CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CHẤT LƯỢNG CUỘC
2.2. Th ực trạng định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên
2.2.3. M ột số khó khăn của nữ giảng viên trong việc thực hiện định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình
Để thêm phần phong phú cho thực trạng ĐHGT CLCSGĐ của nữ GV, bên cạnh việc nghiên cứu ĐHGT CLCSGĐ của họ, đề tài còn tiếp tục tìm hiểu về những khó khăn của các nữ GV trong việc thực hiện những định hướng này trong đời sống thực tế. Đề tài đã đưa ra hai câu hỏi mở để thu thập ý kiến của các nữ GV về những khó khăn họ gặp phải khi thực hiện ĐHGT CLCSGĐ và những đề xuất của họ để nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình của nữ GV. Kết quả thu về 112 ý kiến, các câu trả lời được phân loại theo nội dung và tổng hợp thành bảng 2.17 sau đây:
Bảng 2.17: Một số khó khăn của nữ GV trong việc thực hiện ĐHGT CLCSGĐ
STT Các khó khăn Tần số Tỉ lệ %
1 Thu nhập thấp, điều kiện kinh tế chưa đảm bảo 78 69,6
2 Thiếu thời gian cho gia đình 56 50,0
3 Áp lực công việc, công việc nhiều 20 17,9
4 Đòi hỏi nâng cao chuyên môn 10 8,93
5 Thiếu sự ủng hộ, chia sẻ từ bạn đời 7 6,25
6 Sự nhìn nhận tiêu cực của người khác về nữ GV 9 8,04
7 Tuổi tác, sức khỏe không đảm bảo 5 4,46
8 Bố trí thời gian làm việc, giảng dạy không hợp lý 4 3,57 9 Sự phát triển quá nhanh của công nghệ tác động
tới gia đình 3 2,68
93
Với những thông tin thu được ở bảng 2.17, có thể thấy các nữ GV có sự thống nhất khá cao khi đề cập tới hai khó khăn lớn nhất trong quá trình thực hiện ĐHGT CLCSGĐ là thu nhập thấp và thiếu thời gian cho gia đình. Mặc dù trong kết quả nghiên cứu về định hướng các giá trị khái quát của CLCSGĐ, các nữ GV có xu hướng nghiêng về các giá trị tinh thần hơn các giá trị vật chất nhưng hiện tại cuộc sống của họ vẫn bị chi phối rất nhiều bởi vấn đề thu nhập. Theo số liệu tổng quan về khách thể nghiên cứu, có 32,5 % nữ GV có thu nhập hàng tháng dưới 4 triệu đồng, 51% có thu nhập từ 4 đến 8 triệu đồng, chỉ có 15,5%
có thu nhập trên 8 triệu đồng. Thu nhập của các nữ GV chủ yếu dựa vào đồng lương giảng viên theo quy định của Nhà nước, do vậy thu nhập tuy ổn định nhưng mức thu nhập vẫn còn tương đối thấp so với mặt bằng chi phí sinh hoạt tại TP.HCM. Một số ý kiến của nữ GV về vấn đề này như sau: “Thu nhập ổn định nhưng chưa cao”, “Lương thấp, chưa đủ trang trải cho cuộc sống gia đình”, “Thu nhập thấp ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống gia đình”... Trong số các đề xuất để nâng cao CLCSGĐ của nữ GV, nhóm ý kiến được nhiều nữ GV đề cập nhiều nhất là các ý kiến về việc tăng thu nhập như: Tăng lương, tăng kinh phí nghiên cứu khoa học (44 ý kiến), tổ chức các hoạt động của nhà trường nhằm tạo điều kiện cho nữ GV nâng cao thu nhập (6 ý kiến), giúp đỡ cho các nữ GV khó khăn về kinh tế…
Điều này thể hiện nhu cầu về việc tăng thu nhập là nhu cầu phổ biến và bức thiết của nhiều nữ GV hiện nay.
Trong phần phỏng vấn sâu, các nữ GV cũng phản ánh về vấn đề thu nhập thấp và còn chỉ ra mối liên hệ giữa vấn đề thu nhập và thiếu thời gian dành cho gia đình: “Công việc giảng dạy ở một trường thì lương quá thấp, phải đi dạy ở nhiều trường, làm thêm thì mới đủ trang trải cho cuộc sống. Mà khi dành thời gian đi làm quá nhiều thì lại không có thời gian chăm sóc gia đình. Nếu thu nhập cao hơn thì mình đã không phải “cày” nhiều thế này, có thời gian ở nhà chăm sóc con, quan tâm tới các thành viên khác trong gia đình nhiều hơn”
(ý kiến của chị Đ.T.L.L, 27 tuổi, đã lập gia đình, GV Đại học Bách khoa TP.HCM). Cũng về vấn đề thời gian, một nữ GV ở khoa Nông học, Đại học Nông Lâm TP.HCM chia sẻ:
“Chọn công việc là giảng viên thì phải chấp nhận thời gian theo đuổi sự nghiệp học hành cũng dài hơn, nên không có nhiều thời gian cho gia đình”. Một số nữ GV khác thì lại phản ánh nguyên nhân thiếu thời gian cho gia đình là vì “Thời gian dành cho công việc quá nhiều, phải đảm nhận nhiều công tác kiêm nhiệm”. Đối với các nữ GV có con nhỏ thì vấn đề thời gian lại càng trở nên bức thiết, vì người mẹ cần phải dành rất nhiều thời gian để
94
chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ con. Bởi vậy, có một số ý kiến bức xúc khi nhà trường bố trí cho nữ GV đang có con nhỏ phải đi dạy vào buổi tối, hoặc thứ 7, Chủ nhật.
Bên cạnh đó, các nữ GV cũng đề cập tới những khó khăn do áp lực về công việc, về đòi hỏi nâng cao trình độ chuyên môn. Những khó khăn này trực tiếp ảnh hưởng đến các nữ GV nhưng cũng gián tiếp ảnh hưởng tới quỹ thời gian của họ dành cho việc phát triển các mối quan hệ hôn nhân và chăm sóc gia đình. Tuy nhiên, nhiều nữ GV cho rằng việc bố trí, sắp xếp thời gian là công việc của cá nhân tự giải quyết, nên bản thân nữ GV cần phải tự học cách quản lý thời gian, sắp xếp công việc hợp lý, khoa học, tăng thời gian dành cho gia đình. Điều này đã được đề cập qua 21 ý kiến khảo sát mở các nữ GV.
Qua những chia sẻ này, có thể thấy rất rõ nữ GV vẫn đang phải cùng lúc gánh vác trách nhiệm với công việc và trách nhiệm với gia đình, nhiều nữ GV có gia đình đang phải rất trăn trở để giải quyết bài toán cân bằng giữa thời gian cho công việc và thời gian cho gia đình. Một số nữ GV đề xuất các biện pháp để chủ động giải quyết vấn đề này như sau: “Tổ chức khoa học công việc ở cơ quan và gia đình, dành nhiều thời gian tổ chức các hoạt động chung cho gia đình”, “Nên thỏa thuận với các thành viên trong gia đình để có thêm thời gian cho bản thân và có kế hoạch cụ thể cho các hoạt động của gia đình, của bản thân”,
“Học cách quản lý thời gian, quản lý căng thẳng, cân bằng giữa nhu cầu phát triển sự nghiệp và phát triển bản thân, giữa công việc và gia đình”... Mặc dù nhiều nữ GV tự xác định việc tự quản lý căng thẳng, tự điều chỉnh thời gian của bản thân là yếu tố cơ bản để giải quyết vấn đề nhưng nhà trường, các cấp lãnh đạo cũng cần có sự hỗ trợ nữ GV thông qua những chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các nữ GV hoặc chú ý trong vấn đề bố trí công việc, đưa ra các yêu cầu phù hợp về phát triển chuyên môn, nhất là đối với các nữ GV đang mang thai hoặc có con nhỏ. Một số nữ GV còn đưa ra ý kiến đề xuất về việc nhà trường, Công đoàn cần phải có những chính sách để động viên, giúp đỡ các nữ GV có điều kiện khó khăn, tạo điều kiện cho các nữ GV phát triển năng lực chuyên môn, chẳng hạn như cho nữ GV có thời gian dài hơn để đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ so với nam GV, ưu tiên cho nữ GV khi có các suất học bổng học tập…
Ngoài các khó khăn chung như trên, các nữ GV còn chia sẻ một số khó khăn do một số yếu tố khách quan khác như sự thiếu chia sẻ, thiếu cảm thông của người bạn đời, một số quan niệm tiêu cực của người khác về nữ GV hay những sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ, những vấn đề xã hội như lạm phát, vệ sinh an toàn thực phẩm… cũng làm cản trở nữ GV trong việc thực hiện ĐHGT CLCSGĐ.
95
Cụ thể hơn, đối với các nữ GV chưa lập gia đình, do phải mất nhiều thời gian cho việc học tập, cộng thêm những tiêu chuẩn về người bạn đời thường khá cao và một số quan niệm chưa đúng đắn của xã hội về nữ trí thức nên họ khó tìm được người phù hợp để kết hôn.
Các nữ GV đã lập gia đình thì gặp một số khó khăn do thiếu sự hỗ trợ, chia sẻ của người bạn đời trong công việc gia đình hoặc thiếu sự ủng hộ trong việc phát triển sự nghiệp.
Như đã phân tích ở trên, mặc dù sự bình đẳng giới đã có nhiều tiến triển quan trọng trong xã hội hiện đại nhưng trong thực tế, việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn bị cản trở bởi sự ảnh hưởng của văn hóa truyền thống trong tư tưởng của nhiều người, nên người nữ GV vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi, rất khó tìm được tiếng nói chung giữa vợ chồng trong nhiều vấn đề. Chị N.T.H (31 tuổi, đã lập gia đình, GV Đại học KHXH&NV TP.HCM) cho biết: “Theo tôi, một trong những điều khó khăn nhất của phụ nữ trong việc xây dựng chất lượng cuộc sống gia đình chính là làm thế nào để hai vợ chồng có được tiếng nói chung trong định hướng và thực hiện định hướng về cuộc sống gia đình”. Những băn khoăn này của các nữ GV cần được chia sẻ nhiều hơn đến nam giới để nam giới có thể cảm thông, thấu hiểu và ý thức rõ ràng hơn về tầm quan trọng của họ trong việc xây dựng cuộc sống chất lượng gia đình nói chung và trong việc hỗ trợ cho người phụ nữ trong gia đình nói riêng.
Đối với một số nữ GV đang nuôi con, sự phát triển quá nhanh của công nghệ, sự bùng nổ thông tin trên internet với rất nhiều cám dỗ cũng trở thành một trở ngại của họ trong việc giáo dục con cái. Ngoài ra, những vấn đề sức khỏe, tuổi tác cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nữ GV trong việc chăm sóc gia đình hoặc thực hiện những định hướng của mình để nâng cao CLCSGĐ, đặc biệt là các nữ GV trong giai đoạn nuôi con nhỏ hoặc nữ GV đã trên 40 tuổi. Với một số nữ GV đang nuôi con, sự phát triển quá nhanh của công nghệ, sự bùng nổ thông tin trên internet với rất nhiều cám dỗ cũng trở thành một trở ngại của họ trong việc giáo dục con cái. Để giải quyết các vấn đề kể trên, bên cạnh việc tự điều chỉnh bản thân, chăm sóc sức khỏe bản thân, một số nữ GV đề xuất đến nhà trường, Công đoàn tổ chức các buổi sinh hoạt định kỳ để các nữ GV có thể chia sẻ, hỗ trợ nhau, đồng thời được cung cấp thêm một số kiến thức hữu ích về đời sống gia đình, nuôi dạy con cái.
Tóm lại, trong quá trình thực hiện ĐHGT CLCSGĐ, các nữ GV gặp phải một số khó khăn cả về khách quan lẫn chủ quan, nhưng trong đó, hai vấn đề khó khăn nhất là thu nhập thấp và thiếu thời gian cho gia đình. Ngoài ra, các nữ GV ở những nhóm tuổi khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc sống gia đình cũng gặp phải một số khó khăn riêng.
96
Mặc dù nhiều nữ GV đã thể hiện sự chủ động của mình trong việc đưa ra các biện pháp để tự giải quyết các khó khăn kể trên như làm thêm để cải thiện thu nhập, sắp xếp thời gian hợp lý, thỏa thuận với các thành viên gia đình để hỗ trợ, tự điều chỉnh và chăm sóc bản thân…
nhưng họ cũng rất cần có sự hỗ trợ, quan tâm từ phía những thành viên khác trong gia đình, từ phía người bạn đời và những chính sách ưu tiên từ phía nhà trường hay các hoạt động của Công đoàn để từng bước thực hiện được ĐHGT CLCSGĐ của nữ GV.