CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG HERPESVIRIDAE

Một phần của tài liệu Vi sinh lâm sàng (sách dich) (Trang 414 - 417)

Acyclovir ganciclovir đều có cấu trúc dạng guanine và chúng có tác dụng chống lại họ herpes. Có một điểm mấu chốt khác biệt giữa chúng. Để trở thành dạng có tác dụng thì acyclovir đầu tiên phải được phosphoryl hóa bởi thymidine kinase – một loại enzym đặc hiệu của virus.

Hầu như họ herpesviridae đều có loại enzym này trong khi các tế bào của con người lại không hề có. Đó là lý do tại sao acyclovir chỉ có tác dụng chống lại herpesviridae và làm hạn chế độc tố đến các tế bào của chúng ta. Một trong những virus thuộc họ herpesviridae, cytomegalovirus (CMV), thiếu enzym thymidine kinase vì thế acyclovir ít có tác dụng lên nhiễm khuẩn do CMV.

Mặt khác, ganciclovir không phụ thuộc vào thymidine kinase trong quá trình phosphoryl hóa. Nó tiêu diệt TẤT CẢ họ herpesviridae bao gồm luôn cả cytomegalovirus. Nó còn gây độc lên một số tế bào của con người có tính sao chép nhanh như là bạch cầu đa nhân trung tính và tiểu cầu (gây ra chứng giảm bạch cầu và tiểu cầu).

Acyclovir

(“A cycle”)

30.2. Hãy nhớ lại rằng ACYCLovir được sử dụng để điều trị các nhiễm khuẩn được gây ra bởi họ herpes, hình dung một chiếc xe đạp (A CYCLE) đang vượt qua những điểm gồ ghề của một vết herpes miệng (herpes cold sore) lớn.

Sử Dụng Trên Lâm Sàng

Các nghiên cứu chỉ ra rằng nếu acyclovir được cho chỉ định từ sớm thì nó sẽ làm giảm mức độ nghiêm trọng và thời gian của tất cả các vết nhiễm khuẩn do herpes simplex và varicella – zoster (V – Z) gây ra, như là giộp môi (nhiễm khuẩn ở da và niêm mạc do herpes simplex), thủy đậu (varicella) và bệnh zona (zoster). Tuy nhiên, vì những nhiễm khuẩn này tự giới hạn và không nghiêm trọng nên hiện nay acyclovir không được khuyến cáo cho những bệnh lý này.

Ở những người có sức đề kháng còn tốt, nó được dành riêng cho những trường hợp nhiễm khuẩn nghiêm trọng hơn như là viêm não do herpes simplex và nhiễm khuẩn ở mắt do herpes simplex và varicella. Ngoài ra, nó còn được khuyến cáo sử dụng cho những trường hợp nhiễm khuẩn đường sinh dục do herpes simplex.

Ở những người bị suy giảm miễn dịch, nó được sử dụng cho hầu hết các trường hợp nhiễm khuẩn do herpes (tổn thương da niêm mạc, thủy đậu, zona).

Acyclovir không được sử dụng cho các trường hợp nhiễm khuẩn do CMV hoặc Epstein – Barr virus.

30.3. Tác dụng phụ rất ít khi xảy ra.

Acyclovir tiêm tĩnh mạch với liều cao (A CYLE) có thể kết tinh ở các ống thận, dẫn đến độc tính lên thận có thể hồi phục.

Khoảng 1% bệnh nhân có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, như là lú lẫn hay co giật.

Famciclovir và Valacyclovir

Đây là 2 loại thuốc có cơ chế tác dụng giống như acyclovir nhưng được công thêm sức mạnh trong việc gia tăng nồng độ của thuốc sau khi được hấp thu bằng đường uống. Trong một nghiên cứu (Tyring, 1995) đã so sánh famciclovir với giả dược (placebo) trong việc điều trị herpes zoster ở người trưởng thành và thấy rằng nó làm giảm thời gian hồi phục vết thương, sự lan truyền của virus và, quan trọng hơn nữa, làm giảm chứng đau dây thần kinh sau herpes gần đến 2 tháng!

Hiện nay những loại thuốc này được chỉ định cho bệnh zona và herpes sinh dục tái phát ở những người có khả năng miễn dịch. Các tác dụng phụ đều nhe, bao gồm đau đầu, buồn nôn, tiêu chảy và chóng mặt.

Ganciclovir và Valganciclovir

(“Gang of cycles”)

Ganciclovir, một hoạt chất tương tự aciclovir, có tác dụng giống như acyclovir, ngoại trừ việc chúng có tác động chống lại CMV nhiều hơn. Valganciclovir là ester L – valyl của ganciclovir và có khả dụng sinh học đường uống tốt hơn.

30.4. Một tốp xe đạp (A GANG OF CYCLES) đang chạy qua HSV, V-Z-V, CMV, EBV và Mr. Neutrophil (bạch cầu đa nhân trung tính) và Mrs. Platelet (tiểu cầu). GANCICLovir có tác dụng lên họ herpesviridae rộng hơn so với acyclovir, nhưng độc tính cũng cao hơn.

Sử Dụng Lâm Sàng

Vì những độc tính của chúng mà ganciclovir và valganciclovir chủ yếu được sử dụng trong việc điều trị nhiễm khuẩn CMV ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch:

1) Bệnh nhân AIDS: Viêm võng mạc, viêm phổi, viêm thực quản do CMV.

2)Bệnh nhân được ghép tủy xương: Viêm phổi do CMV và dự phòng lây nhiễm CMV.

Các tác dụng phụ bao gồm chứng suy giảm bạch cầu đa nhân trung tính và giảm tiểu cầu.

Foscarnet

Hoạt chất có dạng pyrophosphate này gây ức chế polymerase ADN và enzym phiên mã ngược. Nó đã được mở rộng khả năng tác dụng kháng virus, bao gồm herpesviridae và HIV.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh đó là tác dụng kháng virus của loại thuốc này trong việc chống HIV là cực kỳ thấp và không đủ để điều trị hoặc ức chế virus.

Foscarnet được sử dụng cho những bệnh nhận ADIS bị mắc:

1)Viêm võng mạc do CMV.

2) Các chủng của họ herpesviridae đề kháng với acyclovir.

Một tác dụng phụ “to lớn”, nhất là trên những bệnh nhân AIDS, đó là độc tính thận thuận nghịch. Làm tăng khả năng động kinh ở những bệnh nhân có tiền sử động kinh, chấn thương đầu, suy thận hoặc hoặc đang sử dụng đồng thời các loại thuốc có thể làm tăng cơn động kinh.

Cidofovir

Cidofovir là một phosphonate nucleoside dẫn xuất của cytosine. Nó là một trong nhưng loại thuốc mới.Nó chủ yếu được sử dụng cho những bệnh nhân bị nhiễm CMV, nhất là bệnh nhân bị viêm võng mạc. Nó có phổ tác dụng chống lại tất cả các loại virus herpes cũng như các loại virus ADN khác như poxvirus. Nó được sử dụng chủ yếu cho những bệnh nhân đã thất bại khi điều các nhiễm khuẩn do CMV bằng ganciclovir và foscarnet. Độc tính chí của nó là gây tổn thương thận.

Một phần của tài liệu Vi sinh lâm sàng (sách dich) (Trang 414 - 417)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(519 trang)
w