Một số bệnh thường gặp

Một phần của tài liệu Đánh giá khả năng sản xuất của thỏ trắng new zealand nuôi tại trang trại của ông phùng văn toản, xã sơn đông – sơn tây – hà nộ (Trang 37 - 44)

1.4.1.1.Bệnh chướng hơi đầy bụng

Bệnh này thường xảy ra ở những gi đình nuôi thỏ chủ yếu bằng rau lá củ quả chứa nhiều nước; có khi do thức ăn bị thối nát, mốc hoặc chuyển tiếp thức ăn quá đột ngột từ thức ăn khô kéo dài sang thức ăn xanh với lượng lớn. Mùa hè khi thỏ khát nước mà cho nuống nươc cùng với thức ăn thô xanh, củ quả cũng có thể gây bệnh.

Thỏ bị chướng hơi thể hiện bụng to, phình ra, căng như quả bóng bay, thỏ không yên tĩnh, khó thở và chảy nước dãi ướt lông quanh hai mép nếu không điều trị kịp thời các cơ quan tiêu hóa sẽ căng to hơn chèn ép các cơ quan nội tạng như phổi sẽ làm thỏ chết ngạt.

Khi thấy thỏ chướng hơi cần hạn chế thức ăn xanh và nước uống, chỉ cho ăn ít lá chát, lá chè, lá ổi, lá sắn dây đồng thời cho uống 1-2 thìa con dầu thầu dầu, lấy tay vuốt xuôi hai bên thành bụng nhiều lần, ép cho thỏ phải chạy nhảy hoạt động nhiều lần.

Cần đề phòng bệnh này bằng cách phơi các loại rau lá chứa nhiều nước trước khi cho ăn, phải chuyển tiếp thức ăn dần dần và cho thức ăn sạch có chất lượng tốt, không cho ăn rau xanh chứ nhiều nước ngay sau khi cho uống nước.

1.4.1.2. Bệnh đau bụng ỉa chảy

Thực chất của bệnh này là rối loạn tiêu hóa do chuyển tiếp thức ăn đột ngột; thức ăn, nước uống bị dính tạp chất bẩn, dính nước mưa, nước hồ ao bẩn;

uống nước lạnh; hoặc thỏ nằm trên đáy lồng cao bị gió lùa vào bụng ... Ở lứa tuổi sau khi cai sữa 1 tuần đến khi được 3 tháng là hay bị mắc bệnh này.

Phân thỏ lúc đầu hơi nhão, sau đó lỏng dần, thấm dính bết lông quanh hậu môn. Thỏ kém ăn, lờ đờ, uống nước nhiều, gầy yếu dần và chết.

Khi thấy phân nhão cần dừng ngay các loại thức ăn, nước uống hoặc yếu tố khác mất vệ sinh. Đồng thời cho uống ngay nước chiết xuất đặc của cây nhọ nồi, búp chè, búp lá ổi, cỏ sữa ... Có thể cho uống Colinorgen hoặc Sulfaganidin với liều 0,1g/kg thể trọng, uống trong 3 ngày liền.

1.4.2. Bệnh do ký sinh trùng

1.4.2.1..Bệnh ghẻ

Đây là bệnh phổ biến trên thỏ, tuy không gây chết thỏ ngay nhưng thiệt hại về kinh tế rất lớn do mức độ lây lan trong đàn rất nhanh, làm thỏ gầy yếu, chậm lợn.

Nguyên nhân: do các loại ký sinh trùng ngoài da gây ra, chủ yếu gồm 2 dạng: ghẻ đầu do loài ghẻ Notoedres ký sinh gây bệnh ở mí mắt, mũi, méo, móng chân, gót chân, da vùng hậu môn và cơ quan sinh dục; ghẻ tai do loài ghẻ Psoroptes ký sinh gây bệnh ở lỗ tai, vành tai. Bệnh thường xảy ra khi điều kiện chăn nuôi vệ sinh kém và có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi của thỏ.

Triệu chứng: thỏ bị ngứa, cọ gãi vào chuồng, rụng lông, có mùi rất hôi, có thể lan đến bộ phận sing dục và đóng vảy. Ở các điểm ghẻ ban đầu thấy rụng lông, sau đó thấy các vảy rộp màu trắng xám, dày dần lên và kho cứng lại. Đôi khi dưới vảy ghẻ có mủ do nhiễm trùng gây viêm da. Thỏ gầy ốm, kém ăn, chậm lớn, sinh trưởng kém ...

Điều trị: Chăm sóc phục hồi sức khỏe thỏ.

Dùng các loại thuốc ghẻ đặc trị bôi 3 đợt 2-3 ngày/đợt và kiểm tra thường xuyên.

Thuốc đặc trị là Ivermectin 2.5 (hoặc Bivermectin), sử dụng tiêm dưới da.

Liều dùng 1ml cho 12-15kg thể trọng.

Phòng bệnh: đảm bảo vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt. Chuồng nuôi phải khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát; mật độ nuôi vừa phải. Thường xuyên kiểm tra, cách ly và điều trị kịp thời những con có biểu hiện bệnh. Vệ sinh tốt chuồng trại, nguồn lây bệnh do người mang sang. Có thể sử dụng thuốc Ivermectin để phũng bệnh ghẻ với liều phũng bằng ẵ liều điều trị, cỏch 3 thỏng tiờm lặp lại.

1.4.1.2. Bệnh cầu trùng

Nguyên nhân: do đơn bào ký sinh Eimeria gây nên trong điều kiện chăn nuôi vệ sinh kém. Thỏ con từ 2 tuần tuổi đã có thể nhiễm bệnh từ phân thỏ mẹ thải ra. Thỏ từ 6-8 tuần tuổi thường mắc bệnh này.

Triêu chứng: thỏ kém ăn, bị xù lông, đôi khi bị ỉa chảy; nếu kết hợp với bệnh viêm ruột, phân có thể lẫn máu. Thân nhiệt cao hơn bình thường, chảy nước mũi, nước dãi. Thời gian mang mầm bệnh kéo dài, thỏ gầy dần rồi chết.

Bệnh có thể gây chết 50% tổng đàn.

Điều trị: Rabbipain pha 10g/10 lít nước hoặc trộn 10g/5kg thức ăn, dùng liên tục 3-5 ngày.

Phenothiazin liều 0,2g/kg thể trọng để điều trị.

Dung dịch iod 0,01% cho thỏ uống trong 10 ngày liên tiếp.

Phòng bệnh: Đáy lông chuồng phải có lỗ, rãnh thoát phân dễ dàng; dọn vệ sinh hằng ngày.

Tăng cường sức đề kháng cho thỏ bằng cách bổ sung vitamin, các loại thức ăn có chất lượng. Có thể dùng các loại thuốc trên để phòng bệnh với liều sử dụng bàng ẵ liều điều trị.

1.4.3. Bệnh do vi rút 1.4.3.1. Bệnh bại huyết thỏ

Bệnh này còn có tên gọi khác là bệnh xuất huyết. Bệnh bùng phát rất nhanh, gây chết hàng loạt. Bệnh thường xảy ra trên thỏ tử 6 tuần tuổi trở lên.

Nguyên nhân: là bệnh truyền nhiễm cấp tính do Calicivirus gây ra, có tính lây lan nhanh và rộng.

Triệu chứng: bệnh thường gặp ở thỏ từ 2 tháng tuổi trở lên, thời gian từ lúc nhiễm virus đến lúc chết trong khoảng 14-25 giờ. Thỏ vẫn ăn uống bình thường, đôi khi thỏ lờ đờ, bỏ ăn trong thời gian ngắn rồi chết hàng loạt, sốt cao, khó thở, co giật, nhảy cẫng lên. Trước khi chết, thỏ giãy giụa, quay vòng (triệu chứng thần kinh), máu hộc ra ở miệng, mũi. Thỏ chết có đầu ngược về phía sau.

Bệnh tích: Gan sưng to, bở; vành tim, phổi, khí quản, lách đều xuất huyết, tụ huyết thậm chí hoại tử.

Bệnh có thể gây chết trên 90% tổng đàn.

Điều trị: Khi thỏ đã phát bệnh việc điều trị hầu như không có kết quả do khả năng lây lan rộng và thỏ chết rất nhanh.

Phòng bệnh: Hiện nay đã có vacxin tiêm phòng cho thỏ. Liều dùng 1ml/con từ 2 tháng tuổi trở lên, tiêm dưới da hoặc bắp thịt, cách 4-6 tháng có thể tiêm lắp lại.

Tăng cường vệ sinh chuồng trại. Nuôi dưỡng chăm sóc thỏ hợp lý, vệ sinh chuồng trại; không mua thỏ chưa rõ nguồn gốc đem về trại mà không có cách ly.

định kỳ sát trùng chuồng trại sau mỗi đợt nuôi bằn Benkocid.

1.4.3.2. Bệnh viêm mũi

Nguyên nhân: do vi trùng gây viêm phổi kết hợp với 1 số loại vi trùng nung mủ ký sinh trong xoang mũi, khi gặp thời tiết thay đổi đột ngột, môi trường chăn nuôi quá chật chội, ẩm ướt hoặc chuồng nuôi bị gió lùa vào ban đêm thì phát bệnh.

Triệu chứng: thỏ bị chảy nước mũi đặc như mủ, khó thở bằng mũi phải thở bằng miệng. Thỏ bị ngứa mũi, thường dùng chân trước cọ vào mũi làm trầy

xước. Thỏ bị hắt hơi, chảy nước mũi, kém ăn, lông xù, phản ứng chậm chạp.

Thỏ lừ đừ, biếng ăn và có tiếng thở rít lên.

Điều trị: Khi thỏ mới có biểu hiện chảy nước mũi, hắt hơi cần phải thay đổi môi trường vệ sinh.

Nhỏ thuốc Streptomycin hoặc kanamycin vào mũi thỏ, mỗi ngày nhỏ 2 lần, 4-5 giọt/lần nhỏ cho đến khi hết các triệu chứng bệnh.

Nếu thỏ bị bệnh nặng cần tiêm Streptomycin liều 0,01g/kg thể trọng hoặc kanamycin liều 0,05g/kg thể trọng liên tục trong 3 ngày.

Phòng bệnh: cải thiện môi trường chăn nuôi tốt hơn. Thường xuyên bổ sung vitamin C cho thỏ uống để tăng cường sức đề kháng.

1.4.4. Bệnh do vi khuẩn

1.4.4.1. Bệnh tụ huyết trùng

Nguyên nhân: trong niêm mạc khí quản của thỏ thường có vi trùng Pasteurella tiềm sinh. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút, vi trùng sẽ tấn công và gây bệnh. Bệnh lây lan nhanh qua đường hô hấp; có thể xảy ra trên mọi lứa tuổi cửa thỏ.

Triệu chứng: thỏ kém ăn, sôt cao 41-42ᵒC, khó thở, kết mạc mắt đỏ, chảy nước mũi có lẫn dịch nhờn, gầy yếu và chết. Thỏ bệnh ở dạng cấp tính chết rất nhanh, hầu như khòn thấy rõ trieuj chứng.

Điều trị: thuốc đặc trị là Streptomycin liều 0,01g/kg thể trọng hoặc kanamycin liều 0,05g/kg thể trọng kết hợp với các thuốc bồi dưỡng.

Phòng bệnh: thỏ là vật nuôi rất nhạy cảm với bệnh tụ huyết trùng, thường 18-24 giờ sau khi phát bệnh thỏ sẽ chết, việc điều trị không hiệu quả. Vì vậy, giải pháp tốt nhất là phòng bệnh. Không nên nhốt thỏ vào chuồng gà, chuồng lợn vì có nguy cơ lây lan mầm bệnh từ các loại gia súc này. Tăng cường công tác sát trùng tiêu độc chuồng trại. Tăng sức đề kháng cho thỏ bằng cách định kỳ

pha vitamin vào thức ăn, nước uống. Đặc biệt vào các thời điểm giao mùa nên sử dụng khỏng sinh để phũng bệnh với liều phũng bằng ẵ liều điều trị.

1.4.4.2. Bệnh viêm ruột truyền nhiễm

Bệnh này do vi trùng nhiều loại, chủ yếu là E.coli nhiễm trong thức ăn, nước uống, khi bú mẹ. Bệnh xảy ra ở các lứa tuổi của thỏ.

Triệu chứng của bệnh là lông xù, không bóng, kém ăn, sốt cao, phân lỏng và thối, đôi khi lẫn dịch nhờn màu trắng, lông quanh hậu môn và vùng bụng bị thấm bết cả dịch thể và phân. Thỏ con 5-10 ngày tuổi nhiễm vi trùng qua đường sữa mẹ hoặc khi bú mẹ cũng làm viêm ruột.

Thể hiện của bệnh là dịch thể, phân lỏng thấm qua hậu môn đến cả vùng bụng nhuộm thành màu vàng.

Bệnh tích: viêm ruột rất điển hình: niêm mạc ruột non dày, có lớp dịch màu vàng – xám nhạt phủ lên, có nhiều điểm kết hạt màu trắng lấm chấm bằng hạt kê dày đặc nổi lên trên lớp niêm mạc. Trong khoang bụng chứa nhiều dich thể màu hồng đỏ. Trên bề mặt các chuỗi hạch thận, lách có những gốc hoại tử nổi lên. Ở niêm mạc ruột già nhiều khi cũng thấy các điểm xuất huyết.

Dựa vào triệu chứng lâm sàng, cần phát hiện bệnh ngay ở giai đoạn đầu để điều trị kịp thời. Dùng Streptomycin pha loãng 1/20 cho uống 2-4 lần/ngày, mỗi lần uống 1-2ml, uống 2-3 ngày liền.

1.4.5. Một số bệnh khác

1.4.5.1. Bệnh viêm tuyến vú, viêm núm vú

Xảy ra trong điều kiện chăn nuôi mất vệ sinh, thỏ mẹ trong giai đoạn cho con bú rất dễ mắc bệnh này.

Nguyên nhân: chủ yếu do sữa đọng lại trong tuyến vú gây viêm, hoặc do nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn từ đồ lót ổ qua núm vú hoặc vết thương ở vú.

Triệu chứng: thỏ bị viêm ở một hay nhiều núm vú hoặc cả tuyến vú, vùng viêm sẽ sưng to, nóng, đỏ da và đau. Trong vú lẫn các chất máu, mủ, đôi khi

hình thành các ổ áp-xe trong tuyến vú. Thỏ mẹ bị viêm vú ít hoạt động, không chịu cho con bú, kém ăn.

Điều trị: Cần phải thay đổi môi trường vệ sinh.

Sử dụng kháng sinh như penicilin tiêm 5.000UI/kg thể trọng/ngày, hặc tiêm streptomycin liều 0,01g/kg thể trọng/ngày liên tục trong 3 ngày.

Phòng bệnh: cải thiện môi trường chăn nuôi tốt hơn. Thường xuyên bổ sung vitamin C cho thỏ uống để tăng cường sức đề kháng.

1.4.5.2. Bệnh nấm da thỏ

Bệnh nấm da hay xảy ra ở đàn thỏ nuôi nhốt nơi ẩm thấp tối tăm hoặc cho ăn thức ăn thô khô hoặc đồ lót ổ đẻ bị mộc.

Bệnh nấm khong làm thỏ ngứa, không tạo thành vảy dày cộp như bệnh ghẻ mà chủ yếu là rụng lông và da hơi sần sùi thành từng mảng tròn nhỏ, rồi lan rộng dần trên mặt ngoài vành tai, sống mũi, mí mắt, trán. Nếu bệnh kéo dài thì thỏ cũng gầy yếu.

Bệnh nấm da thỏ có ý nghĩa về mặt dịch tễ học, vì nấm da thỏ lây lan sang người và gây bệnh nấm ở người rất nguy hiểm. Điều trị bệnh nấm tương tự như điều trị bệnh ghẻ.

Phần II

Một phần của tài liệu Đánh giá khả năng sản xuất của thỏ trắng new zealand nuôi tại trang trại của ông phùng văn toản, xã sơn đông – sơn tây – hà nộ (Trang 37 - 44)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(83 trang)
w