địa hình che chắn như núi, đồi.

Các cửa sông miền Trung đổ ra biển có chế độ triều chuyển tiếp từ nhật triều không đều (NTKĐ) đến bán nhật triều không đều (BNTKĐ). Biên độ triều giảm dần, đạt đến cực tiểu (∆H ≈ 0.5m) tại cửa Thuận An rồi lại tăng dần.

Rõ ràng ở miền Trung yếu tố thủy triều không đóng vai trò to lớn trong quá trình diễn biến cửa sông bằng tác động của yếu tố sóng biển. Đây là vùng hoạt động phức của các loại gió mùa và các cơn bão ở miền Đông. Các dòng hải lưu ven bờ do sóng là các yếu tố góp phần tạo thành các dọi cát ngầm ở cửa sông.

Nhìn chung, đường viền các cửa sông tạo với đường bờ một vệt gần như thẳng, không lồi ra như dạng delta mà cũng không lõm vào như kiểu Estuary.

Các cửa sông ở miền Trung thường được ngăn bởi những bãi cồn cát cao trên 10m, thậm chí có nơi tới 50 ÷ 60m như ở Quảng Bình.

Một số nơi trong những dải cồn cát đó là bầu nước ngọt hoặc những đầm, phá (nước lợ) mà nổi tiếng là hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ở Quảng Trị, Thừa Thiên. Các cửa sông miền Trung đều cạn và ít ổn định, giao thông thủy gặp nhiều khó khăn.

Một phần của tài liệu quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên nước (Trang 154 - 159)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(210 trang)