CHƯƠNG 5. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
I. Khái niệm, nguyên nhân hình thành và phát triển của đầu tư Quốc tế
1.Khái niệm:
Đầu tư quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó diễn ra việc di chuyển các phương tiện đầu tư giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế trên phạm vi thế giới để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội khác.
1.1. Chủ thể của đầu tư quốc tế:
Cũng tương tự như Quan hệ kinh tế quốc tế, chủ thể của đầu tư quốc tế bao gồm 3 loại chủ thể chính:
(i) Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như: IMF, WT, EC (Uỷ ban Châu Âu), OPEC (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ), các tổ chức thuộc LHQ như UNDP, UNICEP, FAO v.v... (Các tổ chức của LHQ đầu tư dưới hình thức viện trợ).
(ii) Các Nhà nước như: Nhật viện trợ (ODA) cho Việt Nam.
(iii) Các tư nhân: Các công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng 90% đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay.
1.2. Phương tiện đầu tư:
Hay nói cách khác là vốn đầu tư được góp dưới các hình thức như:
(i) Tiền mặt. Có thể là ngoại tệ hay bản tệ tùy theo luật pháp nước nhận đầu tư.
(ii) Tài sản hữu hình. Như các công trình, nhà xưởng, máy móc.
(iii) Tài sản vô hình. Như sức lao động, công nghệ, giá trị quyền sử dụng đất, tài sản vô hình ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế và là thế mạnh của các công ty xuyên quốc gia như nhãn hiệu, sáng chế.
(iv) Tài sản đặc biệt khác. Như vàng bạc, cổ phiếu v.v...
1.3. Mục đích của đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế có 2 mục đích cơ bản:
(i) Lợi nhuận.
(ii) Lợi ích kinh tế xã hội
Để thực hiện hoạt động đầu tư quốc tế thì phải dung hòa được hai mục tiêu này, chủ đầu tư tư nhân thì chạy theo lợi nhuận, nhưng chính phủ nước nhận đầu tư thì quan tâm nhiều hơn đến lợi ích kinh tế xã hội – một dự án có thể mang lại siêu lợi nhuận nhưng gây ô nhiễm môi
trường hay ảnh hưởng tới an ninh quốc phòng thì dự án đó không thể được thông qua một cách dễ dàng.
2.Nguyên nhân hình thành và phát triển của Đầu tư quốc tế.
2.1. Trình độ phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất và phân bố không đều giữa các yếu tố sản xuất. Các yếu tố cơ bản của sản xuất như vốn, công nghệ, lao động và đất đai không được phân bố đều giữa các quốc gia, các nước phát triển có thế mạnh về vốn, công nghệ còn các nước đang phát triển thì có lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên được khai thác không hiệu quả chính vì vậy đầu tư quốc tế chính là đường hướng hữu hiệu để kết hợp tối ưu giữa các nguồn lực của các quốc gia và có thể giảm thiểu được chi phí sản xuất. Các quốc gia mạnh như Mỹ, Nga cũng không thể tự coi là họ có đầy đủ các yếu tố sản xuất phục vụ cho nhu cầu sản xuất của họ nên họ cũng phải trao đổi với các quốc gia khác. Đầu tư quốc tế có thể làm giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu quả sử dụng vốn – chi phí trung bình ở các nước đang phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển; theo nghiên cứu của một nhà kinh tế Trung Quốc thì chi phí lao động trực tiếp theo giờ ở TQ thì chỉ khoảng bằng 5% so với chi phí lao động ở các nước công nghiệp ở cùng trong ngành đó (năm 2001, trong ngành điện tử chi phí lao động trực tiếp theo giờ Đức: 1,8 $/h; Mỹ: 9,6 $/h; Trung Quốc: 0,85 $/h ‘thấp hơn cả Indonexia, Thái Lan, Ấn Độ’ đây cũng là một trong những nguyên nhân lý giải tại sao đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc lại lớn đến như vậy, Trung Quốc thường xuyên là nước đứng thứ nhì có năm đứng thứ nhất thế giới).
2.2. Quá trình toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo nên môi trường thuận lợi cho sự di chuyển các nguồn lực, trong đó có sự đầu tư, giữa các nước. Quá trình toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động đầu tư quốc tế như trên phương diện kỹ thuật mạng lưới viễn thông, thông tin liên lạc rất phát triển làm cho thế giới thu nhỏ lại, các nhà đầu tư tiếp cận tới những thông tin về vốn được nhiều hơn, nhanh hơn trước do vậy họ có thể đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn (vd: việc thay đổi lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ thì có thể tác động tới thị trường chứng khoán ở Nhật, Châu Âu và tác động lan tỏa ra xung quanh. Trên phương diện kinh tế xu hướng tự do hóa đầu tư, quá trình toàn cầu hóa trong lĩnh vực đầu tư thể hiện rất rõ, trước kia các nhà đầu tư quốc tế khi đầu tư ra nước ngoài lo ngại nhất là chính sách quốc hữu hóa, tịch thu tài sản nhưng giờ đây các quốc gia đều cam kết không quốc hữu hóa, không trưng thu tài sản và đưa ra những ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư (giảm thuế, ký kết các hiệp định để phát triển hoạt động đầu tư). Trên bình diện khu vực có những hiệp định đầu tư ở các khu vực như ở khu vực các nước Đông Nam á thì có khu vực đầu tư ASEAN - AIA (ASEAN Investment Area); Trên cấp độ toàn cầu quá trình đầu tư ngày càng thuận lợi bởi những quy định quốc tế như Hiệp định đầu tư liên quan đến thương mại - TRIMs (Trade Related Invesment Measures) của WTO.
2.3. Do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật. Tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật được thể hiện trên hai phương diện:
(i) Yêu cầu đầu tư cho Khoa học kỹ thuật ngày càng lớn. Như trong lĩnh vực viễn thông, hàng không luôn có sự hợp tác quốc tế.
(ii) Vòng đời công nghệ ngày càng ngắn. Ở các nước phát triển có những công nghệ cũ vẫn sử dụng được nhưng họ vẫn liên tục phát minh ra các công nghệ mới do vậy họ mang những công nghệ cũ ra các nước đang phát triển tiến hành đầu tư, góp vốn bằng những công nghệ đó, cả hai bên cùng có lợi – kéo dài tuổi thọ của công nghệ cũ, có điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế của mình, các nước đang phát triển khắc phục được khó khăn về việc thiếu công nghệ trước mắt – Mô hình phát triển Đàn sếu bay ở các nước Châu Á cũng thể hiện cơ cấu đó.
2.4. Đầu tư quốc tế để tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, bành trướng sức mạnh của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Để xuất khẩu được hàng hóa ra thị trường nước ngoài là một vấn đề khó khăn, các DN phải đối mặt với một loạt các hàng rào, rào cản bảo hộ (rào cản thuế quan, phi thuế quan) vậy để tránh các khó khăn đó các DN có thể xây dựng các trung tâm, căn cứ, cơ sở kinh doanh ngay trong lòng thị trường nội địa.
2.5. Đầu tư quốc tế là một hình thức quan trọng nhằm nâng cao uy tín quốc tế và thực hiện các mục đích chính trị xã hội. Mỗi nước tùy theo ưu tiên của mình họ có thể có những chiến lược để đầu tư vào các địa bàn, quốc gia khác nhau, như trong khu vực Châu Á có Nhật Bản là nước đầu tư lớn trực tiếp ra các nước trong khu vực và đây cũng là nhà cung cấp viện trợ ODA cho các nước trong khu vực Châu Á lớn nhất – Nhật Bản muốn tận dụng các nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định ở khu vực, muốn mở rộng ảnh hưởng chính trị của Nhật (nhằm khắc phục hình ảnh xấu sau chiến tranh thế giới thứ II), muốn tăng cường tiếng nói của mình trên chính trường quốc tế. Ở khu vực Châu Mỹ La Tinh thì Mỹ là nước có ảnh hưởng lớn, ở khu vực Châu Phi thì có Pháp (bởi trước kia Pháp có nhiều nước thuộc địa ở châu lục này).
2.6. Đầu tư ra nước ngoài nhằm hạn chế rủi ro. Tuân theo nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh là “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ” - đa dạng hóa các địa bàn đầu tư thì rủi ro sẽ giảm đi, khi có biến động xảy ra ở một khu vực thì chỉ những chi nhánh ở khu vực đó bị ảnh hưởng mà thôi, còn ở các khu vực khác thì không bị ảnh hưởng. Ví dụ: khi giá dầu mỏ tăng thì sẽ gây thiệt hại cho các nước công nghiệp vì đây là các nước sử dụng nhiều dầu, nhiên liệu – nhưng lại có lợi cho các nước xuất khẩu dầu mỏ.
2.7. Tận dụng chính sách thuế. Nhà đầu tư sẽ chọn địa bàn mà có mức thuế ưu đãi với họ, đồng thời họ sẽ tiến hành tối thiểu hóa toàn bộ số thuế trên toàn bộ tập đoàn – VD: một công ty xuyên quốc gia có rất nhiều công ty con để giảm tối thiểu mức thuế của toàn bộ những công ty con này trên thế giới thì họ thực hiện phương thức “chuyển giá” giữa những công ty con trong công ty xuyên quốc gia – Một công ty ở một nước có thuế thu nhập doanh nghiệp là rất cao, công ty đó nhập hàng từ một công ty cũng trong cùng tập đoàn mà mức thuế thu nhập doanh nghiệp rất thấp; vậy khi nhập lô hàng đó họ sẽ có xu hướng tăng giá hàng nhập thì lợi nhuận của công ty, ở nước có thuế thu nhập cao, sẽ bị giảm còn công ty xuất khẩu hàng, ở nước có thuế thu nhập thấp, khi thổi phồng giá bán của lô hàng thì lợi nhuận của công ty sẽ tăng lên – Phần lợi nhuận tăng lên của phía công ty xuất hàng so với phần lợi nhuận giảm đi ở phía công ty nhập hàng sẽ vẫn còn lãi – cộng lại mức thuế phải đóng của toàn bộ tập đoàn đó trên phạm vi thế giới sẽ được lợi nếu họ cố tình thổi phồng giá hàng nhập lên.