STT Diễn giải ĐVT Bình quân chung Lực Hành Nhữ Hán Các xã điều tra
Tổng % 100 100 100 1 Giống % 37,5 35 40 2 Kỹ thuật sản xuất % 12,5 10 15 3 Sâu bệnh phá hoại % 12,5 10 15 4 Giao thông % 17,5 15 20 5 Thiếu lao động % 7,5 15 0 6 Khác % 12,5 15 10
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra (2016) Ở 2 xã điều tra, tỷ lệ hộ đưa ra khó khăn về giống chiếm cao nhất. Thiếu kỹ thuật bảo quản củ giống và thiếu giống để mở rộng diện tích là 2 vấn đề chính dẫn đến khó khăn về giống. Do diện tích gieo trồng xã Nhữ Hán mở rộng nên các hộ sản xuất cũng gặp khó khăn về giống nhiều nhất, chiếm 40% tổng số hộ điều tra gặp khó khăn về giống. Ngược lại xã Lực Hành do có diện tích gieo trồng bình quân/hộ lớn nên tỷ lệ hộ sản xuất gặp khó khăn về giống thấp (chiếm 35%).
Thiếu kỹ thuật sản xuất cũng đang là một khó khăn lớn đối với các hộ sản xuất ở cả 2 xã. Tỷ lệ hộ gặp khó khăn về kỹ thuật sản xuất cao nhất ở Nhữ Hán (chiếm 15%), Lực Hành (chiếm 10%). Khó khăn về kỹ thuật sản xuất chủ yếu là do các hộ sản xuất thiếu kỹ thuật trong các khâu: trồng đúng mật độ, sử dụng đúng loại phân bón và thuốc BVTV, kỹ thuật thu hoạch sản phẩm.
Khó khăn thứ ba mà tác nhân sản xuất đang gặp phải là khó khăn do sâu bệnh hại phá hoại sản xuất. Giống như các xã khác trong huyện, đối tượng phá hại cây dong riềng chính hiện nay là sâu khoang và bọ lẹt. Sở dĩ đây là khó khăn chính vì sự phá hại đó diễn ra thường xuyên, trên diện tích rộng, mặt khác người dân còn thiếu kỹ thuật trong sử dụng đúng biện pháp phòng trừ. Tại xã Nhữ Hán
chưa có hệ thống cung ứng vật tư thuốc BVTV thì tỷ lệ hộ gặp khó khăn này cao hơn, chiếm tỷ lệ 15% so với 10% ở xã Lực Hành.
Ngoài những khó khăn chính trên, các tác nhân sản xuất cũng đang gặp khó khăn về giao thông, thiếu lao động phục vụ sản xuất và những khó khăn khác. 4.2.2.2. Tác nhân thu gom
a. Đặc điểm chung
Tác nhân thu gom đóng vai trò quan trọng đối với chuỗi giá trị như là đầu mối tập trung nguồn nguyên liệu từ tất cả các vùng trồng, là đầu mối cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở sơ chế, chế biến tinh bột dong, miến dong trong và ngoài tỉnh. Do giá củ dong riềng quá rẻ nên không ai chở đi nơi khác để ép lấy tinh bột, dong riềng thường được ép tinh bột ngay tại địa phương nên chúng tôi chỉ nghiên cứu hoạt động thu gom tại Yên Sơn, ngoài phạm vị đó coi như hàng hoá đã chuyển qua tác nhân khác và sẽ được xem xét ở tác nhân sau.
Những người thuộc nhóm tác nhân này thường sinh sống trên địa bàn huyện Yên Sơn. Họ hoạt động với quy mô nhỏ trong phạm vi huyện.