CHƯƠNG 5. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
III. Những xu hướng (đặc điểm) của đầu tư quốc tế
1.Đầu tư quốc tế có sự tăng trưởng nhanh và trở thành một hình thức quan trọng của quan hệ kinh tế quốc tế.
- Đầu tư quốc tế tăng trưởng nhanh, đặc biệt là vào thập niên 90 (1990 – 2000).
Năm Tốc độ tăng (%)
1986 – 1990 23
1991 – 1995 20,8
1996 - 2000 40,8
2.Xu hướng tự do hóa đầu tư ngày càng tăng.
Tự do hóa đầu tư là quá trình các quốc gia giảm bớt và xóa bỏ dần những rào cản trong lĩnh vực đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho sự di chuyển các luồng vốn đầu tư giữa các nước.
Biểu hiện của tự do hóa đầu tư:
(i) trên bình diện quốc gia:
- Các quốc gia ký kết những hiệp định dành cho nhau những ưu đãi và đối xử quốc gia.
Như Việt Nam và Nhật Bản ký kết về hiệp định đầu tư giữa hai nước (sáng kiến chung VN &
NB) để thúc đẩy hoạt động đầu tư giữa hai nước; NT ngoài đối xử về thương mại mà còn cả lĩnh vực đầu tư.
- Những trở ngại đối với đầu tư nước ngoài dần được dỡ bỏ. Những trở ngại về hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, thủ tục đầu tư (thủ tục cấp phép) v.v...
- Tăng cường những ưu đãi cho nhà đầu tư. Ưu đãi về thuế, về đất đai – giữa các nước có sự cạnh tranh nhau để thu hút đầu tư do vậy các nước đua nhau đưa ra những ưu đãi cho các nhà đầu tư.
(ii) Trên bình diện khu vực và liên khu vực:
Thành lập nhiều khu vực đầu tư tự do, nhiều hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được ký kết.
Khu vực: ASEAN: AIA – ASEAN Investment Area
Liên khu vực: APEC đưa ra mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư đối với các nước phát triển vào năm 2010; và các nước đang phát triển vào năm 2020.
Diễn đàn kinh tế Á - Âu: ASEM cũng có những nội dung về hoạt động đầu tư.
(iii) Trên bình diện toàn cầu: Vai trò của các tổ chức quốc tế như WB; IMF; WTO ngày càng gia tăng.
WTO: Hiệp định về đầu tư liên quan đến thương mại - Trade Related Investment Measures (TRIMs): Nội dung của hiệp định này bao gồm một số vấn đề như phải dành cho nhà đầu tư hưởng những nguyên tắc đối xử quốc gia (không thể phân biệt nhà đầu tư trong nước thì được đầu tư vào lĩnh vực này không bị khống chế về vốn góp v.v..; trong khi đó nhà đầu tư nước ngoài thì lại không được đầu tư vào đó hoặc bị đưa ra phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe thì mới được phép đầu tư); Hiệp định này cũng loại bỏ những biện pháp thương mại gây cản trở tới đầu tư (VD: VN quy định tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với sản phẩm – WTO không cho phép quy định như vậy).
BUỔI 8
3.Địa bàn đầu tư.
Có sự thay đổi về địa bàn đầu tư trong đó phần lớn đầu tư quốc tế tập trung vào các nước công nghiệp phát triển.
- Trước chiến tranh thế giới thứ II khoảng 70% dòng vốn đổ vào các nước đang phát triển nhằm khai thác tài nguyên, nguồn lao động rẻ
- Từ những năm 1960, hiện tượng các nước phát triển đầu tư sang lẫn nhau gia tăng.
Năm 2004, toàn thế giới thu hút 648 tỷ đô la đầu tư trực tiếp từ nước ngoài trong đó có 380 tỷ đổ vào các nước công nghiệp phát triển (chiếm 59%). Các nước phát triển thu hút được nhiều đầu tư là do:
(i) Cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm giảm dần ý nghĩa của những yếu tố lao động, nguyên vật liệu v.v.. Với cách mạng khoa học kỹ thuật thì hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng tăng, đầu tư vào những ngành có sản phẩm công nghệ cao thì mang lại lợi nhuận rất cao so với việc đầu tư vào những ngành có sản phẩm như khai khoáng, thô sơ chế có nguồn lao động và nguyên vật liệu rẻ.
(ii) Dung lượng thị trường lớn, nhu cầu đa dạng. Dân số của các nước đang phát triển rất lớn là một trong những yếu tố thu hút đầu tư nhưng thu nhập ở các nước này rất thấp nên sức mua hạn chế, ngược lại các nước phát triển có thu nhập cao nên sức mua rất mạnh vì vậy đầu tư vào những nước này sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm và nhu cầu ở các nước phát triển về hàng hóa rất đa dạng.
(iii) Môi trường đầu tư ở các nước phát triển thuận lợi hơn.
Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội nhằm đảm bảo FDI có thể sinh lợi. Như hệ thống pháp lý, thủ tục hành chính, ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, các chính sách kinh tế, cơ sở hạ tầng, môi trường văn hóa xã hội, khả năng luân chuyển vốn, năng lực của thị trường – ở các nước phát triển có ưu thế hơn hẳn so với các nước đang phát triển về những yếu tố này. Ví dụ như hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính ở các nước phát triển tương đối phát triển trong khi đó ở các nước đang phát triển chưa đồng bộ, quyết đoán và thường xuyên thay đổi, như môi trường tài chính thì các nhà đầu tư nước ngoài rất lo lắng về chính sách thường xuyên thay đổi ảnh hưởng tới tính minh bạch, tính dự đoán trước của môi trường đầu tư nước ngoài. Về vấn đề ổn định và kinh tế vĩ mô thì ở các nước đang phát triển hay xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ, nội chiến, đảo chính nhiều bất ổn hơn so với các nước phát triển. Nguồn nhân lực cũng là một yếu tố quan trọng, mặc dù rằng các nước đang phát triển có lợi thế là lao động rẻ nhưng lực lượng lao động lại có trình độ thấp, tay nghề hầu như không được đào tạo, nguồn nhân lực ở các nước phát triển thì được đào tạo kỹ lưỡng và có khả năng nắm bắt công nghệ nhanh hơn.
4.Lĩnh vực đầu tư quốc tế.
Lĩnh vực đầu tư quốc tế có sự chuyển hướng sang các ngành mới, đặc biệt là dịch vụ.
- Đầu tư vào những ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên giảm (trừ dầu khí).
- Đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo tăng. Như ngành ô tô, xe máy, điện tử, đồ gia dụng, đây cũng là những ngành mà nhu cầu thị trường gia tăng, lợi nhuận cao, thu hút được nhiều đầu tư quốc tế, đây cũng là lĩnh vực được chuyên môn hóa, chuyên môn hóa trên phạm vi quốc tế diễn ra rõ nét, mạnh mẽ hơn các ngành khác (như sản xuất điện tử, sản xuất những linh kiện lắp ráp).
- Đầu tư vào các ngành dịch vụ gia tăng mạnh mẽ. Đây là đặc điểm nổi bật trong đầu tư quốc tế, trong báo cáo thế giới năm 2004 của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (có tên là Báo cáo đầu tư thế giới 2004, sự di chuyển trong lĩnh vực dịch vụ) theo báo cáo này thì cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài đã dịch chuyển sang lĩnh vực dịch vụ, vào những năm đầu thập kỷ 70 lĩnh vực này chỉ chiếm khoảng 1/4 tổng đầu tư nước ngoài lũy kế trên toàn thế giới, đến năm 1990 tỷ trọng lĩnh vực này giảm đi một nửa, tới năm 2002 thì đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ chiếm tới 60% (ước đạt được 4.000 tỷ).
Nguyên nhân:
(i) Nhu cầu trên thế giới ngày càng tăng;
(ii) Tỷ trọng ngành dịch vụ trong nền kinh tế các quốc gia ngày càng tăng;
(iii) Nhiều ngành dịch vụ thu hút được đầu tư nước ngoài như viễn thông, kho bãi, vận chuyển các ngành này tăng 16 lần từ năm 1990 đến năm 2002, ngành cung cấp điện, nước, gas tăng 14 lần và các dịch vụ liên doanh tăng 9 lần trong cùng thời kỳ.
5.Địa bàn đầu tư – vai trò của các nước đang phát triển.
Trong các nước đang phát triển nổi lên một khu vực thu hút được rất nhiều đầu tư nước ngoài đó là khu vực các nước Châu Á - Thái Bình Dương đặc biệt là Trung Quốc trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Năm 2004, FID toàn thế giới thu hút được 648 tỷ USD trong đó các nước đang phát triển chiếm 36% (233 tỷ), riêng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chiếm tới 23% (147,6 tỷ), Trung Quốc chiếm 9% (60,6 tỷ).
Nguyên nhân khiến cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thu hút được nhiều FID:
(i) Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đây luôn là khu vực phát triển năng động của thế giới mặc dù là có những biến động xảy ra như khủng hoảng tài chính tiền tệ, khủng bố ở Bali, dịch sats, nhưng sau những biến cố đó thì khu vực này lại phục hồi trở lại và lấy lại được tốc độ tăng trưởng.
(ii) Chính sách đầu tư được cải thiện. Xu hướng tự do hóa trong khu vực các nước này diễn ra rất mạnh mẽ, các nước đều có những cải cách về chính sách nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, kể cả đối với những nước trước kia tương đối hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài như Hàn Quốc.
(iii) Các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế hai lần gia tăng nhanh.
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư như Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản. Một doanh nghiệp có công ty mẹ ở nước A và một công ty con ở một nước B, phần lợi nhuận từ chi nhánh ở B chuyển về công ty mẹ ở A có thể bị chịu thuế ở cả hai nước – những hiệp định tránh
đánh thuế hai lần nhằm tránh sự trùng lặp như vậy và bảo đảm quyền lợi cho các doanh nghiệp, và các cơ quan thuế nhà nước có sự phối hợp với nhau và phối hợp với các tập đoàn được chặt chẽ hơn.
6.Đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển có xu hướng tăng.
Theo như báo cáo về đầu tư trực tiếp nước ngoài của hội nghị Liên hợp Quốc về thương mại và phát triển thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát triển vào những năm 1985 – 1989 chỉ chiếm tỷ trọng 6%, hiện nay chiếm tỷ trọng là 10% của tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài lũy kế (859 tỷ USD). Ví dụ: đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước OPEC, những nước này có nguồn thu rất lớn từ việc bán dầu mỏ và họ mang những khoản tiền đó để đầu tư ra nước ngoài (vào khu vực Châu Âu, Trung Đông những lĩnh vực như bất động sản để quay vòng vốn), các nước công nghiệp mới nổi lên rất nhiều như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore. Những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam không phải là những nước phát triển như Mỹ, EU mà lại là Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore. Việt Nam hiện nay cũng đã đầu tư ra nước ngoài, tháng 6/2005 Việt Nam tổng cộng đã đầu tư 157 dự án với tổng vốn đầu tư 297 triệu USD, 10 nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất từ Việt Nam là Lào (ngành chế biến gỗ, trồng rừng với tổng vốn đầu tư là 82 triệu), Campuchia, Liên Bang Nga, Angeri, Indonesia, Malaysia, Irag (tìm kiếm và khai thác dầu khí với số vốn là 100 triệu), Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức, Singapore.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển ra thế giới từ năm 1980 đến 2003 chủ yếu là vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương; sau đó đến các nước Châu Mỹ La Tinh, Caribe, còn Châu Phi chiếm tỷ trọng rất ít.
7.Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) vẫn giữ vai trò quan trọng trong đầu tư quốc tế.
Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới nói chung và trong hoạt động đầu tư quốc tế nói riêng rất quan trọng, ước tính có khoảng 70.000 công ty xuyên quốc gia (TNCs) với 690 nghìn chi nhánh trên toàn cầu và chiếm khoảng 90% đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn thế giới. Các TNCs nắm giữ phần lớn tài sản trên thế giới. Hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) giữa các công ty này diễn ra rất mạnh mẽ. Những năm 1996 – 2000 là những năm đỉnh điểm của việc mua bán sáp nhập và cũng là những năm đầu tư quốc tế diễn ra mạnh nhất; từ năm 2000 trở lại việc sáp nhập suy giảm và đầu tư quốc tế cũng bị suy giảm theo.