Giới thiệu về báo cáo bộ phận
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của báo cáo bộ phận
Báo cáo bộ phận, hay còn gọi là segment reporting, là yêu cầu theo các chuẩn mực kế toán, bắt buộc các doanh nghiệp công bố thông tin chi tiết về các bộ phận kinh doanh trong báo cáo tài chính của họ.
Yêu cầu minh bạch thông tin từ nhà đầu tư đã vượt qua bảo mật thông tin của doanh nghiệp, dẫn đến quy định của Uỷ ban Giao dịch Chứng khoán Hoa Kỳ năm 1969 bắt buộc công bố thông tin Sự phục tùng của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán tài chính Hoa Kỳ khi ban hành chuẩn mực số 14 (SFAS 14) vào năm 1976 cũng đã yêu cầu trình bày báo cáo bộ phận, khẳng định tầm quan trọng của minh bạch trong lĩnh vực tài chính.
Vào năm 1981, Uỷ ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) đã ban hành IAS 14, quy định về "Báo cáo thông tin tài chính theo bộ phận" Đến năm 1997, IASC tiếp tục cập nhật và phát triển IAS 14 nhằm nâng cao tính minh bạch và khả năng so sánh trong báo cáo tài chính.
Chuẩn mực IFRS 8 “Báo cáo bộ phận” đã thay thế IAS 14 (1981) và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 trong khuôn khổ hội tụ kế toán với Hoa Kỳ Kể từ thời điểm đó, chuẩn mực này đã trải qua một số cập nhật và chỉnh sửa nhỏ.
Việc xây dựng chuẩn mực kế toán Việt Nam bắt đầu từ năm 1996, nhằm mục tiêu hội nhập với chuẩn mực quốc tế và hỗ trợ nền kinh tế thị trường đang phát triển Được sự hỗ trợ từ Liên minh Châu Âu và các chuyên gia, đến cuối năm 2001, Việt Nam đã ban hành bốn chuẩn mực kế toán đầu tiên.
Chuẩn mực kế toán số 28 về Báo cáo bộ phận được ban hành theo Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15 tháng 02 năm 2005 của Bộ Tài Chính Hơn một năm sau, vào ngày 20 tháng 03 năm 2006, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 20/2006/TT-BTC để hướng dẫn chi tiết cho Quyết định số 12, bao gồm các nội dung liên quan đến báo cáo bộ phận.
1.1.2 Nội dung cơ bản của các quy định về báo cáo bộ phận tại Việt Nam
Chuẩn mực 28 quy định nguyên tắc và phương pháp lập báo cáo tài chính theo từng bộ phận, lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý khác nhau của doanh nghiệp, nhằm hỗ trợ người sử dụng báo cáo tài chính.
Hiểu rõ về tình hình hoạt động các năm trước của doanh nghiệp;
Đánh giá đúng về những rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp;
Đưa ra những đánh giá hợp lý về doanh nghiệp
Chuẩn mực này áp dụng cho các doanh nghiệp đã phát hành, niêm yết hoặc chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp không phát hành chứng khoán công khai tuân thủ.
Chuẩn mực kế toán số 28 quy định rằng một bộ phận cần báo cáo có thể được xác định theo lĩnh vực kinh doanh hoặc theo khu vực địa lý, dựa trên các định nghĩa cụ thể.
Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh được xác định dựa trên các sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm có đặc điểm tương đồng về tính chất, quy trình sản xuất, nhóm khách hàng và phương pháp phân phối.
Bộ phận theo khu vực địa lý được xác định dựa trên các yếu tố tương đồng trong môi trường kinh doanh, bao gồm điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và vị trí địa lý.
Các loại báo cáo bộ phận
Báo cáo bộ phận được phân thành hai loại: báo cáo bộ phận chính yếu và báo cáo bộ phận thứ yếu Báo cáo bộ phận chính yếu được lập theo lĩnh vực kinh doanh, trong khi báo cáo bộ phận thứ yếu được lập theo khu vực địa lý Ngược lại, nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập theo khu vực địa lý, báo cáo bộ phận thứ yếu sẽ được lập theo lĩnh vực kinh doanh Điều kiện lập báo cáo bộ phận là yếu tố quan trọng cần xem xét.
Một lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý sẽ được xác định là bộ phận phải báo cáo khi đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí sau đây.
Doanh thu từ việc bán hàng ra ngoài và giao dịch giữa các bộ phận cần chiếm ít nhất 10% tổng doanh thu của tất cả các bộ phận.
Kết quả kinh doanh của một bộ phận sẽ được xem là quan trọng nếu lãi hoặc lỗ của nó chiếm từ 10% trở lên trong tổng lãi của tất cả các bộ phận có lãi, hoặc trong tổng lỗ của tất cả các bộ phận lỗ, với điều kiện giá trị tuyệt đối của đại lượng nào lớn hơn.
Xây dựng giả thiết
Đề tài này tập trung vào việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc lập báo cáo bộ phận, từ đó xây dựng giả thuyết nghiên cứu và xác định các biến số cho khảo sát Hai nhân tố chính được khảo sát là tài chính và quản trị, bao gồm các yếu tố như quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời, độ phân tán quyền sở hữu, quyền điều hành công ty và vai trò của công ty kiểm toán.
Giả thiết được phát triển dựa trên các yếu tố đã được nghiên cứu trên toàn cầu, đồng thời xem xét thêm các yếu tố ảnh hưởng đến việc lập báo cáo chi phí bảo trì (BCBP) tại Việt Nam Để kiểm chứng giả thiết một cách khách quan và khoa học, các yếu tố này cần đáp ứng các tiêu chí nhất định.
Dữ liệu phải có sẵn, dễ dàng ghi nhận
Các nhân tố dễ dàng đo lường cho mục đích phân tích thống kê
Trên cơ sở đó, nghiên cứu chọn lựa các giả thiết và xác định câu hỏi nghiên cứu như sau:
Khả năng sinh lời (profitability)
Khả năng sinh lời là chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng đầu tư, với những công ty có khả năng sinh lời cao thường thu hút nhiều nhà đầu tư hơn Nhà đầu tư cần thông tin chi tiết về hoạt động của công ty để giảm thiểu rủi ro từ thị trường và tối đa hóa lợi nhuận Việc cung cấp thông tin đầy đủ sẽ đáp ứng nhu cầu của cả nhà đầu tư và công ty.
Công ty có khả năng sinh lời cao thường cung cấp thông tin bộ phận nhiều hơn Đòn bẩy tài chính, biểu thị khả năng thanh toán nợ, càng cao thì khả năng thanh toán càng thấp, là chỉ tiêu quan trọng đối với chủ nợ Nó giúp đánh giá rủi ro và mức độ sinh lời của công ty Theo lý thuyết đại diện, lợi ích của cổ đông và chủ nợ thường mâu thuẫn; cổ đông muốn tối đa hóa giá trị tài sản qua các hoạt động sinh lời cao nhưng rủi ro, trong khi chủ nợ không được hưởng lợi tương ứng nhưng phải chia sẻ rủi ro Việc cung cấp thông tin bộ phận chi tiết có thể giúp giảm bớt mâu thuẫn này.
Nghiên cứu của Salamon và Dhaliwal (1980), Bradbury (1992) và Giner (1997) đã chỉ ra mối liên hệ giữa đòn bẩy tài chính và việc cung cấp thông tin bộ phận.
Các công ty có chỉ tiêu đòn bẩy tài chính cao thường cung cấp nhiều thông tin chi tiết hơn về các bộ phận của mình so với những công ty có đòn bẩy tài chính thấp Điều này cho thấy mối liên hệ giữa mức độ đòn bẩy tài chính và sự minh bạch trong việc công bố thông tin doanh nghiệp.
Chi phí lập báo cáo bộ phận là một thách thức lớn đối với các công ty nhỏ Để giảm thiểu chi phí, nhiều công ty nhỏ chọn cách công bố thông tin bộ phận ở mức tối thiểu, thậm chí không lập báo cáo Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối quan hệ rõ ràng giữa quy mô công ty và việc trình bày, cung cấp thông tin bộ phận (Ball và Foster, 1982; Firth, 1979).
Từ những lý do trên, đề tài xây dựng giả thuyết nghiên cứu sau:
Giả thiết H3: Chất lượng báo cáo bộ phận bị ảnh hưởng bởi yếu tố quy mô công ty Mức độ phân tán quyền sở hữu (ownership diffusion)
Khi quyền sở hữu của công ty phân tán giữa nhiều nhà đầu tư, khoảng cách giữa cổ đông và Hội đồng quản trị cùng Ban điều hành sẽ gia tăng, dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng cao hơn Để giảm thiểu sự bất cân xứng này, việc báo cáo thông tin bộ phận và các thông tin kế toán tài chính khác trở nên cần thiết.
Nghiên cứu của McKinnon và Dalimunthe (1993), Giner (1997) và Wan-Hussin (2009) đã xác nhận mối quan hệ rõ ràng giữa mức độ phân tán quyền sở hữu và việc cung cấp thông tin bộ phận.
Giả thuyết H4: Công ty có tỷ lệ cổ đông không nằm trong cổ đông lớn (nhỏ hơn 5%) cao có xu hướng lập báo cáo bộ phận
Cấu trúc vốn là yếu tố quan trọng mà cổ đông quan tâm khi đầu tư vào công ty, với lợi nhuận là mục tiêu chính Đặc biệt, khi cổ đông là tổ chức, sự quan tâm này không chỉ thuộc về cá nhân mà còn đại diện cho một nhóm Điều này biến đầu tư thành một lĩnh vực kinh doanh, vì vậy mọi hoạt động liên quan đến kinh doanh đều phải được kiểm soát chặt chẽ thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch.
Giả thuyết H5: Công ty có tỷ lệ cổ đông là tổ chức lớn có xu hướng lập BCBP Mức độ điều hành công ty
Trong công ty, sự bất cân đối thông tin giữa ban quản lí và ban điều hành gia tăng khi tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị giảm Sự tách biệt giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc điều hành yêu cầu Hội đồng quản trị cần có các chuyên gia về kế toán và kiểm toán để kiểm tra và xác nhận kết quả hoạt động của Ban giám đốc Để quản lý hiệu quả, Hội đồng quản trị giám sát mọi hoạt động của công ty thông qua thông tin từ báo cáo bộ phận, điều này đòi hỏi công ty phải cung cấp thông tin bộ phận một cách đầy đủ và rõ ràng.
Giả thiết H6: Tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị điều hành công ty càng nhỏ sẽ đòi hỏi việc lập BCBP càng lớn
Theo quy định của Bộ Tài Chính về công bố thông tin trên TTCK, các công ty niêm yết phải công bố BCTC đã được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán được chấp thuận, nhằm nâng cao tính trung thực và chính xác của số liệu, bảo vệ quyền lợi của người sử dụng thông tin Các công ty kiểm toán lớn yêu cầu thông tin cao hơn, đòi hỏi các công ty niêm yết phải trình bày thông tin đầy đủ và minh bạch Do đó, việc lập BCBP của các công ty niêm yết bị ảnh hưởng bởi công ty kiểm toán Tại Việt Nam, các công ty kiểm toán được phân loại thành hai nhóm: Big4 (Ernst & Young, Deloitte, KPMG và PricewaterhouseCoopers) và non-Big4.
Giả thiết H7 cho rằng các công ty có báo cáo tài chính (BCTC) được kiểm toán bởi các công ty Big4 sẽ cung cấp thông tin bộ phận chi tiết hơn so với các công ty được kiểm toán bởi các công ty không thuộc Big4 Điều này cho thấy sự khác biệt trong mức độ minh bạch và chất lượng thông tin tài chính giữa hai nhóm công ty này.
Phương pháp nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu ban đầu bao gồm 310 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể là HNX và HOSE, và không tính các công ty niêm yết trên sàn OTC, UPCOM và các sàn khác Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2011 của các công ty này.
Để đảm bảo bài nghiên cứu đạt kết quả khách quan và độ tin cậy cao, các công ty trong mẫu nghiên cứu phải đáp ứng những tiêu chí nhất định Những công ty không đáp ứng các tiêu chí này sẽ bị loại trừ khỏi nghiên cứu.
Các công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, bất động sản, ngân hàng, công ty chứng khoán và quỹ đầu tư có những đặc điểm khác biệt so với các công ty phi tài chính, do đó không thể thực hiện so sánh trực tiếp giữa chúng.
Các công ty gặp lỗ trong kinh doanh hoặc không cung cấp đầy đủ báo cáo tài chính theo quy định trong các năm 2010, 2011, 2012 thường là những công ty mới thành lập, mới cổ phần hóa hoặc không hoạt động liên tục Do đó, báo cáo tài chính của những công ty này có những đặc điểm khác biệt và khó đánh giá.
Trong quá trình sàng lọc, 310 công ty đã được xem xét, và cuối cùng, 135 công ty niêm yết 100% trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bao gồm HNX và HOSE, đã được chọn làm mẫu nghiên cứu.
Các công ty được chia thành hai nhóm: nhóm lập BCBP (50 công ty) và nhóm không lập BCBP (85 công ty) Các số liệu thống kê mô tả tình hình lập BCBP theo các yếu tố khác nhau, cùng với các khảo sát nhằm xác định mối quan hệ giữa các yếu tố và việc lập BCBP, đã được thực hiện thông qua kiểm định so sánh giữa hai nhóm này.
Nghiên cứu chọn 1 biến phụ thuộc với 2 giá trị:
Công ty lập báo cáo bộ phận (giá trị 1) hoặc không lập báo cáo bộ phận (giá trị 0)
Nghiên cứu sử dụng 7 biến định lượng và 1 biến định tính để tìm mối tương quan với biến phụ thuộc (bảng 2.2-1)
Bảng 2.2-1: Thống kê các biến sử dụng và thước đo
Tên biến Loại biến Mô tả Thước đo
KNSL1 Định lượng Khả năng sinh lời 1
KNSL2 Định lượng Khả năng sinh lời 1
Căn bậc hai giá trị ROA
QMCT Định lượng Quy mô công ty Logarit giá trị tài sản
DBTC Định lượng Đòn bẩy tài chính
Căn bậc hai tỷ số nợ
TLCD Định lượng Tỷ lệ cổ phần cổ đông không phải cổ đông lớn
Số cổ phần cổ đông không phải cổ đông lớn/tổng cổ phần
CDTC Định lượng Tỷ lệ cổ đông tổ chức
Số cổ phần cổ đông tổ chức/tổng cổ phần
TVHDQT Định lượng Tỷ lệ thành viên
Số thành viên HĐQT không điều hành/số thành viên HĐQT
CTKT Định tính Công ty kiểm toán
Phân tích tương quan giữa biến phụ thuộc và biến độc lập
Việc lựa chọn mô hình phân tích tương quan hai biến nào để kiểm tra mối quan hệ trong giả thuyết phụ thuộc vào hai yếu tố
Nội dung giả thiết sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn loại kiểm định được sử dụng là kiểm định mối liên hệ hay kiểm định sự khác biệt
Mức độ thỏa mãn các giả định là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện kiểm định tham số (Parametric test) Khi các giả định được đáp ứng, kiểm định tham số trở thành một công cụ mạnh mẽ Ngược lại, nếu các giả định không được thỏa mãn, cần áp dụng kiểm định phi tham số (Nonparametric test) với các yêu cầu ít nghiêm ngặt hơn Nghiên cứu này kết hợp cả hai loại kiểm định tham số và phi tham số để kiểm tra các giả thuyết.
Đối với các giả thuyết liên quan đến biến định lượng, H1 đến H6 cần kiểm định trung bình giữa các nhóm phân chia theo biến phụ thuộc Nghiên cứu áp dụng kiểm định trung bình tham số (Independent-samples T-test) và phi tham số (Mann-Whitney test) để kiểm tra sự bằng nhau về trị trung bình của hai tổng thể từ hai mẫu độc lập Đối với giả thuyết H7, nghiên cứu sử dụng kiểm định Chi-bình phương để kiểm tra mối liên hệ giữa hai biến định danh.
Bảng 2.2-2: Thống kê mô hình phân tích đơn biến độc lập
STT Tên biến Đo lường Giả thiết
Phương pháp kiểm định Tham số Phi tham số
1 KNSL1 Logarit giá trị ebit H1 Independent- samples T-test
2 KNSL2 Căn bậc hai giá trị
3 QMCT Logarit giá trị tài sản H2 Independent- samples T-test
4 DBTC Căn bậc hai tỷ số nợ H3 Independent- samples T-test
5 TLCD Số cổ phần cổ đông không phải cổ đông lớn/tổng cổ phần
6 CDTC Số cổ phần cổ đông tổ chức/tổng cổ phần
7 TVHDQT Số thành viên HĐQT không điều hành/số thành viên HĐQT
8 CTKT Biến giả Non-big4
H7 Kiểm định chi bình phương
Phân tích quan hệ đa biến được thực hiện thông qua phương pháp phân tích biệt số hai nhóm và phương pháp hồi quy logistic nhị phân, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về dữ liệu nghiên cứu.
Phương pháp phân tích biệt số hai nhóm giúp đánh giá đồng thời ảnh hưởng của các yếu tố và mức độ tác động của chúng đến việc lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Mô hình phân tích biệt số:
D = b0 + b1 KNSL 1 + b2 KNSL 2 + b3 DBTC+ b4 QMCT + b5TLCD + b6 TVHDQT
bi = hệ số hay trọng số phân biệt
Phương pháp Binary Logistic ước lượng xác suất xảy ra của một sự kiện dựa trên biến phụ thuộc nhị phân với hai giá trị 0 hoặc 1 Để đánh giá độ phù hợp của mô hình, chỉ số -2LL được sử dụng, với giá trị càng nhỏ thể hiện mô hình càng phù hợp.
Hai phương pháp này đều tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đồng thời Nghiên cứu áp dụng cả hai phương pháp nhằm so sánh mức độ tác động của các yếu tố lên biến phụ thuộc khi chúng xuất hiện cùng lúc.
Trong nghiên cứu, mẫu được chia ngẫu nhiên thành hai loại: mẫu phân tích và mẫu kiểm tra, với số lượng phần tử trong mỗi mẫu tương ứng với tỷ lệ công ty lập báo cáo bộ phận trong hai nhóm gần bằng nhau Phương pháp ước lượng áp dụng là phương pháp trực tiếp, trong đó các biến được đưa vào cùng một lúc để so sánh với kết quả phân tích tương quan đã thực hiện trước đó.
Để đánh giá sự phù hợp giữa các biến định lượng, nghiên cứu đã tính toán giá trị skewness và kurtosis Kết quả cho thấy các biến khảo sát có mức độ không đối xứng cao và lệch đáng kể so với phân phối chuẩn.
Bảng 2.2-3: Thống kê mô tả về 4 biến định lượng giá trị
Biến Giá trị nhỏ nhất
Trung bình cộng Độ lệch chuẩn
Để giảm bớt sự chênh lệch trong các chỉ số tài chính như ROA, các biến có giá trị dương như tài sản và EBIT sẽ được log hóa nhằm tăng độ tin cậy của kết quả nghiên cứu Đối với tỷ số nợ và ROA có giá trị 0, chúng sẽ được biến đổi bằng cách sử dụng căn bậc hai Các biến định tính sẽ giữ nguyên giá trị khảo sát gốc ban đầu.
Kết quả nghiên cứu
Khảo sát 135 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện nay cho thấy chỉ có 50 công ty, chiếm 37,04%, thực hiện báo cáo bền vững một cách nghiêm túc Tuy nhiên, số lượng này vẫn hạn chế và bao gồm cả những công ty lập báo cáo một cách sơ sài, mang tính chất "chiếu lệ".
Bảng 2.3-1: Thống kê mức độ lập báo cáo bộ phận
Kết quả cho thấy việc lập và trình bày thông tin BCBP chưa được thực hiện đồng bộ, với chỉ một số ít đơn vị tuân thủ quy định Hơn nữa, hiện chưa có cơ chế giám sát và kiểm tra để đảm bảo việc cung cấp thông tin từ các bộ phận.
Bảng 2.3-2 trình bày thống kê mô tả kết hợp với kiểm định tương quan các biến định lượng với biến phụ thuộc là việc lập BCBP
Bảng 2.2-2: Ảnh hưởng các biến định lượng đến lập báo cáo bộ phận
Biến Trung bình Độ lệch chuẩn
Sig (2-tail) T-test MW test
* Hệ số tương quan với mức ý nghĩa 0.05
Cả hai phương pháp kiểm định tham số (T-Test) và phi tham số (Mann Whitney) đều cho thấy biến tác động của khả năng sinh lời 2 (KNSL2) có mối tương quan rõ ràng với việc lập báo cáo tài chính (BCTC) Trong khi đó, các biến như đòn bẩy tài chính (DBTC), quy mô công ty (QMCT), mức độ phân tán quyền sở hữu (TLCP), mức độ điều hành (TVHDQT) và cấu trúc vốn (CDTC) không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa.
Bảng 2.3-4 cung cấp thống kê mô tả và kiểm định tương quan giữa các biến định tính và biến phụ thuộc liên quan đến việc cung cấp thông tin bộ phận.
Bảng 2.3-3: Ảnh hưởng các biến định tính đến chính sách kế toán
Công ty kiểm toán non-Big4 70 15 85
Kết quả trên bước đầu cho thấy:
Việc lập báo cáo bộ phận của công ty một phần nhằm đáp ứng yếu cầu của công ty kiểm toán
Các doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao muốn thu hút nhà đầu tư sẽ tăng cường việc cung cấp thông tin qua báo cáo bộ phận
Biến quy mô, đòn bẩy tài chính, mức độ phân tán quyền sở hữu và mức độ điều hành của hội đồng quản trị đều có tác động không mạnh đến quyết định lập hay không lập báo cáo bộ phận (BCBP) Cần thực hiện kiểm tra sâu hơn các biến này để đánh giá ảnh hưởng của chúng đến việc cung cấp thông tin bộ phận.
Kết quả phân tích cho thấy mối tương quan giữa các biến độc lập và phụ thuộc trong công ty Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của các yếu tố này có thể thay đổi tùy thuộc vào điều kiện cụ thể Bằng cách áp dụng đồng thời hai mô hình phân tích, bao gồm mô hình phân tích biệt số 2 nhóm và mô hình hồi quy Binary Logistic, nghiên cứu sẽ kiểm định các giả thiết ban đầu và cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác động của các biến.
Mô hình phân tích biệt số 2 nhóm
Bảng 2.3-4 thể hiện mức ý nghĩa tác động đến việc lập BCBP khi đưa đồng thời các biến vào cùng một mô hình xem xét tác động tổng quan
Bảng 2.3-4: Phân tích mô hình biệt số 2 nhóm
Biến Wilks' Lambda df1 df2 Sig
Theo phân tích từ mô hình biệt số 2 nhóm, các yếu tố tài chính như KNSL2 và QMCT có ảnh hưởng lớn đến việc lập báo cáo tài chính, trong khi không có biến quản trị nào cho kết quả có ý nghĩa.
Bảng 2.3-5 cho thấy mức ý nghĩa của mô hình phân tích thực hiện theo tiêu chuẩn Wilks’ Lambda
Mô hình Wilk’s lambda Chi-square df Sig
Theo đó, với mức ý nghĩa 0,032 nhỏ hơn so với 0,05 cho phép kết luận rằng mô hình giải thích có ý nghĩa
Mô hình phân tích biệt số hai nhóm xác định hai biến ảnh hưởng đến việc công khai thông tin bộ phận, với bảng thể hiện hệ số chuẩn hóa của hàm phân biệt Hệ số này phản ánh mối quan hệ và mức độ đóng góp của các biến vào hàm phân biệt.
Bảng 2.3-6: Bảng độ chuẩn hóa H
Biến Hệ số chuẩn hóa (H)
Hệ số chuẩn hóa H giúp xác định và xếp hạng các nhân tố ảnh hưởng theo mức độ quan trọng, cho thấy xu hướng tác động của các biến từ cao xuống thấp Dấu âm (-) trong hệ số này biểu thị mối quan hệ nghịch giữa biến độc lập và biến phụ thuộc.
Quy mô công ty, được đo bằng logarit giá trị tài sản, có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến việc lập báo cáo bộ phận, với hệ số 0,641 Điều này cho thấy rằng các công ty có quy mô lớn thường có xu hướng thực hiện báo cáo bộ phận một cách tích cực.
Khả năng sinh lời được đo lường bằng logarit giá trị EBIT có ảnh hưởng lớn thứ hai đến giá trị H dương (0,460), cho thấy rằng khả năng lập báo cáo tài chính bền vững (BCBP) của công ty cao khi tỷ lệ sinh lời của công ty lớn.
Biến công ty kiểm toán được phân chia thành hai loại: Big4 có giá trị 1 và non-Big4 có giá trị 0, với tỷ số H dương là 0,23 Điều này cho thấy biến này có tác động tích cực đến việc cung cấp thông tin bộ phận, mặc dù mức độ ảnh hưởng yếu hơn so với hai biến trước đó.
Trong phần này, cần lưu ý một mâu thuẫn giữa KNSL 1 và KNSL 2, cả hai đều thể hiện khả năng sinh lời nhưng KNSL 1 không mang lại kết quả có ý nghĩa Điều này giải thích tại sao các công ty có khả năng sinh lời cao lại muốn thu hút nhà đầu tư thông qua báo cáo bộ phận Tuy nhiên, một số trường hợp có thể gây bất lợi cạnh tranh cho công ty, dẫn đến việc doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc lập báo cáo bộ phận.
Mô hình phân tích biệt số 2 nhóm cho thấy khả năng dự đoán chính xác chưa cao, với tỷ lệ dự báo đúng đạt 73,5% trên mẫu phân tích và chỉ 52,5% trên mẫu kiểm tra Điều này cho thấy rằng phương trình trong mô hình chưa đủ tin cậy và thuyết phục.
Bảng 2.2-7: Khả năng dự báo chính xác của mô hình
Không lập BCBP Lập BCBP
Mẫu phân tích Số lượng
Mẫu kiểm tra Số lượng
Không lập BCBP Lập BCBP
Mẫu phân tích Số lượng
Mẫu kiểm tra Số lượng
Lập 76,0 24,0 100,0 a 73,5% của mẫu phân tích dự báo chính xác b 52,2% của mẫu kiểm tra dự báo chính xác
Mô hình hồi quy Binary Logistic
Bảng 2.3-8 thể hiện mức độ phù hợp tổng quát của mô hình trong việc phân tích dữ liệu
Bảng 2.3-8: Độ phù hợp tổng quát
Giá trị -2LL đạt 0,925 cho thấy độ phù hợp của mô hình tổng thể chưa cao Tuy nhiên, với mức ý nghĩa sig.=0,018 nhỏ hơn 0,05, kết quả tiếp theo vẫn có ý nghĩa, vì vậy nghiên cứu quyết định sử dụng kết quả của mô hình này.
Mức độ chính xác của dự báo cũng thể hiện qua bảng phân loại sau:
Bảng 2.3-9: Độ chính xác của dự báo
Mẫu phân tích Mẫu đánh giá
Không lập Lập Không lập Lập
Kết quả dự báo mẫu phân tích với tỷ lệ chính xác 76,5 %, kết quả dự báo mẫu đánh giá với tỷ lệ chính xác 55,2 %,
Đánh giá chung
CMKT số 28 về Báo cáo bộ phận của Bộ Tài Chính, ban hành năm 2005, vẫn đang gặp nhiều vấn đề trong việc thực thi Đến nay, BCBP vẫn là khái niệm mới, chưa được các công ty áp dụng đầy đủ, và nhiều đối tượng sử dụng vẫn thiếu hiểu biết về nó Theo khảo sát 135 công ty niêm yết trên sàn VN HNX và HOSE, chỉ có 50 công ty trình bày BCBP, trong đó nhiều công ty chỉ thực hiện một cách hình thức với chất lượng thấp Điều này cho thấy sự thiếu hướng dẫn chi tiết từ CMKT và sự thiếu hiểu biết của doanh nghiệp về vai trò của BCBP Hơn nữa, tài liệu và nghiên cứu về BCBP tại Việt Nam còn hạn chế, cho thấy đây là một vấn đề nghiên cứu mới mẻ và chưa được khai thác nhiều trong lĩnh vực kế toán.
3.1 Các giải pháp mang tính chính sách
Để cải thiện việc công bố thông tin bộ phận trên báo cáo tài chính (BCTC), cần thiết phải triển khai các giải pháp hiệu quả Trong khuôn khổ hiểu biết của tác giả, một số giải pháp khả thi có thể được áp dụng để thúc đẩy quá trình này.
Các hướng dẫn chi tiết cho việc lập báo cáo bộ phận giúp giảm chi phí thực hiện Nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đến quy trình lập báo cáo, cho thấy các công ty lớn thường có nguồn lực tốt hơn để thực hiện công việc này.
Cần tăng cường giám sát từ cơ quan quản lý Nhà nước để đảm bảo các doanh nghiệp thuộc đối tượng bắt buộc phải chú trọng đến việc lập báo cáo bộ phận.
Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán là điều cần thiết, vì nghiên cứu cho thấy rằng biến công ty kiểm toán ảnh hưởng đến việc cung cấp báo cáo bộ phận Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát thị trường chứng khoán.
3.2 Các hạn chế của đề tài Được thực hiện trong thời gian ngắn, cỡ mẫu chưa cao nên kết quả còn những hạn chế Việc khảo sát về ngành nghề là một nội dung quan trọng cũng chưa được xem xét trong nghiên cứu này Ngoài ra, tác giả còn lúng túng trong việc xác định nhân tố về hoạt động đa ngành, có khả năng sẽ tác động lớn đến thuyết minh về thông tin bộ phận
Bộ Tài chính, Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15 tháng 2 năm 2005
Bộ Tài chính, Thông tư số 20/2006/TT-BTC
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, Nhà xuất bản Hồng Đức
Vũ Hữu Đức, Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán, Nhà xuất bản lao động, 2010
Ball, R., và G Foster 1982 Corporate financial reporting: A methodological review of empirical research Supplement to Journal of Accounting Research
Bradbury, M.E 1992 Voluntary disclosure of financial segment data: New Zealand evidence Accounting and Finance
Craswell, A.T và S.L Taylor 1992 Discretionary disclosure of reserves by oil and gas companies: An economic analysis Journal of Business Finance and Accounting
Dan S Dhaliwal, Fratern M Mboya and Russell M Barefield, Utilization of SFAS No 14
Disclosures in Assessing Operating Risk, Journal of Accounting and Public Policy, 2, 83-
Laureen A Maines, Linda S McDaniel and Mary S Harris, Implications of Proposed Segment Reporting Standards of Financial Analysts’ Investment Judgments, Journal of
McKinnon, J.L & Dalimunthe, L 1993 Voluntary disclosure of segment information by
Australian diversified companies Accounting and Finance
Nguyễn Thị Phương Thúy, 2011 Báo cáo bộ phận: Thực trạng và giải pháp Luận văn cao học, Trường Đại học Kinh tế TPHCM
Salamon, G.L & Dhaliwal, D.S 1980 Company size and financial disclosure requirements with evidence from the segmental reporting issue Journal of Business
Watts, R.L và J.L Zimmerman 1978 Towards a positive theory of the determination of accounting standards The accounting review.