CỦA MỘT LÀNG QUÊ VUỉNG CHAÂU THOÅ SOÂNG HOÀNG
III. HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở ĐỊA PHƯƠNG
Điểm đáng chú ý nhất trước năm 1954 là có rất ít phụ nữ đi học, kể cả ở những trường tư. Ngay cả trong tầng lớp địa chủ, hầu hết phụ nữ cũng đều không biết chữ. Vũ Thiên Vĩnh, một trong những địa chủ giàu nhất của làng Bách Cốc
nói rằng, cả mẹ và 4 chị em gái của ông đều không được học hành. 15 trong số 17 phụ nữ được phỏng vấn cũng chưa bao giờ đi học. Chỉ có 2 người đi học nhưng ở các làng khác(24). Phụ nữ ở Bách Cốc hầu như bị đứng ngoài những hoạt động giáo dục(25). Trong số 15 người được phỏng vấn là nữ, có 7 người đã từng tham gia các lớp Bình dân học vụ (lớp học cho tầng lớp dân nghèo) vào năm 1954. Việc thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đã có một vai trò quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ khỏi tình trạng mù chữ tại Bách Cốc.
2. Giáo dục chính thống
Hệ thống giáo dục dành cho nam giới trong những năm 1930 và 1940 được chia thành 3 hình thức: (1) trường chính thống, (2) trường tư và (3) giáo dục tại nhà. Hình thức thứ ba đóng một vai trò rất quan trọng đối với con em của một số gia đình trí thức bậc cao(26).
a. Trường Bách Cốc
Năm 1930, trường Bách Cốc nằm tại khu vực đình Hợp Cũ và đình làng nay là trường Tiểu học Trần Minh(27, 28). Người làng gọi là Trường Giáo Xuyên, là tên của một giáo viên mà chúng tôi sẽ nói đến ở phần dưới đây, là người đã từng dạy học ở đó từ những năm 1930 đến năm 1947. (Shimao và những người khác, 2001 trang 19).
Theo tài liệu của một người ở Nam Định, hội đồng làng đã quyết định thành lập một trường Tiểu học từ trước năm 1930(29). Trong thời gian này, một số người có quyền lực tại Bách Cốc trong đó có Mõ đã buộc tội Lý trưởng Bùi Huy Thúy về việc liên quan đến quỹ xây trường (Shimao và những người khác, trang 22).
Điều này cho thấy, việc xây dựng trường được coi là một việc của làng.
b. Giáo Xuyên
Thầy Giáo Xuyên, sinh tại Hà Đông, được mời đến dạy tại trường Bách Cốc với tư cách là người đầu tiên (và cũng là người cuối cùng) và là người duy nhất dạy học ở trường. Ông dạy Tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ, toán, địa lý, lịch sử Việt Nam, đạo đức và chính tả cho 100 học sinh(30). Nhà nước trả lương cho ông (Shimao và những người khác, 2001 trang 19) và cung cấp sách giáo khoa cho học sinh. Một phòng học của trường có 6 bàn dài dành cho 5 học sinh.
Trường mở cửa từ thứ hai đến thứ bảy. Cả trường có 2 ca học, ca buổi sáng và ca buổi chiều. Học sinh được chia thành 3 khóa theo độ tuổi dựa trên hệ thống giáo dục của Pháp được hình thành năm 1924. Khóa đầu tiên dành cho trẻ từ 7 đến 9 tuổi (tuổi ta), gọi là lớp Tam (Enfantant), Khóa thứ hai dành cho trẻ từ 10 đến 12 tuổi, gọi là lớp Nhị (Prepatoire) và khóa thứ ba dành cho trẻ trên 15 tuổi gọi là lớp Nhất (Elementaire) (Shimao and others, 2001, trang 6)(31).
c. Đây là trường dành cho tầng lớp trên trung lưu
Hầu hết những người bần nông đều coi trường Bách Cốc là trường của những gia đình giàu có (cao hơn tầng lớp trung lưu) mặc dù trường không thu học phí.
Người được phỏng số 29 tin rằng trường Bách Cốc được xây dựng cho trẻ nhà giàu. Người được phỏng vấn số 73 thì đã từng bị Thày Giáo Xuyên từ chối không cho đến trường vì gia đình ông quá nghèo. Một người khác cũng đã không thể đến trường vì không có giấy khai sinh. Thực tế, chỉ có 9 trong số 75 nguời được phỏng vấn đã từng đi học ở trường Giáo Xuyên. Trong số họ, có 2 người thuộc tầng lớp bần nông(32). Gia đình của những người còn lại đều có quân điền. Trong số đó, người được phỏng vấn số 14, 42 và 44 có tư điền. Rõ ràng là trường Bách Cốc được làng xây dựng cho những người thuộc tầng lớp trên trung lưu.
Đặc điểm thứ hai của trường Bách Cốc, đó là hầu hết những người đã tốt nghiệp của trường đều thoát li khỏi làng. Chúng tôi dự đoán có trên 500 học sinh đã từng học tại trường Bách Cốc trong vòng 17 năm. Nhưng chúng tôi chỉ có thể tìm được 6 trong số đó là còn sống ở làng. Trong số này, chỉ có người được phỏng vấn số 14 đã học hết 3 năm đầu. Những người khác đã bỏ học sau 1 đến 2 năm.
Hầu hết học sinh cũ của Bách Cốc đã thoát ly khỏi làng. Như trên đã nói, mục đích đầu tiên của trường Bách Cốc là đào tạo một thế hệ lãnh đạo mới cho làng từ tầng lớp những người trên trung lưu. Đây là nguyên nhân đầu tiên giải thích vì sao sau năm 1954, khoảng 20 gia đình đã rời khỏi làng Bách Cốc vào miền Nam do họ thuộc nhóm những người ủng hộ Pháp trong thời gian kháng chiến.
Mục đích thứ hai là để tạo bước khởi đầu cho việc thoát ly khỏi làng(33). Hầu hết những người đã học xong ở Bác Cốc đều đã chuyển lên thành thị.
Sự khác biệt đáng nói của trường Bách Cốc so với các trường tư của các Thầy đồ là nó cấp chứng chỉ cho học sinh sau khi hoàn thành khóa học, chẳng hạn Chứng chỉ học hết lớp Tam (Certificat d’Etude Elémentaire) hoặc Chứng Chỉ Sơ học Yếu Lược (Certificat d’Etude Primaire Franco-Indigène). Những người được cấp chứng chỉ này có thể tham gia kỳ thi vào lớp Nhì Đệ nhị (Enseignment Primaire Supérieur) (hay trường trung học cơ sở) ở Nam Định. Việc học sẽ tiếp tục lên cao tới cấp trung học và đại học. Trường chính thống được coi là bước khởi đầu cho việc tham gia vào giới thượng lưu ở ngoài làng.
Hầu hết những người được phỏng vấn đều nói rằng, trường Bách Cốc đóng cửa vào năm 1947 vào thời điểm Pháp xâm chiếm và Thầy Giáo Xuyên đã rời khỏi Gôi, nay là thị trấn của huyện Vụ Bản.(34)
3. Giáo dục tư
a. Các trường Thày đồ
Một hình thức đào tạo cơ sở đóng vai trò quan trọng đối với những người làng là các lớp học tư của các ông thầy giỏi Hán học, gọi là Thầy đồ (thầy giáo dạy chữ Hán). Ở Bách Cốc, có rất nhiều các trường tư nhỏ kiểu này35. Những người được phỏng vấn đã nhắc đến tên của các ông đồ như:
(1) Ông đồ Triều
(2) Ông đồ Nhất hay Cụ Nhất
(3) Ông đồ Long ở Trai Nội (theo người được phỏng vấn số 56) (4) Ông đồ Mợi ở xóm C (theo người được phỏng vấn số 75)
(5) Cụ Chánh Chương ở Phú Cốc (theo người được phỏng vấn số 58) (6) Cụ Thước ở xóm C (theo người được phỏng vấn số 77)
(7) Ông đồ đội ở Ấp Phú (theo người được phỏng vấn số 73) (8) Ông đồ Thuê ở Ấp Phú (theo người được phỏng vấn số 73) (9) Nguyễn Tái Canh ở xóm C (theo người được phỏng vấn số 75)
(10) Nguyễn Thị Quả Liệu ở Cửa Am (xóm C ấp Phú) (theo người được phỏng vaán soá 80)
(11) Ông Kinh ở xóm A (theo người được phỏng vấn số 42) (12) Ông Câu ở xóm B (theo người được phỏng vấn số 8)
(13) Ông Kim ở xóm Cửa Am (theo người được phỏng vấn số 50 và 75) (14) Lương Uy ở xóm Trại Nội (theo người được phỏng vấn số 82) (15) Nguyễn Ích Trang ở xóm A (theo người được phỏng vấn số 82) (16) Thầy Lo ở Phú Cốc (theo người được phỏng vấn số 59)
Tham khảo nghiên cứu của Shimao, có thể tạm kết luận rằng, đã từng có ít nhất 20 trường của các thày đồ ở Bách Cốc và Phú Cốc.
b. Chương trình dạy truyền thống
Quy mô của các trường này rất khác nhau. Lớn nhất là trường ở Ý Yên (của ông đồ Kim) ở xóm Cửa Am, thời đó dạy hơn 20 học sinh (theo người được phỏng vấn số 75). Nhìn chung, các ông đồ không thu học phí. Học sinh trả ơn các ông đồ bằng cách giúp họ một số việc riêng. Chẳng hạn, học sinh của ông Đồ San (Xan) thì giúp ông sửa mái nhà (theo người được phỏng vấn số 55).
Trong trường hợp của người được phỏng vấn số 74, sinh năm 1929 ở Phú Cốc, khi đi học lớp của Cụ Nhất Thước, ông chủ yếu học các sách chữ Hán cổ như Tam Tự Kinh, Luận ngữ, Trung Dung, Đại học, Kinh Thi và Kinh Thư. Các sách này là tài liệu phổ biến ở hầu hết các trường thầy đồ khác.
c. Chương trình dạy hiện đại - chữ Quốc ngữ
Kể từ giữa những năm 20, một vài thày đồ đã bắt đầu dạy chữ Quốc ngữ cho những trẻ không được đi học ở các trường chính thống. Người được phỏng vấn số 60 (sinh năm 1914) ở Phú Cốc đã học chữ Quốc ngữ ở trường Thầy đồ khi oõng leõn 10 tuoồi.
Những năm 1930, Cái Đại ở Trại Nội và Cụ Nhất ở Phú Cốc từng dạy chữ Quốc ngữ (theo người được phỏng vấn số 56, sinh năm 1927 và người được phỏng vấn số 74, sinh năm 1924).
Cùng thời gian đó, người được phỏng vấn số 62 (sinh năm 1926) và số 68 (sinh năm 1929) đã học chữ Quốc ngữ ở Phú Cốc.
d. Đây là những trường dành cho tầng lớp dưới trung lưu
Những người từng học ở các trường thầy đồ cho rằng những trường này cũng cùng cấp với khóa học đầu tiên ở trường Bách Cốc.
Người được phỏng vấn số 50, sinh năm 1929 đã đi học tại trường của ông đồ Kinh hay còn gọi là Học cụ đồ từ năm lên 10 đến năm 13 tuổi. Theo ông thì trình độ của ông là tốt nghiệp lớp Tam.
Còn người được phỏng vấn số 64, sinh năm 1937 ở Phú Cốc thì gọi trường ông học là trường làng.
Có 20 người đã từng học tại các trường Thầy đồ. Trong số đó, 16 người là con trong các gia đình có quân điền, và chỉ 2 trong số đó là thuộc gia đình không có quân điền. Những trường này không được coi là trường học truyền thống do lịch sử để lại nhưng chúng đã có những ý nghĩa tích cực đối với hệ thống giáo dục hiện đại dành cho tầng lớp dưới trung lưu.
e. Phụ nữ đi học
Đặc điểm nổi bật nhất trước năm 1954 là có rất ít phụ nữ đi học, kể cả ở những trường tư. Ngay cả tầng lớp địa chủ, hầu hết phụ nữ cũng không biết chữ.
Vũ Thiên Vĩnh, một trong những địa chủ giàu nhất của làng Bách Cốc nói rằng, cả mẹ và 4 chị em gái của ông đều không được học hành và hoàn toàn không biết chữ. 15 trong số 17 phụ nữ được phỏng vấn cũng chưa bao giờ đến trường.
Chỉ có 2 người trong số đó có đi học nhưng họ lại ở các làng khác(36). Phụ nữ ở Bách Cốc hầu như bị đứng ngoài những hoạt động giáo dục. Trong số 15 phụ nữ có đi học, có 7 người đã từng tham gia các lớp Bình dân học vụ trong năm 1954 (lớp học cho tầng lớp dân nghèo). Việc thành lập nhà nước Xã hội chủ nghĩa đã có một vai trò quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ khỏi tình trạng mù chữ tại Bách Cốc.