CHƯƠNG 5. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
IV. Vai trò của đầu tư quốc tế
1.Tác động của đầu tư quốc tế đối với nước chủ đầu tư.
1.1. Tác động tích cực.
(i) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mang lại lợi nhuận siêu ngạch cho chủ đầu tư. Điều này được thể hiện trên các phương điện (1) giúp nước chủ đầu tư khai thác, tận dụng được nguồn vốn sẵn có dư thừa trong nước; (2) khai thác được những lợi thế của nước nhận đầu tư như lợi thế về tài nguyên, nhân lực lao động rẻ; (3) tận dụng được những ưu đãi của nước nhận đầu tư như ưu đãi trong chính sách thuế, chính sách đất đai, chính sách nhân công.
(ii) Mở rộng thị trường: Thị trường có hai loại là thị trường cung cấp đầu vào và thị trường đầu ra tiêu thụ sản phẩm.
+ Mở rộng thị trường cung cấp đầu vào. Đầu tư quốc tế giúp mở rộng thị trường cung cấp đầu vào cho sản xuất, các nguồn nguyên vật liệu ổn định giá rẻ phục vụ cho nước chủ đầu tư (vd: EU, Nhật, Mỹ đầu tư sang khu vực Trung Đông rất nhiều vì họ muốn tận dụng nguồn nguyên liệu dầu mỏ ổn định ở đây; hoặc như Nhật đầu tư vào các nước Đông Nam Á để có nguồn nguyên liệu ổn định);
+ Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đầu tư ra nước ngoài có thể giúp nước chủ đầu tư đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm (nếu không tiến hành đầu tư ra nước ngoài, chỉ đơn thuần xuất khẩu hàng hóa thì sẽ bị gặp phải hàng rào bảo hộ mậu dịch – khi tiến hành đầu tư nước ngoài thì sẽ tránh được hàng rào bảo hộ đó do vậy đẩy mạnh được việc tiêu thụ sản phẩm).
(iii) Chuyển giao công nghệ cũ sang nước nhận đầu tư thì nước chủ đầu tư sẽ có lợi ích:
+ Kéo dài tuổi thọ và giảm chi phí khấu hao công nghệ. Ở các nước phát triển họ đã cho ra đời những công nghệ mới do vậy họ sẽ đưa những công nghệ cũ đó đi góp vốn ở các nước đang phát triển, như vậy thì ở trong nước họ vẫn cơ cấu lại được nền kinh tế và kéo dài được tuổi thọ của công nghệ cũ.
+ Kéo dài vòng đời sản phẩm ở nước ngoài. Khi sản phẩm đang có xu hướng bão hòa ở thị trường trong nước phát triển nhưng khi đưa sản phẩm đó ra thị trường các nước đang phát triển thì vẫn là sản phẩm mới – vậy khi họ mang công nghệ cũ, xây dựng nhà máy sản xuất sản phẩm cũ thì lúc này sẽ trở thành sản phẩm mới ở thị trường mới và như vậy là vòng đời sản phẩm được kéo dài thêm.
(iv) Mở rộng ảnh hưởng về kinh tế, chính trị và xã hội trên thế giới. Việc ảnh hưởng này được thể hiện rõ nét nhất trên các khoản đầu tư hỗ trợ phát triển chính thức- ODA. Các nước phát triển cho vay hỗ trợ ODA với mức lãi suất rất ưu đãi với thời gian cho vay dài hoặc thậm chí là viện trợ không hoàn lại, nhận lại họ sẽ có được những ảnh hưởng về chính trị, xã hội, ví dụ như nước Nhật viện trợ rất nhiều khoản ODA cho các nước khác trong khu vực Châu Á, gần đây Nhật muốn được tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thì Nhật càng làm tăng ảnh hưởng của mình đối với các nước trong khu vực.
1.2. Tác động tiêu cực.
(i) Gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư trong nước nhất là trong đầu tư cho cơ sở hạ tâng, lợi nhuận thấp. Nhà đầu tư chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, ở đâu có lợi thì họ tiến hành đầu tư, nhưng những ngành không hấp dẫn lắm có thể bị bỏ bê.
(ii) Chảy máu chất xám. Khi di chuyển vốn ra nước ngoài thì cùng với sự di chuyển vốn đó thì cũng phải di chuyển cả công nghệ, cả những chuyên gia, bí quyết sản xuất ra sản phẩm.
(iii) Có thể gây ra tình trạng thất nghiệp trong nước. Ở các nước phát triển, người dân biểu tình phản đối toàn cầu hóa mà nguyên nhân gây ra là do họ sợ bị thất nghiệp (nhất là những lao động có trình độ thấp thì khi xảy ra như vậy họ sẽ phải chuyển sang ngành làm việc khác và phải được đào tạo lại) khi toàn cầu hóa gỡ bỏ những rào cản trong lĩnh vực đầu tư thì
nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư ra các nước đang phát triển hơn có lợi thế về nhân công và giá lao động rẻ.
2.Tác động đối với nước nhận đầu tư.
2.1. Nước nhận đầu tư là nước phát triển.
(i) Góp phần tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, năng lực công nghệ hiện đại của nền kinh tế. Với việc phát triển của công nghệ kỹ thuật thì yêu cầu về vốn ngày càng cần thiết ngay cả đối với những nước phát triển rất lớn như Mỹ hay EU thì vẫn phải hợp tác với nhau trong nhiều lĩnh vực để thu hút đầu tư nước ngoài.
(ii) Góp phần giải quyết được những khó khăn về kinh tế xã hội như việc làm, tăng thu ngân sách (như ở Mỹ thì đầu tư nước ngoài cũng thu hút một lượng đáng kể lực lượng lao động), theo thống kê thì lực lượng lao động làm việc trong khu vực trong các khu đầu tư nước ngoài thì có được mức thu nhập lớn hơn so với mức thu nhập trung bình trong toàn nền kinh tế (điều này không chỉ có ở nước đang phát triển như Việt Nam mà ở Mỹ cũng vậy).
(iii) Tạo ra được môi trường cạnh tranh từ đó thúc đẩy sự đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế. Như ở Mỹ, đầu tư nước ngoài của Nhật hay Hàn Quốc xây dựng những nhà máy sản xuất ô tô và trong những lĩnh vực khác nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ.
(iv) Có thị trường để tiêu thụ sản phẩm.
2.2. Nước nhận đầu tư là nước đang phát triển.
(i) Giải quyết vấn đề thiếu vốn để phát triển nền kinh tế. Với các nước đang phát triển thì có một thuyết là thuyết “Vòng luẩn quẩn”: Năng suất rất thấp thì sẽ dẫn đến thu nhập thấp, từ đó dẫn tới tích lũy thấp và tất nhiên là tiết kiệm và đầu tư thấp (vốn đầu tư thấp) từ đó lại dẫn tới năng suất thấp
Tích lũy ở các nước này rất thấp mà các nước này còn phải giải quyết những vấn đề như nhà cửa phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của dân số mình ngày càng gia tăng, do vậy để duy trì được mức độ tiết kiệm và đầu tư cho nền kinh tế là rất khó. Trong khi đó thì hệ thống luật pháp và môi trường kinh doanh ở các nước đang phát triển đều không ổn định. Do vậy đầu tư nước ngoài được coi như một cú huých giúp nước đang phát triển ra khỏi vòng luẩn quẩn đó.
(ii) Phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Trước chiến tranh thế giới thứ II, chủ yếu đầu tư đổ vào các ngành khai thác tài nguyên. Nhưng sau chiến tranh đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ gia tăng.
Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp, Dịch vụ và Nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các ngành trong một nền kinh tế. Việt Nam: Khu vực hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, một số ngành có tỷ trọng chiếm tới 100% như ngành dầu khí (dự án đầu tiên là VietsoPetrol; và bây giờ dự án thu hút vốn nước
Năng suất thấp
Thu nhập thấp
Tích lũy Tiết kiệm và thấp
đầu tư thấp (vốn đầu tư
thấp)
ngoài trực tiếp cao nhất ở VN là dự án khai thác khí đốt ở Nam Côn Sơn); Ngành ô tô đã từng là ngành có vốn đầu tư trực tiếp chiếm 100%.
(iii) Tạo việc làm, nâng cao thu nhập người lao động và phát triển nguồn nhân lực.
- Tạo việc làm. Ở Việt Nam khu vực đầu tư nước ngoài thu hút khoảng 800 nghìn lao động trực tiếp và cũng tạo ra một số lao động gián tiếp đáng kể.
- Nâng cao thu nhập. Thu nhập của những người lao động làm việc trong những khu vực đầu tư nước ngoài cao hơn thu nhập trung bình của toàn xã hội.
- Nâng cao chất lượng lao động. Rất nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có quỹ đào tạo để đào tạo lại người lao động.
(iv) Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân và tăng thu ngân sách. Như ở Việt Nam khu vực vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đóng góp khoảng 15% GDP, riêng giai đoạn 1996 – 2002 đóng góp trực tiếp vào ngân sách trung bình là 6% nếu tính cả dầu thô thì tỷ trọng ước tính khoảng 20%.
(v) Tiếp nhận công nghệ mới, kỹ năng – kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Có rất nhiều con đường để một quốc gia có được công nghệ như nhập khẩu, thực hiện các chương trình hợp tác công nghệ với các nước, hoặc thông qua đầu tư quốc tế; Trong ba cách trên: nhập khẩu thì cần phải có ngoại tệ mà các nước đang phát triển rất thiếu; Thông qua các chương trình hợp tác thì phạm vi tương đối hạn chế do vậy thu hút đầu tư nước ngoài là con đường hiệu quả nhất, đặc biệt tiếp nhận công nghệ thông qua vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài còn đầu tư gián tiếp sẽ rất khó để tiếp nhận công nghệ.
(vi) Phát triển và mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại khác, đặc biệt là thương mại quốc tế. Theo thống kê, năm 1991 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 2 tỷ USD trong đó khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp 4%, năm 2005 khu vực này đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước là 57,5% (tỷ trọng này tính cả dầu thô)
Các nguyên nhân đầu tư nước ngoài làm tăng xuất khẩu:
- Đầu tư nước ngoài thì gắn liền với công nghệ hiện đại do vậy sản phẩm có chất lượng cao.
- Tận dụng được những kinh nghiệm, hệ thống phân phối tiêu thụ của nước ngoài, của các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào VN.
- Đầu tư nước ngoài có thể cải biến được cơ cấu xuất khẩu tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng của sản phẩm thô sơ chế.
- Định hướng chiến lược khuyến khích xuất khẩu của nước nhận đầu tư và định hướng khuyến khích xuất nhập khẩu của nước đầu tư. Có rất nhiều nước đề ra ưu đãi cho các nhà đầu tư nếu nhà đầu tư đáp ứng được tỷ lệ nhất định xuất khẩu sản phẩm, thậm chí họ còn đề ra tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với sản phẩm (nếu xuất khẩu sản phẩm từ 8 – 10% hoặc thậm chí 100%
thì nhà nước sẽ có ưu đãi về thuế xuất cho doanh nghiệp). Chính vì vậy chính sách đầu tư thúc đẩy xuất khẩu. Đầu tư nước ngoài cũng thúc đẩy nhập khẩu (tăng cường nhập khẩu các loại máy móc, nguyên liệu đầu vào cần thiết vào nước nhận đầu tư).
(vii) Giúp các nước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Tác động này được thể hiện rõ nét nhất trong hình thức đầu tư gián tiếp (ODA), hình thức đầu tư này đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng. Ở VN các khoản viện trợ ODA của Nhật, WB, ADB vào cơ sở hạ tầng rất nhiều như các tuyến quốc lộ giao thông, giáo dục, năng lượng v.v...
* Tác động tiêu cực.
- Các nước đang phát triển rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điểm này được thể hiện rất rõ ở hình thức đầu tư gián tiếp (ODA).
- Nước nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc. Sự phụ thuộc được thể hiện trên nhiều cấp độ như phụ thuộc về vốn (khi dòng vốn đầu tư nước ngoài bị rút nhanh thì sẽ gây ra tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế) từ phụ thuộc về vốn dễ dẫn tới phụ thuộc kinh tế (thị trường tiêu thụ sản phẩm) và có thể dẫn tới phụ thuộc về chính trị.
- Nước nhận đầu tư phải chia xẻ lợi ích quyền lợi. Như trong lĩnh vực khai thác dầu thô, tuy tài nguyên là của VN nhưng khi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thì VN phải chia một phần lợi nhuận cho việc họ phân bổ tỷ lệ lợi nhuận theo vốn đầu tư của họ.
- Nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng phát triển lệch lạc, mất cân đối. Sự mất cân đối thể hiện về mất cân đối cơ cấu ngành cũng như mất cân đối về cơ cấu lãnh thổ. Như ở VN các nhà đầu tư chỉ quan tâm tới những ngành có lợi nhuận cao trong khi đó các ngành như trồng rừng hoặc như nông nghiệp v.v... thu hút được rất ít vốn đầu tư. Cơ cấu lãnh thổ thu hút đầu tư rất mất cân đối ví dụ như ở VN chỉ có một vài tỉnh là có thể thu hút được các nhà đầu tư như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai (4 tỉnh này thu hút tới 69% đầu tư trực tiếp nước ngoài).
- Nước nhận đầu tư có thể trở thành bãi rác thải công nghệ. Việc tiếp nhận những dây chuyền công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài là một vấn đề do vậy phải so sánh các mặt lợi, hại khi tiếp nhận dự án đầu tư, thu hút đầu tư vào các khu vực công nghệ cao, hoặc thu hút vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động là hai mục tiêu khác nhau. Dự án sử dụng nhiều lao động thì khả năng công nghệ áp dụng vào đó là công nghệ lạc hậu, nhưng dự án đầu tư vào khu vực công nghệ cao thì sẽ được sử dụng công nghệ cao do vậy Chính phủ phải cân nhắc kỹ càng trước khi chấp thuận cho các dự án đầu tư vào đất nước.
- Tác động khác như đình công, sa thải nhân công, chảy máu chất xám, lối sống xã hội v.v....