CHƯƠNG 6. QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
II. Một số vấn đề cơ bản về Khoa học công nghệ
1.Các khái niệm cơ bản.
(i) Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
(ii) Công nghệ: Technology (theo tiếng Hy Lạp là tekhne – Logos).
- Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin.
- Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
Sự khác nhau giữa Khoa học và Công nghệ ở điểm:
+ Khoa học là nhằm đạt đến sự tiến bộ của nhận thức (Trước kia khi Michael Pharaday phát minh ra dòng điện thì đồng thời có được khối lượng của electron – mọi người đều cho rằng electron là hạt có khối lượng nhỏ nhất, nhưng hiện nay nhờ có sự tiến bộ của khoa học tìm ra được hạt Quart còn nhỏ hơn rất nhiều lần electron và nhận thức của mọi người đã thay đổi. Với khoa học thì tư duy con người ngày càng tiến hóa hơn và khoa học làm biến đổi tư duy của con người một cách đáng kể, hoàn toàn có thể xóa bỏ hẳn cái cũ và tiếp nhận cái mới).
+ Công nghệ: áp dụng nhận thức để biến đổi thực tại.
+ Khoa học: gắn với khám phá. Công nghệ: gắn với sản phẩm. (Khoa học mang tính lý thuyết còn công nghệ mang tính thực tiễn). Khoa học luôn ra đời trước và tiếp theo sau là công nghệ, từ một khoa học có thể có 1 công nghệ nhưng từ 1 khoa học cũng có thể có nhiều công nghệ.
Các yếu tố cấu thành công nghệ: T - H - I - O
+ T - Phần cứng (Technowares – Hardware). Phần cứng trong công nghệ là hình thái vật chất của công nghệ. Cơ sở vật chất nói chung (những gì mà ta nhìn thấy được – hữu hình).
+ H - Yếu tố con người (Humanware). Là kiến thức, kỹ năng hàm chứa trong công nghệ.
Được thể hiện ở sự lành nghề hoặc kỹ năng chuyên môn của người lao động trong việc sử dụng
công nghệ. Con người có vai trò quan trọng nhất, vai trò trung tâm, là bộ phận phức tạp nhất trong công nghệ.
+ I - Thông tin (Infoware). Là các dữ liệu, tư liệu sử dụng trong công nghệ như các bản thiết kế, tài liệu sử dụng, thông số kỹ thuật, những phần mềm quản lý vận hành.
+ O - Tổ chức (Orgaware): Phần công nghệ thể hiện trong khung thể chế để xây dựng cấu trúc tổ chức. Đây là phần bao trùm lên ba yếu tố trên.
Các thành phần công nghệ có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó con người đóng vai trò trung tâm, con người sẽ quyết định việc tiếp nhận yếu tố “I” như thế nào, vận hành yếu tố “T” như thế nào, xây dựng yếu tố tổ chức “O” như thế nào.
(iii) Đổi mới công nghệ: Là hoạt động hoàn thiện cải tiến hoặc tạo ra công nghệ mới trên cơ sở công nghệ đã có. Từ công nghệ nguồn sẽ được đổi mới và phát triển thành 1 hay một số công nghệ mới.
- Đổi mới công nghệ thụ động:
Khi có nhu cầu thì mới tiến hành nghiên cứu để đưa ra công nghệ và sau đó áp dụng vào sản xuất. (Nhà khoa học hoàn toàn thụ động trong việc đổi mới công nghệ).
- Đổi mới công nghệ chủ động:
Chủ động nghiên cứu sáng tạo đưa ra, đổi mới công nghệ khi chưa có nhu cầu của thị trường nhưng vẫn đưa ra thị trường.
Hai cách đổi mới này đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định; đổi mới chủ động sẽ có thể bị gặp phải những rủi ro nhiều hơn cách đổi mới thụ động vì không thể biết được công nghệ đó có được nền kinh tế chấp nhận không, nhưng trong kinh doanh những gì rủi ro cao thì sẽ mang lại lợi nhuận cao. Nhưng DN vẫn chấp nhận vì nếu DN chủ động đưa ra công nghệ mới thì DN sẽ là người đi đầu và lợi nhuận sẽ đổ vào DN; Với việc đổi mới công nghệ thụ động thì mức rủi ro thấp vì DN phải biết là thị trường có nhu cầu thì DN mới làm, tuy nhiên lợi nhuận không nhiều vì khi thị trường đã có nhu cầu thì không chỉ có một DN đó mà còn có rất nhiều DN khác biết về nhu cầu đó và như vậy thì DN sẽ phải cạnh tranh với rất nhiều nhà nghiên cứu, khoa học khác thì mới có thể khẳng định được vị trí của công nghệ.
(iv) Quan hệ quốc tế về Khoa học công nghệ. Quan hệ quốc tế về khoa học và công nghệ là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó diễn ra việc trao đổi các thành tựu, tiến bộ khoa học và công nghệ giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
2.Nguyên nhân hình thành và phát triển của khoa học công nghệ.
(i) Xu thế toàn cầu hóa và hợp tác giữa các nước. Hiện nay nền kinh tế thế giới diễn ra rất nhiều xu hướng, xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa – Hai quá trình này tạo ra nhiều mâu thuẫn; tuy nhiên những mâu thuẫn này sẽ dẫn tới những hiệu quả tích cực và hậu quả tiêu cực.
Nhu cầu thị trường
marketing R&D Sản xuất
R&D Sản xuất Marketing
Nhu cầu thị trường
Nếu toàn cầu hóa kêu gọi tự do hóa thương mại đối với tất cả các nước thì khu vực hóa lại tạo ra đặc quyền cho một nhóm nước. Bên cạnh Tổ chức thương mại quốc tế - WTO tồn tại rất nhiều các tổ chức kinh tế khu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - ASEAN, Hiệp định tư do mậu dịch Bắc Mỹ - NAFTA, Trung Mỹ - CAPTA, các nước Mỹ La Tinh – MECOSUA v.v... theo quy định của WTO thì có MFN, nhưng ngoài ra còn có ngoại lệ của WTO: Những quy định nằm trong khuôn khổ của những hợp tác khu vực thì sẽ được hưởng những ngoại lệ ưu đãi nhất định – như vậy vô hình chung quá trình toàn cầu hóa và quá trình khu vực hóa đã làm nảy sinh những xung đột nhất định mà xung đột đó không thể tránh khỏi.
(ii) Tiến bộ về KHCN là nhân tố thiết yếu đối với sự phát triển của các nước. Điều này đã thúc đẩy các nước tăng cường hợp tác với nhau để phát triển KHCN. Hiện nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì nước nào nắm giữ công nghệ thì nước đó sẽ là nước thắng cuộc trong nền thương mại thế giới, và việc các nước hợp tác với nhau để cùng nhau phát triển công nghệ là điều tất yếu vì trong quá trình các nước hợp tác sẽ có lợi cho cả các bên.
(iii) Nghiên cứu KHCN đòi hỏi chi phí rất lớn, năng lực đơn độc của một nước nhiều khi không thể thực hiện được, điều này tất yếu dẫn đến sự phối hợp giữa các nước. Trong quá trình nghiên cứu khoa học công nghệ nếu diễn ra độc lập thì đòi hỏi chi phí rất lớn, đồng thời rủi ro cao do vậy việc phát sinh ra quan hệ quốc tế khoa học công nghệ sẽ làm giảm chi phí nghiên cứu khoa học công nghệ đồng thời làm giảm rủi ro, phân tán rủi ro cho nhiều nước.
3.Vai trò của Quan hệ quốc tế về Khoa học công nghệ.
(i) Tiết kiệm được vốn đầu tư, chi phí.
(ii) Tránh được sự trùng lặp. Khi những nghiên cứu được chia xẻ thì người ta có thể nắm bắt được là hiện nay các nước khác đang nghiên cứu cái gì, đã áp dụng cái gì thì họ sẽ không tốn thời gian và tiền bạc để nghiên cứu một thứ mà nước khác đã nghiên cứu và do vậy họ sẽ giành thời gian để nghiên cứu thứ khác.
(iii) Gắn kết nghiên cứu với triển khai ứng dụng. Hiện nay, nghiên cứu có thể diễn ra ở một nơi nhưng triển khai ứng dụng lại ở nơi khác với bình diện rộng và phải nhờ có quan hệ quốc tế rất rộng thì mới có thể triển khai được. Còn nếu như không có quan hệ quốc tế thì khi công nghệ được nghiên cứu xong thì nó chỉ được áp dụng ở nước mà nơi khoa học công nghệ đó phát sinh mà thôi.
(iv) Đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, đặc biệt là các nước đang và chậm phát triển.
Tại sao Nhật Bản kể từ sau Đại chiến thế giới thứ II chỉ sau chưa đầy 20 năm sau chiến tranh Nhật đã trở thành 1 nước công nghiệp hàng đầu thế giới vì Nhật Bản có quá trình bắt chước công nghệ có tính sáng tạo. Sau chiến tranh, Nhật không có ngân sách gì (vì là nước bại trận nên phải bồi thường chiến tranh) và không có nguồn tài nguyên gì do vậy họ bắt chước công nghệ mà thế giới có sẵn và trên nền những công nghệ có sẵn đó họ cải tiến công nghệ và kết quả là sản phẩm của Nhật hoàn toàn chiếm vị trí độc tôn trên thị trường thế giới. Nhật chủ yếu mua lại công nghệ của Mỹ, sau đó nghiên cứu các công nghệ đó và áp dụng những phần
tốt, và cải tiến những phần chưa tốt và áp dụng vào sản phẩm của mình. Sau đó một thời gian dài cứ nói tới hàng điện tử là khách hàng lại muốn mua hàng điện tử của Nhật, thậm chí sản phẩm của Nhật còn chi phối cả thị trường Mỹ là nơi mà Nhật mua công nghệ. Ngoài ra còn có mặt hàng ô tô cũng là một mặt hàng thế mạnh mà Chính phủ Mỹ và Nhật phải ký Hiệp định hạn chế xuất khẩu tự nguyện – VER. Việc bắt chước công nghệ giúp Nhật hiện đại hóa một cách nhanh chóng. Đồng thời với sự bắt chước đó Nhật đã sáng tạo được nét riêng áp dụng vào sản phẩm của mình.
Phát triển công nghệ ở Nhật gắn chặt với mục đích thương mại.
Việc phát triển công nghệ luôn gắn với thương mại được thể hiện ở điểm là công nghệ phải được áp dụng vào sản phẩm, sản phẩm phải bán được và thu được lợi nhuận thì mới sản xuất, và công nghệ làm ra phải mua bán, trao đổi được tất cả mọi thứ đều quy về lợi nhuận.
- Lực lượng Khoa học công nghệ hàn lâm bao gồm các trường đại học, các viện nghiên cứu.
- Lực lượng khoa học công nghệ chính phủ chủ yếu làm về mặt chính sách khoa học công nghệ.
- Lực lượng khoa học và công nghệ doanh nghiệp, trong tất cả các tập đoàn công nghiệp Nhật đều có lực lượng nghiên cứu và phát triển do vậy các tập đoàn công nghiệp đều chủ động về mặt công nghệ mà không dựa vào lực lượng khoa học công nghệ chính phủ hoặc hàn lâm.
- Lực lượng khoa học và công nghệ thường dân. Lực lượng này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ nhưng trong thời kỳ đầu phát triển công nghệ của Nhật thì lực lượng này đóng một vai trò quan trọng. Ví dụ: ông Honda – việc ông gắn động cơ vào xe đạp là một phát kiến để từ đó có chiếc xe máy hiện nay.
1970s, giới KH Nhật tranh luận về việc xây dựng các lò phản ứng hạt nhân nhằm phục vụ mục đích hòa bình, các nhà khoa học chính phủ đã lập kế hoạch nghiên cứu tự xây dựng, các trường đại học lớn đòi hỏi có thêm nghiên cứu cơ bản, các nhóm khoa học thường dân chống lại năng lượng nguyên tử. Cuối cùng Công ty điện Tokyo yêu cầu Chính Phủ mua công nghệ mỗi nhóm khoa học khác nhau thì có quan điểm khác nhau và từ đó mỗi nhóm có một hướng giải quyết khác nhau.
Phòng thí
nghiệm Xưởng sản
xuất Marketing
Lực lượng KHCN ở Nhật Bản
KH & CN
hàn lâm KH & CN
chính phủ KH & CN doanh nghiệp
KH& CN thường
dân
4.Đặc điểm của quan hệ quốc tế trong khoa học công nghệ.
(i) Đòi hỏi tính phối hợp và tính chính xác cao.
(ii) Có sự phân bố không đồng đều giữa các quốc gia về thành tựu khoa học công nghệ.
Từ cơ sở nền kinh tế của quốc gia thế nào thì sẽ dẫn tới thành tựu khoa học công nghệ như vậy.
Có những nước có tiềm lực kinh tế mạnh thì họ có nhiều tiền để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, nhưng nước có tiềm lực kinh tế yếu thì ngân sách dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ hạn hẹp. Ví dụ như các nước ở Trung Phi.
(iii) Tính trừu tượng.
(iv) Hoàn toàn phụ thuộc vào con người, chỉ có một số ít người có thể tham gia trực tiếp vào quá trình này. Có thể là các nhà khoa học, đội ngũ những nhà quản lý nhà nước hoặc những người đứng đầu của các tập đoàn.
(v) Mang tính chất lâu dài và kế thừa.
5.Các hình thức của quan hệ quốc tế về khoa học công nghệ.
(Phân loại quan hệ quốc tế về khoa học công nghệ). Có hai cách phân loại:
5.1. QHQT về Khoa học công nghệ không mang tính chất thương mại (SGK 83).
Thường diễn ra ở cấp quốc gia – các quốc gia hỗ trợ nhau về mặt công nghệ, đôi khi là cho không công nghệ.
- Trao đổi kinh nghiệm và những thành tựu khoa học công nghệ giữa các nước.
- Phối hợp nghiên cứu và tiến hành các công trình khoa học chung.
- Thông qua các chương trình KHCN trong khuôn khổ liên kết khu vực.
- Tiến hành trao đổi chuyên gia, cán bộ khoa học giữa các nước.
5.2. QHQT về Khoa học công nghệ mang tính chất thương mại.
Được thể hiện rõ rệt nhất ở hoạt động chuyển giao công nghệ.