Đánh giá chất lƣợng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Một phần của tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam - BIDV Từ sơn (Trang 58 - 63)

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – BIDV TỪ SƠN

2.3 Đánh giá chất lƣợng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trong những năm qua, nhận thức được vai trò cũng như tiềm năng của DNVVN, bám sát chủ trương phát triển DNVVN của tỉnh ủy Thành phố Bắc Ninh, chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV Từ Sơn đã chủ động mở rộng vốn cho vay đối với DNVVN một cách hợp lý góp phần tạo điều kiện cho sự phát triển DNVVN, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Kết quả đạt được có ý nghĩa rất lớn đối với cả DNVVN và cả chi nhánh.

2.3.1.1 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Qua phần phân tích thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN ta thấy doanh số cho vay DNVVN luôn tăng cả về giá trị tuyệt đối và tương đối qua các năm.

Chi nhánh đã tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng.

Vốn cho vay của chi nhánh đã đem lại những hiệu quả đầu tư quan trọng cho các DNVVN, cung cấp vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm được vật tư thiết bị máy móc hiện đại, nguyên vật liệu, nâng cao tay nghề của người lao động,... kết quả trên được thể hiện trên các mặt sau:

Thứ nhất: Nguồn vốn cho vay ngắn hạn của chi nhánh đã kịp thời đáp ứng những nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp nhờ có vốn này đã nhanh chóng mua được nguyên vật liệu sản xuất, kịp thời đưa ra những sản phẩm phù hợp với thời vụ tiêu thụ của sản phẩm.

Thang Long University Library

Footer Page 58 of 161.

48

Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tuy không nhiều nhưng nó là nguồn vốn bổ sung nguồn vốn thiếu hụt cho nhu cầu vốn dài hạn của hoạt động SXKD nhằm đầu tư tài sản cố định như mua máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và đã là nguồn vốn cứu cánh quan trọng giúp một số DNVVN thoát khỏi nguy cơ phá sản trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng.

Thứ hai: Thông qua việc đầu tư dài hạn của chi nhánh trình độ kỹ thuật công nghệ của nhiều DNVVN được nâng cao, nhiều dây truyền sản xuất mới, hiện đại như máy đục tự động, dây chuyền phun sơn khử mùi khép kín,... để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, chất liệu hiện đại đáp ứng yêu cầu thị hiếu của khách hàng.

Thứ ba: Thông qua dịch vụ tư vấn cho DNVVN, nhiều doanh nghiệp đã xây dựng được phương án sản xuất tối ưu, kịp thời điều chỉnh với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp được nâng cao, trình độ lập các báo cáo tài chính và trình độ lập dự án đầu tư cũng được nâng cao. Cơ cấu vốn ngày càng được xây dựng hợp lý, chặt chẽ thích ứng với quy mô của doanh nghiệp, không quá lạm dụng vốn vay.

Thứ tƣ: Vốn cho vay của chi nhánh đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho các DNVVN có các hoạt động SXKD hiệu quả, có thu nhập thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho số đông người lao động, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn chế những tiêu cực xã hội.

2.3.1.2 Đối với chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV Từ Sơn Tuy tỷ trọng đầu tư hoạt động cho vay đối với DNVVN chiếm tỷ trọng không lớn nhưng trong tương lai đây là một trong những đối tượng chính mà chi nhánh lựa chọn làm khách hàng tiềm năng. Thông qua việc cho vay vốn với DNVVN, chi nhánh ngân hàng sẽ có được những lợi ích sau:

- Tỷ trọng cho vay đối với DNVVN đang tăng với tốc độ cao. Hoạt động cho vay đối với DNVVN đã tạo ra hiệu quả kinh doanh có lãi cho ngân hàng.

- Rèn luyện cán bộ ngân hàng và có thêm nhiều kinh nghiệm về quản lý điều hành, chống lại những tiêu cực để tự khẳng định mình, đứng vững trong cơ chế thị trường.

- Nguồn vốn cho vay đối với DNVVN phát triển là cơ sở tiền đề cho chi nhánh mở rộng phát triển các dịch vụ kinh doanh hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Như các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn,…

- Mặc dù doanh số cho vay đối với DNVVN còn thấp nhưng đội ngũ cán bộ tín dụng đã không ngừng trau dồi kiến thức, kinh nghiệm để từng bước tạo nên một quy trình cho vay chuyên nghiệp đối với hoạt động cho vay DNVVN trên địa bàn nhằm gây dựng uy tín, lòng tin ở khách hàng.

Footer Page 59 of 161.

49 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1 Hạn chế

- Dư nợ đối với các DNVVN còn chiếm tỉ trọng thấp và thiếu ổn định, còn quá khiêm tốn so với tiềm năng vốn huy động. Số lượng cho vay dự án còn thấp, đặc biệt các dự án trung và dài hạn còn hiếm. Đây là vấn đề nổi cộm trong toàn hệ thống ngân hàng nói chung.

- Công tác thông tin tiếp thị đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đạt được những kết quả cao. Lượng khách hàng là các DNVVN đã thu hút được chưa thực sự nhiều, thậm chí còn đánh mất bạn hàng truyền thống.

- Tỷ lệ nợ quá hạn vẫn ở mức cao, một trong những lý do chính là năng lực cán bộ vẫn còn hạn chế, trong quá trình thẩm định dự án, thẩm định sau cho vay vẫn còn thiếu chính xác. Do đó, có những dự án thiếu khả thi vẫn được vay vốn và có những khách hàng đã có quan hệ tín dụng xấu với chi nhánh hay các ngân hàng khác nhưng vẫn được vay vốn.

2.3.2.2 Nguyên nhân

Nguyên nhân chủ quan

- Hầu hết cán bộ tín dụng đều còn rất trẻ nên thiếu kinh nghiệm trong việc cho vay vốn, chưa bám sát tình hình thực tế, còn có sự e ngại khi cho DNVVN vay vốn. Mặt khác trong quá trình cho vay, một vài cán bộ tín dụng thiếu khả năng phán đoán và có cách nhìn toàn diện về hiệu quả thực tế, toàn diện của phương án vay vốn của doanh nghiệp nêu ra, nên chỉ xoay quanh các tài sản mang tính vật chất đảm bảo trực diện.

- Ngân hàng còn chủ quan trong khi cho vay, thể hiện ở trong một số trường hợp quan niệm cho rằng đối với những khách hàng quen thuộc không cần giám sát chặt chẽ và giải quyết cho vay chỉ dựa vào thông tin do doanh nghiệp đó cung cấp thay cho những số liệu tài chính đáng tin cậy.

- Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng chưa rộng rãi do chưa có sự hiểu biết lẫn nhau nhiều, công tác Marketing chưa phát huy được hết sức mạnh.

- Việc chấp hành thể lệ cho vay còn chưa nghiêm, trong thực hiện quy trình cho vay còn có nhiều sơ hở, phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan của người cán bộ tín dụng: có hợp đồng cho vay trong trường hợp vốn tự có của khách hàng quá nhỏ, tuy nhiên cán bộ thẩm định vẫn quyết định cho vay với số tiền lớn hơn gấp cả chục lần vốn tự có của khách hàng; Nhiều công đoạn trong quy trình cho vay chưa được quan tâm đúng mức như trong xem xét thẩm định dự án cán bộ tín dụng chưa quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh, việc kiểm tra - kiểm soát cho vay còn mang tính

Thang Long University Library

Footer Page 60 of 161.

50

hình thức, đối phó cho đủ thủ tục quy định. Việc kiểm tra sau khi cho vay cũng chưa được chặt chẽ, đã có trường hợp vốn vay ngắn hạn bị sử dụng vào đầu tư xây dựng cơ bản.

Nguyên nhân khách quan

- Nền kinh tế nước ta trong những năm qua phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách khiến cho môi trường kinh doanh và đầu tư bị ảnh hưởng không nhỏ, phần nào gây khó khăn cho hầu hết các doanh nghiệp và ngành ngân hàng nói chung. Về mặt doanh nghiệp, lãi suất cho vay tăng, giá cả đầu vào tăng khiến cho giá sản phẩm tăng, trong khi đó cầu thị trường lại giảm, áp lực đối với doanh nghiệp ngày càng lớn. Về phía ngân hàng, lãi suất huy động tăng mà các khoản vay cũ thì vẫn giữ lãi cho vay cố định, lãi suất cho vay tăng nên các doanh nghiệp cũng rút bớt các dự án kinh doanh.

- Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đã và đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện. Do đó, trong quá trình thực hiện các chủ trương chính sách vẫn còn nhiều bất cập.

- Các doanh nghiệp trong nước chưa được bảo hộ thực sự, dẫn đến tình trạng hàng hoá trong nước sản xuất phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập ngoại và hàng nhập lậu. Bên cạnh đó, không ít doanh nghiệp thành lập chỉ được một thời gian rồi phá sản vì năng lực quản lý kém, chất lượng sản phẩm không thể cạnh tranh nổi với thị trường,…

- Môi trường pháp lý trong hoạt động ngân hàng chưa thực sự đồng bộ, còn tồn tại nhiều thiếu sót. Ví dụ như việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê chưa nghiêm túc, đa số các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của các DNVVN chưa thực hiện theo chế độ kiểm toán bắt buộc, số liệu phản ánh thiếu trụng thực. Vai trò và hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu tranh chấp, tố tụng,… chưa bảo vệ chính đáng quyền lợi của người cho vay, gây ra tâm lý co cụm, dè dặt cho cán bộ tín dụng.

- Ở một số DNVVN năng lực quản lý tài chính, trình độ kỹ thuật yếu kém, SXKD chịu nhiều áp lực cạnh tranh nên sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được, sản xuất đình trệ không có khả năng trả nợ. Mặt khác các DNVVN không có đầy đủ tài liệu báo cáo về tình hình SXKD. Hầu hết các doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện này vì sổ sách kế toán của họ rất đơn giản, không cập nhật, thiếu chính xác. Làm cho việc đánh giá, thẩm định khách hàng gặp nhiều khó khăn.

Footer Page 61 of 161.

51

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 đã làm rõ thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV Từ Sơn. Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV Từ Sơn ta thấy được những mặt đã đạt, đồng thời cũng tìm ra được những vấn đề còn tồn tại, nhận định một số các nguyên nhân gây nên những tồn tại. Ý nghĩa của hoạt động này là góp phần giúp cho ngân hàng tỉnh nắm bắt được những tồn tại trên từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục hữu hiệu, tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn vay tại ngân hàng được thuận lợi hơn, đồng thời đảm bảo chất lượng tốt cho hoạt động cho vay của ngân hàng mình. Đây cũng là cơ sở để khóa luận đưa ra những định hướng hoạt động cho BIDV – Từ Sơn trong thời gian tới và những giải pháp để nâng cao chất lượng cho vay tại chi nhánh đối với DNVVN tại chương 3.

Thang Long University Library

Footer Page 62 of 161.

52

Một phần của tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam - BIDV Từ sơn (Trang 58 - 63)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(77 trang)