Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Trong bối cảnh hạn chế về thời gian và nguồn lực, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích và kế thừa kiến thức từ 6 đề tài nghiên cứu trước, nhằm bổ sung cho đề tài "Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một" Đặc biệt, cuộc điều tra quy mô toàn quốc với 1350 phiếu khảo sát, trong đó có 516 phiếu gửi đến học sinh sinh viên và 337 phiếu dành cho phụ huynh, đã cung cấp những thông tin quý giá cho nghiên cứu của chúng tôi.
497 phiếu cho người lớn) ở 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Đà
Nghiên cứu của Vũ Dương Thúy Ngà (2012) cho thấy 59% học sinh sinh viên (HSSV) và 56,8% người lớn tại Việt Nam quan tâm đến việc đọc sách Sự khác biệt trong nhu cầu đọc giữa HSSV và người lớn xuất phát từ độ tuổi, địa vị và động lực đọc HSSV chủ yếu đọc để bổ sung kiến thức học tập (22%), trong khi người lớn có nhu cầu giải trí cao hơn, với 22% chọn sách văn hóa nghệ thuật Tuy nhiên, 43% HSSV gặp khó khăn do thư viện mở cửa trùng với giờ học, và 30% cho rằng nguồn sách của thư viện còn hạn chế Điều này cho thấy nhu cầu đọc sách vẫn tồn tại, nhưng HSSV cần sách phục vụ học tập để phát triển kiến thức và nhân cách Để cải thiện tình hình, cần chú trọng đến ba giải pháp: nâng cao nhận thức về văn hóa đọc, giáo dục thói quen và kỹ năng đọc cho HSSV, và tăng cường cơ sở vật chất cũng như chất lượng hoạt động của thư viện.
Nghiên cứu của Ngô Hà Thủy Ngân về "Văn hóa đọc của sinh viên trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII) trước ngưỡng cửa công nghệ thông tin" cho thấy chỉ 18,2% sinh viên sử dụng thiết bị công nghệ để tìm kiếm sách báo, trong khi hơn 80% sinh viên được khảo sát sử dụng công nghệ cho nhu cầu giải trí và các mục đích khác Mặc dù bị ảnh hưởng bởi văn hóa nghe nhìn, văn hóa đọc vẫn chiếm tỷ lệ 81,8% Đáng chú ý, 100% sinh viên thích đọc sách, trong khi những sinh viên không thích sách thì ít quan tâm đến chúng Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 59,9% sinh viên dành từ 0-2 giờ cho việc đọc sách, với 63,6% chọn đọc theo nhu cầu tìm kiếm thông tin phục vụ học tập, và 20,5% theo sở thích cá nhân Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm hiểu nguyên nhân khiến sinh viên không quan tâm đến việc đọc sách, với tỷ lệ 34,1%.
Nghiên cứu cho thấy rằng nhiều sinh viên vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đọc sách, với 29,5% chỉ mong muốn tiếp thu kiến thức từ giảng đường và một phần lớn thừa nhận lười đọc Dù có 61,4% sinh viên cho rằng họ có khả năng nắm bắt nội dung và vận dụng vào thực tế, nhưng vẫn tồn tại nhiều rào cản đối với văn hóa đọc Các vấn đề như cơ sở vật chất và tài chính hạn chế, thư viện trường không đáp ứng đủ nhu cầu sách (93,2%), ảnh hưởng từ văn hóa mạng, thời gian hạn hẹp và phương pháp giáo dục tại trường phổ thông chưa khuyến khích thói quen đọc sách vẫn là những thách thức lớn.
Cao Xuân Liễu đã tiến hành nghiên cứu nhằm khám phá kỹ năng đọc sách của sinh viên, bên cạnh các nghiên cứu hiện có về thực trạng đọc sách trong cộng đồng sinh viên.
“Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học” khi khảo sát
Nghiên cứu thực trạng đọc sách của 120 sinh viên năm 2 chuyên ngành Tâm lý học tại Học viện Quản lí Giáo dục cho thấy thời gian đọc sách chủ yếu diễn ra sau khi nghe giảng, chiếm 53,3% Hơn 40% sinh viên chỉ ghi nhớ thông tin trong đầu, trong khi 18,3% không ghi chép mà chỉ đánh dấu tài liệu Các hoạt động quan trọng như ghi lại ý kiến so sánh và lập đề cương chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp, lần lượt là 2,5%, 3,3% và 6,8% Để cải thiện kỹ năng đọc sách chuyên ngành, tác giả đã tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm Kết quả cho thấy việc cung cấp kiến thức về sách và luyện tập thường xuyên đã nâng cao các kỹ năng như xác định nội dung chính, phân tích sự kiện và mô hình hóa nội dung tài liệu, từ đó cải thiện cả số lượng và chất lượng đọc sách của sinh viên Tâm lý học (Cao Xuân Liễu, 2012).
Nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Thu Trang về kỹ năng đọc sách của sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy chỉ 7,4% sinh viên lập kế hoạch đọc sách một cách khoa học và thường xuyên Hơn nữa, mức độ thực hiện kế hoạch đọc sách của sinh viên chỉ đạt trung bình, cho thấy họ chưa nắm vững và thực hiện đầy đủ các phương pháp đọc Cụ thể, chỉ có 6,3% sinh viên có kỹ năng đọc biết.
Theo khảo sát, 25,8% sinh viên ghi chép theo hướng tự trả lời câu hỏi về nội dung quan trọng của từng chương đã đọc Về kỹ năng đọc hiểu, 74% sinh viên thường xuyên đọc biết trước để xác định chương mục cần đọc hiểu, trong khi 63,2% chỉ thỉnh thoảng hoặc không bao giờ ghi chép ý tưởng quan trọng và cố gắng diễn đạt bằng mô hình, sơ đồ Đặc biệt, 61,8% sinh viên thực hiện đọc biết và đọc hiểu trước khi tiến hành đọc hiểu sâu Tuy nhiên, trong quá trình đọc hiểu sâu, có đến 81% sinh viên không tự tìm ví dụ minh họa cho nội dung đang đọc và không thực hiện thao tác trả lời câu hỏi.
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Trang chỉ ra rằng sinh viên thường không thực hiện đầy đủ các kỹ năng đọc hiểu sâu khi đọc sách Mặc dù đây là đối tượng thường xuyên tham gia vào hoạt động học tập và nghiên cứu, họ vẫn chưa nắm vững các phương pháp đọc biết, đọc hiểu và đọc hiểu sâu Điều này cho thấy sự cần thiết phải cải thiện kỹ năng đọc của sinh viên để nâng cao hiệu quả học tập.
Nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Lợi tại Đại học Trà Vinh đã khảo sát 376 sinh viên năm thứ nhất về kỹ năng đọc sách, cho thấy hơn 90% sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức và tóm lược sách, trong đó 55% cho rằng tầm quan trọng này ở mức tương đối và 39% đánh giá rất cao Tỉ lệ sinh viên tập trung khi đọc sách cũng cao, với 70% ở mức tương đối và 27% rất cao Đặc biệt, 65% sinh viên tự đặt câu hỏi và 87% có thói quen đánh dấu vấn đề quan tâm trong quá trình đọc Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc trình bày số liệu mà chưa khai thác nguyên nhân hay giải pháp, làm giảm tính ứng dụng của đề tài (Nguyễn Vĩnh Lợi, 2011).
Nghiên cứu của Phạm Đình Gấm và Vũ Đình Mạnh về “Thực trạng kỹ năng đọc sách của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang” cho thấy sinh viên nhận thức khá đầy đủ về vai trò của việc đọc sách trong học tập và phát triển bản thân, với điểm trung bình 5,18 cho việc đọc sách giúp hình thành năng lực tự học Tuy nhiên, sinh viên lại đánh giá thấp việc đọc sách để mở rộng tri thức (3,49), cho thấy họ thường chỉ đọc sách khi có thi cử, với 34% sinh viên cho rằng họ chỉ đọc sách khi cần thiết Mặc dù sinh viên đã nắm được các kỹ năng đọc cơ bản, nhưng mức độ chủ động đọc sách vẫn còn thấp, và giáo viên chưa chú trọng hướng dẫn cách đọc hiệu quả cho sinh viên.
Sau khi nghiên cứu tài liệu thứ cấp, chúng tôi nhận thấy rằng có thể kế thừa các nội dung từ những nghiên cứu trước, bao gồm thực trạng đọc sách của sinh viên, thời gian đọc, tiêu chí chọn sách và các thể loại sách phổ biến Đồng thời, chúng tôi cũng muốn khảo sát sự khác biệt về độ tuổi, giới tính, học lực và điều kiện sống đối với nhận thức của sinh viên trường Đại học về vai trò của việc đọc sách.
Thủ Dầu Một là một địa điểm thú vị, nhưng hiện tại chưa có nghiên cứu nào áp dụng phương pháp định tính để khám phá nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách trong học tập Điều này mở ra một hướng nghiên cứu mới mà chúng tôi sẽ khai thác để thu thập thông tin cho đề tài của mình.
Mục tiêu đề tài
Mục tiêu chung
Đối với đề tài này, nhóm nghiên cứu muốn Tìm hiểu thực trạng đọc sách của
SV TDMU nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đọc sách trong việc nâng cao nhận thức và phát triển bản thân Để cải thiện thói quen đọc sách của sinh viên TDMU và sinh viên các trường ĐH, CĐ, cần triển khai các giải pháp phù hợp như tổ chức các buổi tọa đàm, khuyến khích tham gia câu lạc bộ đọc sách, và cung cấp nguồn tài liệu phong phú Việc này không chỉ giúp sinh viên mở rộng kiến thức mà còn phát triển kỹ năng tư duy phản biện và sáng tạo.
Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu thứ nhất: Tìm hiểu thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.
Mục tiêu thứ hai: Tìm hiểu các yếu tố chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Mục tiêu thứ ba: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường Đại học Thủ DầuMột về vai trò của việc đọc sách.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Đề tài nghiên cứu thực trạng đọc sách và nhận thức của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một, cùng các yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách Nghiên cứu được thực hiện thông qua bảng hỏi để thu thập dữ liệu, sau đó sử dụng phần mềm SPSS để xử lý và phân tích các thông tin định lượng và dữ liệu thống kê có sẵn.
Do số lượng sinh viên tại Đại học Thủ Dầu Một rất đông, nhóm nghiên cứu đã quyết định khảo sát một mẫu sinh viên nhất định để phù hợp với ngân sách, thời gian và nhân lực Phương pháp chọn mẫu được sử dụng là chọn mẫu ngẫu nhiên có điều kiện, với tiêu chí là sinh viên có thói quen đọc sách Tổng số sinh viên được khảo sát là 300, được phân bố theo số lượng và giới tính như bảng 1.
Ngoại ngữ 7 50,0% 7 50,0% Điện - Điện tử 11 84,6% 2 15,4%
Bảng 1 Số lượng sinh viên các Khoa theo giới tính thực hiện khảo sát
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
Phương pháp nghiên cứu định tính
Bài nghiên cứu không chỉ áp dụng phương pháp định lượng mà còn kết hợp phương pháp định tính, đặc biệt là phỏng vấn sâu, nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách Qua đó, nghiên cứu sẽ làm rõ hơn về cách sinh viên hiểu và đánh giá tầm quan trọng của việc đọc sách trong quá trình học tập và phát triển bản thân.
Cách thức thu thập thông tin: Phỏng vấn ngẫu nhiên đến khi thông tin “Nhận thức về vai trò của việc đọc sách” bảo hòa thì dừng lại
Số lượng mẫu thực hiện khảo sát: 6 sinh viên thuộc các Khoa Công tác xã hội,
Sư phạm và Xây dựng.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng đọc sách của SV TDMU hiện nay như thế nào?
- Nhận thức của SV TDMU về vai trò của việc đọc sách như thế nào?
- Các yếu tố chủ quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU không?
- Các yếu tố khách quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU không?
Giả thuyết nghiên cứu
- SV TDMU không dùng nhiều thời gian vào việc đọc sách.
- SV TDMU hiện nay có nhận thức chưa đúng về vai trò của việc đọc sách.
- Các yếu tố chủ quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU
- Các yếu tố khách quan cũng có khả năng chi phối việc đọc sách của SVTDMU.
Khung phân tích
Chú thích: : Hướng nghiên cứu
+ Giới tính + Ngành học + Năm học + Học lực + Cách đọc
Thực trạng đọc sách của sinh viên
Hệ thống khái niệm và cơ sở lý thuyết của đề tài
Hệ thống khái niệm chính có liên quan đến đề tài
Theo "Từ điển Tiếng Việt thông dụng" (Huyền Linh, 2014), sinh viên là những người theo học tại các trường đại học và cao đẳng, nơi họ nhận được kiến thức chuyên sâu về ngành nghề để chuẩn bị cho công việc tương lai Họ được xã hội công nhận thông qua các bằng cấp đạt được trong quá trình học tập, và để trở thành sinh viên, họ đã phải hoàn thành bậc tiểu học và trung học.
Theo Dương Quỳnh Tương (2012), sách được định nghĩa là tri thức có nội dung nhất quán, được ghi chép liên tục chủ yếu bằng chữ viết và hình vẽ, trên vật liệu chính là giấy với số lượng trang in theo quy định.
Đọc sách được định nghĩa là hành động tập trung vào nội dung và ý nghĩa của tài liệu, nhằm rút ra những vấn đề cốt lõi từ các nguồn tin cậy để phục vụ cho nghiên cứu, học tập và ứng dụng Đồng thời, người đọc cũng cần phản biện các tài liệu có nội dung sai lệch hoặc thiếu khách quan và đưa ra ý kiến xác đáng về vấn đề đó.
Trong lĩnh vực nghiên cứu và tìm hiểu về cách đọc sách, có nhiều tác giả với những trường phái khác nhau Tuy nhiên, chúng tôi đã chọn lọc ra ba phương pháp đọc cơ bản để phục vụ cho việc nghiên cứu và hiểu biết sâu hơn.
Đọc toàn văn là phương pháp đọc phổ biến hiện nay, trong đó người đọc chú ý từng câu, từng chữ và suy ngẫm kỹ lưỡng để nắm bắt toàn bộ nội dung mà tác giả muốn truyền đạt.
- Đọc lướt: đọc nhanh từng đoạn của một văn bản nhằm nắm bố cục, những ý cốt lỗi nhất của văn bản đó.
Đọc từ khóa là một phương pháp đọc hiệu quả, yêu cầu người đọc sử dụng các kỹ năng như quan sát và phân tích để nhanh chóng xác định nội dung cốt lõi và các vấn đề chính được đề cập.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trần Minh Hoàng, nhận thức được định nghĩa là khả năng nhận ra và hiểu rõ nghĩa lý của sự việc.
Trong nghiên cứu này, nhận thức được định nghĩa là khả năng của sinh viên trong việc nhận ra và hiểu rõ tầm quan trọng của việc đọc sách, không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà còn trong quá trình học tập.
Theo định nghĩa của Trần Minh Hoàng (Trần Minh Hoàng, 2005), vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó”
1.6 Khái niệm: “Vai trò của việc đọc sách” Đã có rất nhiều những nghiên cứu nói về vai trò của việc đọc sách đối với mỗi cá nhân, tuy nhiên trong giới hạn của chúng tôi, chúng tôi tìm hiểu vai trò của việc đọc sách thông qua một tài liệu trên báo Vietnamnet (Waka.vn, 2015).
Đọc sách không chỉ kích thích tinh thần mà còn có thể làm chậm tiến trình của bệnh Alzheimer và mất trí nhớ Hoạt động này giúp duy trì sự hoạt động của não bộ, ngăn ngừa tình trạng mất năng lượng và giữ cho trí tuệ luôn minh mẫn.
Giống như bất kỳ các cơ quan khác trong cơ thể, não đòi hỏi phải được tập thể dục để luôn mạnh khoẻ.
Dù bạn đang phải đối mặt với căng thẳng trong công việc hay mối quan hệ cá nhân, mọi lo âu sẽ tan biến khi bạn đắm chìm trong một câu chuyện hấp dẫn Một cuốn sách hay có thể đưa bạn đến một thế giới mới, trong khi một bài báo thú vị giúp bạn ổn định tâm trạng và giảm bớt căng thẳng, cho phép bạn thư giãn hoàn toàn.
Tất cả những gì bạn đọc sẽ cung cấp cho bạn những thông tin mới mẻ và thú vị, giúp bạn sẵn sàng đối mặt với mọi thử thách trong cuộc sống Dù bạn có thể mất đi công việc, tài sản, tiền bạc hay sức khỏe, nhưng tri thức là thứ không bao giờ bị mất Càng hiểu biết, bạn càng được trang bị tốt hơn để vượt qua những hoàn cảnh khó khăn.
Việc đọc nhiều không chỉ giúp bạn mở rộng vốn từ vựng mà còn nâng cao khả năng giao tiếp, tạo lợi thế trong sự nghiệp Những người có khả năng đọc và nói tốt thường thăng tiến nhanh hơn so với những người có vốn từ hạn hẹp Hơn nữa, đọc sách còn hỗ trợ việc học ngôn ngữ mới, giúp người học tiếp xúc với từ vựng trong ngữ cảnh, từ đó cải thiện khả năng nói và viết.
Khi đọc sách, bạn cần ghi nhớ các nhân vật, thông tin về họ, hoài bão, lịch sử, sắc thái và những tình tiết hình thành lối sống trong mỗi câu chuyện Mặc dù có thể cảm thấy quá tải, nhưng não bộ có khả năng tuyệt vời để lưu giữ tất cả những điều này một cách dễ dàng Mỗi ký ức mới không chỉ tạo ra nếp nhăn não mới mà còn củng cố những nếp nhăn cũ, giúp cải thiện khả năng nhớ lại và cân bằng cảm xúc Thật sự là một điều thú vị!
(6) Khả năng phân tích của tư duy mạnh mẽ hơn
Bạn đã bao giờ đọc một tiểu thuyết kỳ bí và tự mình giải quyết được bí ẩn trước khi hoàn thành cuốn sách? Nếu có, điều đó cho thấy bạn đã áp dụng tư duy phê bình và phân tích vào công việc của mình Bằng cách ghi lại tất cả các chi tiết được cung cấp và xâu chuỗi chúng như một câu chuyện trinh thám, bạn có thể phát triển kỹ năng tư duy sắc bén và khả năng giải quyết vấn đề hiệu quả.
Cơ sở lý thuyết của đề tài
2.1 Quan điểm lý thuyết hành động xã hội của Max Weber
Quan điểm lý thuyết trong giáo trình nhập môn Xã hội học của Trần Thị Kim Xuyến và Nguyễn Thị Hồng Xoan (2005) nêu rõ các nội dung cơ bản liên quan đến sự phát triển và ứng dụng của lý thuyết trong nghiên cứu xã hội.
Vào thế kỷ XX, Max Weber đã phát triển lý thuyết hành động, nhấn mạnh rằng bất kỳ lý thuyết nào tập trung vào cá nhân đều không thể thiếu các yếu tố chủ quan như tình cảm, suy nghĩ và tư tưởng của họ.
Để nghiên cứu con người một cách hiệu quả, cần phải thấu hiểu hoàn cảnh và thế giới nội tâm của từng đối tượng, bao gồm cảm xúc và tư duy Con người không chỉ hành động vì lợi ích cá nhân mà còn vì những giá trị và ý nghĩa mà họ tin tưởng Do đó, M Weber đã phát triển một hệ thống khuôn mẫu với bốn kiểu hành động, giúp các nhà nghiên cứu phân tích hành vi trong bối cảnh thực tiễn.
Hành động của con người thường bị chi phối bởi cảm xúc, và ông cho rằng đây là yếu tố chính dẫn đến các quyết định và hành vi Sự tự phát trong hành động dựa trên tình cảm là đặc trưng, bởi cùng một người và trong cùng một hoàn cảnh, họ có thể phản ứng khác nhau tùy thuộc vào cảm xúc tại thời điểm đó Loại hành động này không dễ kiểm soát và là một trong những khía cạnh khó nghiên cứu nhất trong tâm lý học.
Hành động mang tính truyền thống là khi con người tuân theo thói quen đã được hình thành từ khi còn nhỏ, dựa trên những giá trị chuẩn mực của cộng đồng Những hành động này được lặp đi lặp lại hàng ngày và phản ánh sự đa dạng của các truyền thống trong các nền văn hóa khác nhau.
Hành động hợp lý về giá trị là những hành động được định hướng bởi giá trị, trái ngược với hành động truyền thống Trong khi hành động truyền thống thường không yêu cầu suy nghĩ sâu sắc, thì hành động theo giá trị đòi hỏi người thực hiện phải xem xét và đánh giá xem hành động đó có thực sự mang lại giá trị hay không.
Khi hành động, con người thường xem xét sự phù hợp của hành động đó với địa vị xã hội của mình, và các giá trị được thể hiện qua nhiều chuẩn mực khác nhau Chẳng hạn, sự chung thủy trong chế độ đa thê khác biệt so với chế độ một vợ một chồng Đối với hành động hợp mục đích, người thực hiện cần suy nghĩ và quyết định rõ ràng về mục đích và phương tiện để đạt được điều đó Loại hành động này chỉ thực sự phát triển trong xã hội hiện đại, điển hình là trong chủ nghĩa tư bản, nơi hành động hợp mục đích trở thành yếu tố chủ đạo.
Khi phân tích bốn loại hành động xã hội, ông nhấn mạnh rằng chúng không thể tách rời nhau trong cuộc sống Để hiểu con người, cần xem xét sự đan xen của các hành động này trong từng trường hợp cụ thể và xác định giới hạn quan hệ giữa chúng trong từng nền văn hóa.
Cách tiếp cận lý thuyết hành động xã hội của Max Weber được áp dụng để nghiên cứu mục tiêu đọc sách của sinh viên tại trường Đại học Thủ Dầu Một Nghiên cứu này nhằm hiểu rõ hơn về động lực và mục tiêu của sinh viên khi đọc sách, từ đó phát triển các phương pháp giáo dục phù hợp Việc áp dụng lý thuyết này giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hành động cá nhân và các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên.
2.2 Quan điểm lý thuyết lựa chọn hợp lý của A Marshall
Lý thuyết lựa chọn hợp lý, hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý, được Lê Ngọc Hùng (2009) nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội học, có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ 18, 19 Theo một số nhà triết học, bản chất con người mang tính vị kỷ, luôn tìm kiếm sự hài lòng và thỏa mãn, đồng thời tránh né nỗi khổ đau.
Thuật ngữ “lựa chọn” nhấn mạnh việc cân nhắc và tính toán để quyết định phương tiện hoặc cách thức tối ưu nhằm đạt được mục tiêu trong bối cảnh nguồn lực hạn chế Ban đầu, khái niệm này chủ yếu mang ý nghĩa kinh tế học, tập trung vào lợi ích vật chất Tuy nhiên, các nhà xã hội học sau này đã mở rộng phạm vi mục tiêu, bao gồm cả lợi ích xã hội và tinh thần.
Alfred Marschal, nhà kinh tế chính trị người Anh, cho rằng cá nhân được thúc đẩy bởi nhu cầu tâm lý bên trong nhưng lại hành động dựa trên lợi ích từ các yếu tố bên ngoài Mọi người chỉ tham gia vào các giao dịch trao đổi hàng hóa khi chúng mang lại lợi ích cho bản thân Tác giả nhìn nhận con người như những quyết định hợp lý trong bối cảnh nguồn lực khan hiếm, dựa trên việc đánh giá lợi ích kinh tế của từng lựa chọn.
Lý thuyết lựa chọn hợp lý yêu cầu phân tích hành động lựa chọn của cá nhân trong bối cảnh hệ thống xã hội, bao gồm nhu cầu và mong đợi của các cá nhân khác, khả năng lựa chọn và sản phẩm đầu ra từ mỗi quyết định, cùng với các đặc điểm liên quan khác.
Cách tiếp cận dựa trên lý thuyết lựa chọn hợp lý giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình ra quyết định của mỗi cá nhân Nó liên quan đến việc xác định mục đích, lựa chọn sách và áp dụng phương pháp đọc sách phù hợp với môi trường sống cũng như kỳ vọng về vật chất và tinh thần của từng người.
Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Thời gian đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Thời gian đọc sách là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong việc đạt được mục tiêu của người đọc Tuy nhiên, sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một chưa thực sự đầu tư nhiều thời gian cho việc này Cụ thể, 75% sinh viên được khảo sát chỉ đọc sách dưới một giờ mỗi ngày, trong đó có 26,8% sinh viên đọc sách trong khoảng thời gian từ 0-30 phút và số còn lại đọc từ 30-60 phút.
Hình 1 - Các thể loại sách sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một chọn đọc
Tác phẩm văn học Sách chuyên ngành Giáo trình Tản vănSách điện tử Hạt giống tâm hồn Tạp chí Thể loại khác
Chỉ một số ít sinh viên dành thời gian cho việc đọc sách, với chỉ 13,3% sinh viên đầu tư từ 1-2 giờ mỗi ngày và chỉ 5,3% sinh viên đọc sách hơn 2 giờ mỗi ngày.
Theo nghiên cứu của Phạm Thụy Thùy Trâm (2016), chỉ có 4,7% sinh viên trong khảo sát (14 sinh viên) không duy trì thói quen đọc sách hàng ngày Thay vào đó, họ chọn đọc sách khi có thời gian rảnh, dành từ 3-4 giờ mỗi ngày cho việc này, nhưng không đọc sách khi bận rộn.
Các phương pháp đọc
3.1 Các phương pháp hỗ trợ việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
3.1.1 Giai đoạn trước khi đọc sách
Khi được khảo sát về tần suất chọn sách, 42,3% sinh viên cho biết họ thường xuyên thực hiện thao tác này Tuy nhiên, chỉ có 1% sinh viên cho rằng họ không bao giờ chọn sách.
Mức độ thường xuyên Tần số Tần suất
0-30 phút 30-60 phút 60 phút - 2 Trên hai giờ Khác 0
Hình 2 - Thời gian đọc sách trong một ngày của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Bảng 2- Mức độ thường xuyên chọn sách của SV TDMU
Một bộ phận nhỏ sinh viên trường ĐH Thủ Dầu Một có thể đang đọc sách một cách thụ động, chỉ dựa vào yêu cầu từ giáo viên hoặc gợi ý từ gia đình và bạn bè, mà chưa thể hiện sự chủ động trong việc tìm kiếm và khám phá thể loại sách mà họ thực sự yêu thích.
Một yếu tố quan trọng trong việc chọn đọc sách của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một là nội dung sách, với 75,3% sinh viên (226 người) cho biết họ quan tâm đến yếu tố này Kết quả khảo sát cho thấy rằng sinh viên không chú trọng nhiều đến bìa sách (84,7%), số trang (91,7%), giá cả (75%), tác giả/nhà xuất bản (59,7%) và nhận xét của người khác (78%).
STT Nội dung quan tâm Có Tần suất
5 Tác giả/ Nhà xuất bản
6 Nhận xét của người khác
Bảng 3 – Các yếu tố SV TDMU quan tâm khi chọn đọc một quyển sách
Trong quá trình thu thập thông tin định lượng, sinh viên đặc biệt quan tâm đến yếu tố "chất lượng sách mới/cũ".
Khi được hỏi về tần suất chọn không gian đọc sách, có hơn một nửa số sinh viên, cụ thể là 109/300, cho biết họ thường xuyên lựa chọn không gian để đọc Trong khi đó, chỉ có 16/300 sinh viên cho biết họ không bao giờ chọn không gian cho việc đọc sách.
Nhiều sinh viên không có tiêu chí cụ thể cho không gian đọc, họ có thể đọc ở bất kỳ đâu chỉ cần có đủ ánh sáng, không quá nóng và chấp nhận một chút tiếng ồn.
Sinh viên trường ĐH Thủ Dầu Một thường chủ động lựa chọn thời gian đọc sách phù hợp với bản thân Cụ thể, 13% sinh viên cho biết họ rất thường xuyên chọn thời gian đọc sách, trong khi 32,3% thường xuyên thực hiện điều này và 34,7% cho rằng mức độ thường xuyên của họ ở mức trung bình.
Hình 3 - Mức độ thường xuyên chọn không gian đọc sách của SV TDMU
Chọn thời gian đọc sách là yếu tố quan trọng và không thể thiếu đối với đa số sinh viên tại trường ĐH Thủ Dầu Một, như đã được khẳng định bởi Phạm Thụy Thùy Trâm (2016).
Kết quả khảo sát cho thấy hơn 90% sinh viên tham gia đã thực hiện việc đặt mục tiêu trước khi đọc sách, cho thấy đây là một hoạt động phổ biến trong thói quen đọc của họ.
Theo nghiên cứu của Phạm Thụy Thùy Trâm (2016), hầu hết sinh viên chỉ đạt mức trung bình trong việc đặt mục tiêu, với 98 trong số 300 sinh viên Trong khi đó, chỉ có 26/300 sinh viên thực hiện việc xác định mục tiêu rất thường xuyên, và 84/300 sinh viên thực hiện thường xuyên.
Hình 4- Mức độ thường xuyên của việc chọn thời gian đọc sách của SV TDMU
Rất thường xuyên Thường xuyên Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Rất thường xuyên Thường xuyên Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Hình 5- Mức độ thường xuyên của việc xác định mục tiêu trước khi đọc sách của SV TDMU
Việc lập kế hoạch trước khi đọc sách là một thao tác phổ biến mà 286 sinh viên thực hiện, cho thấy tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu đọc sách trong quá trình học tập.
Theo khảo sát, có tới 79,3% sinh viên có thói quen lập kế hoạch trước khi đọc sách Tuy nhiên, 21,7% sinh viên cho biết họ không bao giờ thực hiện việc này.
(Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
3.1.2 Giai đoạn đọc sách Ở giai đoạn này, mỗi sinh viên có những lựa chọn khác nhau về phương pháp đọc và mức độ thường xuyên áp dụng phương pháp đó để một quyển sách. Đối với phương pháp đọc toàn văn là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất với số lượng 282/300 sinh viên được khảo sát có sử dụng phương pháp đó Và
Trung bình Thỉnh thoảng Không bao giờ
Theo bảng 4, trong số sinh viên TDMU, 92/300 sinh viên thường xuyên lập kế hoạch trước khi đọc sách, chiếm đa số Số lượng sinh viên lập kế hoạch ở mức trung bình là 77/300.
Mức độ thường xuyên Đọc toàn văn Đọc lướt Đọc từ khóa
Tần suất (%) Tần số Tần suất
Bảng 4 – Mức độ thường xuyên áp dụng các phương pháp đọc của SV TDMU (Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
Phương pháp đọc lướt được áp dụng rộng rãi và chiếm khoảng 1/3 tổng số sinh viên tham gia khảo sát, tương tự như phương pháp đọc toàn văn.
Nhận thức của sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một về vai trò của việc đọc sách
Mục đích đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Mỗi cá nhân có những lý do khác nhau khi đọc sách, từ việc tìm kiếm thông tin đến giải trí Một số người đọc vì một mục đích cụ thể, trong khi những người khác lại có nhiều mục đích đa dạng khi tiếp cận sách.
Khi được khảo sát về việc có đặt mục đích kích thích tinh thần khi đọc sách hay không, 81,3% sinh viên cho biết họ không có mục đích này.
Sách là nguồn tài liệu quý giá ghi chép kiến thức và kinh nghiệm lịch sử xã hội, giúp con người kế thừa và phát huy Tại trường Đại học Thủ Dầu Một, 213 trong số 300 sinh viên được khảo sát đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đọc sách và đặt mục tiêu phát triển thói quen này.
Bảng 8 – Mục đích trao dồi kiến thức khi đọc sách của SV
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm,
Hình 8 - Mục đích kích thích tinh thần khi đọc sách của SV TDMU
Gần 1/3 sinh viên tham gia khảo sát cho biết họ không đọc sách để trau dồi kiến thức, điều này phản ánh một thực trạng đáng suy ngẫm trong xã hội hiện nay.
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một không đặt mục tiêu củng cố vốn từ và cách hành văn khi đọc sách, điều này được xác nhận qua khảo sát khi có đến 2/3 số sinh viên (201 sinh viên) trả lời "Không" khi được hỏi về mục đích này.
Đa số sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một không xem việc đọc sách chỉ để giết thời gian, điều này được thể hiện qua kết quả khảo sát cho thấy nhiều sinh viên có mục đích rõ ràng khi đọc sách.
Hình 9- Mục đích củng cố vốn từ và cách hành văn khi đọc sách của SV
82,3% sinh viên trả lời “Không” khi được hỏi có phải mục đích của việc giải trí là giết thời gian (Bảng 9).
Giải trí Giết thời gian
Cải thiện khả năng tập trung
Tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo
Bảng 9 – Mục đích đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Đọc sách được xem là một hoạt động giải trí, với 54,7% sinh viên, tương đương 164 trong tổng số 300 sinh viên được khảo sát, đồng tình với quan điểm này.
Nhiều sinh viên không coi việc đọc sách là phương tiện để “hoàn thiện nhân cách”, “cải thiện khả năng tập trung” hay “tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo”, với tỷ lệ lần lượt là 67,3%, 79,3% và 55%.
Tuy nhiên, có một điều đáng lưu ý đó là sinh viên trường Đại học Thủ Dầu
Một cũng không có mục đích hoàn thành yêu cầu của giáo viên
Mục đích hoàn thành yêu cầu của giáo viên khi đọc sách chỉ đạt khoảng 23% trong tổng số sinh viên được khảo sát, theo Hình 10.
(Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
Vai trò của việc đọc sách đối với việc học của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
Việc hiểu rõ vai trò quan trọng của việc đọc sách không chỉ ảnh hưởng đến sự thành công mà còn định hình cách thức sinh viên thực hiện các bước trong quá trình đọc.
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay vẫn chưa có thói quen đọc sách tốt, cho thấy họ chưa nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của việc đọc sách trong việc nâng cao kiến thức và phát triển bản thân.
Sinh viên TDMU nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc đọc sách trong học tập, giúp họ trau dồi kiến thức Khi đọc sách, họ thường đặt ra những mục tiêu cụ thể, chủ yếu là nâng cao hiểu biết cá nhân Mục tiêu này được xem là một trong những động lực chính của sinh viên trong hoạt động đọc sách Hơn nữa, họ không coi việc đọc sách chỉ là nghĩa vụ để đáp ứng yêu cầu của giáo viên.
Cùng suy nghĩ đó, bạn Đ.Q.T cũng khẳng định: “Sách cung cấp kiến thức cho mình” (Phụ lục 7- gỡ băng phỏng vấn sâu sinh viên Đ-Q-T) và bạn H., sinh viên năm
Đọc sách đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung kiến thức, cung cấp vốn từ và giúp người đọc học hỏi nhiều điều bổ ích từ nội dung sách.
Nhiều sinh viên vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của việc đọc sách trong việc hoàn thiện nhân cách và phát triển tư duy Sách không chỉ giúp cải thiện khả năng tập trung mà còn tăng cường khả năng phân tích và sáng tạo Tuy nhiên, một số sinh viên như bạn L., sinh viên năm 2 khoa Xây dựng, lại cho rằng việc đọc sách không quan trọng, chỉ đơn giản là thích sách nào thì đọc sách đó.
Một số sinh viên có nhận thức cao cho rằng việc đọc sách rất quan trọng Sinh viên N.Q.N, khoa Công tác xã hội, chia sẻ rằng đọc sách giúp cải thiện khả năng suy nghĩ, phán đoán và suy luận, đồng thời áp dụng kiến thức vào học tập và cuộc sống Tương tự, sinh viên L.T.N, khoa Sư phạm, nhấn mạnh rằng đọc sách rèn luyện kỹ năng tư duy, giúp bình tĩnh và nắm bắt ý chính trong văn bản, đồng thời kích thích hoạt động của não bộ, làm cho tư duy trở nên minh mẫn hơn.
Dựa trên các số liệu phân tích, sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc đọc sách trong học tập và đời sống Tuy nhiên, nhận thức này vẫn còn hạn chế, khi chỉ một bộ phận nhỏ sinh viên hiểu rõ tầm quan trọng của việc đọc sách không chỉ trong học tập mà còn trong nhiều lĩnh vực khác Điều này giải thích một phần lý do vì sao sinh viên chưa đầu tư nhiều thời gian và công sức vào việc đọc sách.
Những yếu tố chi phối việc đọc sách của sinh viên
Những yếu tố chủ quan chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
1.1 Kết quả học tập và việc đọc sách
Có một mối liên hệ khá là chặt chẽ giữa học lực và thời gian mà sinh viên trường ĐH Thủ Dầu Một đọc sách.
Bảng 10 – Ảnh hưởng của học lực đến thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 9 cells (45,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 1,00.
Kết quả từ bảng kiểm định Chi-Square Tests cho thấy Sig = 0,044, nhỏ hơn a = 0,05, cho phép chúng tôi kết luận rằng yếu tố học lực có ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU.
Theo bảng 10, hơn 50% sinh viên dành từ 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách Đặc biệt, nhóm sinh viên có học lực giỏi chủ yếu đọc sách từ 60 phút đến 2 giờ, chiếm 28,1% Trong khi đó, sinh viên có học lực khá và trung bình khá dành thời gian đọc sách tương đương với mức trung bình của tổng số sinh viên khảo sát, lần lượt chiếm 57,8% và 53,7% Ngược lại, nhóm sinh viên có học lực trung bình lại dành ít thời gian đọc sách hơn mức trung bình, với 47,8% trong số họ chỉ đọc từ 0-30 phút mỗi ngày.
1.2 Giới tính và việc đọc sách Đã có một sự phân bố đồng đều theo giới tính trong việc dành thời gian đọc sách mỗi ngày từ 30-60 phút Dễ dàng nhận thấy nhất là ở khoảng thời gian 30-60 phút đều chiếm tỷ lệ cao nhất ở từng nhóm giới tính và lần lượt chiếm 52% ở nam và 49,6% ở nữ (bảng 11).
Trên hai giờ Tần số 8 3 11
Bảng 11 – Ảnh hương của giới tính và thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 2 cells (20,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 4,42.
Kết quả từ bảng kiểm định Chi-Square Tests cho thấy giá trị Sig = 0,152 lớn hơn mức ý nghĩa a = 0,05, điều này cho phép chúng tôi chấp nhận giả thuyết Ho, tức là giới tính không ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU Do đó, chúng tôi kết luận rằng yếu tố giới tính không phải là yếu tố quyết định đến thời gian đọc sách của sinh viên tại TDMU.
1.3 Năm học và việc đọc sách
Dữ liệu thống kê cho thấy tỉ lệ sinh viên dành từ 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách không có sự khác biệt đáng kể qua các năm học Mặc dù tỉ lệ không đồng đều, nhưng đều chiếm ưu thế ở mỗi năm, chứng tỏ rằng sinh viên năm nhất, năm hai, năm ba và năm tư đều duy trì thói quen đọc sách trong khoảng thời gian này.
Năm tư Thời gian đọc sách
Bảng 12 – Ảnh hưởng của năm học đến việc đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 2 cells (20,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 4,42.
Kiểm định Chi-square Test một lần nữa khẳng định điều này khi số Sig=0,152
> a = 0,05 nên chấp nhận H0, tức là chấp nhận giả thuyết “yếu tố năm học không có tác động gì đến thời gian đọc sách của SV TDMU”.
1.4 Ngành học và việc đọc sách
Ngành học không phải là yếu tố quyết định đến thói quen đọc sách của sinh viên TDMU, điều này được chứng minh qua việc không có sự khác biệt về thời gian đọc sách giữa các khoa.
Ngành Sư phạm dẫn đầu về số lượng sinh viên đọc sách với tỷ lệ 14%, tiếp theo là ngành Luật với 13,3% Ngành Công nghệ thông tin cũng ghi nhận tỷ lệ sinh viên đọc sách đạt 8% Bên cạnh đó, sinh viên thuộc khoa Kinh tế và khoa Tài nguyên Môi trường có tỷ lệ đọc sách gần tương đương với Công nghệ thông tin, đạt 7,3%.
Khoa Khoa học Tự nhiên và Khoa Xây dựng dẫn đầu về tỉ lệ sinh viên đọc sách, đạt 6,7% Theo sau là sinh viên Khoa Ngoại ngữ và Khoa Công tác xã hội với tỉ lệ 6%.
Tỉ lệ sinh viên đọc sách ở các khoa như Khoa Sử, Khoa Điện – Điện tử, Khoa Ngôn ngữ Trung Quốc và Khoa Ngữ văn lần lượt đạt 5,3%; 5,3%; 4,7% và 4,7% (bảng 13).
Ngoại ngữ 3 5,0 8 6,8 0 0,0 0 0,0 3 30,0 14 6,1 Điện - Điện tử 3 5,0 7 6,0 0 0,0 3 27,
Bảng 13 – Ảnh hưởng của ngành học đến thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 53 cells (75,7%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,39.
Tóm lại, trong số các yếu tố chủ quan, học lực là yếu tố duy nhất có ảnh hưởng rõ rệt đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU; cụ thể, sinh viên có học lực cao thường dành nhiều thời gian cho việc đọc sách hơn so với những sinh viên có học lực thấp.
Yếu tố khách quan chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
2.1 Không gian đọc sách và việc đọc sách
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một thường dành từ 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách, với 50,4% chọn đọc tại nhà hoặc phòng trọ Quán cà phê sách là lựa chọn thứ hai, chiếm 20,5%, tiếp theo là 14,5% đọc tại nhà sách, 11,1% tại thư viện, và cuối cùng là lớp học cùng công viên, mỗi nơi chiếm 1,7%.
Thời gian đọc sách Đọc sách ở đâu
2 giờ Tần suất (%) 18,2 24,2 39,4 9,1 0,0 6,1 3,0 100,0 Trên hai giờ
Bảng 14 - Ảnh hưởng của nơi đọc sách đến thời gian đọc của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 22 cells (62,9%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,17.
Kết quả phân tích cho thấy Sig = 0,001 < a = 0,05, cho phép chúng ta chấp nhận giả thuyết H1, tức là có mối liên hệ giữa nơi đọc sách và thời gian đọc sách của sinh viên TDMU Điều này khẳng định rằng địa điểm đọc sách là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên tại trường.
2.2 Việc làm thêm và việc đọc sách
Nhiều người cho rằng sinh viên làm thêm không có thời gian để đọc sách, nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy quan niệm này không chính xác Việc làm thêm không ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU, với tỷ lệ sinh viên làm thêm chiếm 51,3% và không làm thêm là 48,7%, cho thấy không có sự chênh lệch lớn giữa hai nhóm này.
Việc làm thêm Tổng cộng
Thời gian đọc sách 0-30 phút Tần số 28 32 60
Trên hai giờ Tần số 7 4 11
Bảng 15 – Ảnh hưởng của việc làm thêm đến thời gian đọc sách của SV
TDMU (Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 1 cells (10,0%) have expected count less than 5 The minimum expected count is 4,98.
Mặc dù thống kê cho thấy sinh viên có việc làm dành 30-60 phút mỗi ngày để đọc sách nhiều hơn so với sinh viên không làm, nhưng chúng ta không thể rút ra kết luận rõ ràng Chỉ khi xem xét kết quả từ bảng kiểm định Chi-Square với giá trị Sig= 0,802 lớn hơn 0,05, chúng ta mới có thể khẳng định rằng việc làm thêm không ảnh hưởng đến thời gian đọc sách của sinh viên TDMU.
2.3 Nguồn sách và việc đọc sách Đối với khung thời gian đọc sách từ 30-60 phút mỗi ngày, sinh viên có nguồn sách tự mua là chiếm đa số với tỉ lện 38,5%; tiếp theo là những sinh viên có nguồn sách mượn (36,8%); kế đến là những sinh viên sử dụng nguồn sách từ Internet, có lẽ là do điều kiện cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ; Một nguồn kế tiếp đó là sách thuê/mướn, có lẽ do tốn khá nhiều chi phí cho việc thuê mướn nếu không đọc nhanh nên đa phần sinh viên cũng tranh thủ đọc và cuối cùng là sách được tặng với tỉ lệ 5,1% (bảng 16).
Mặc dù các số liệu hiện có chưa đủ để khẳng định rằng nguồn sách ảnh hưởng đến thời gian đọc, nhưng để có những chứng minh cụ thể và khoa học, việc áp dụng kiểm định Chi-Square Test là cần thiết.
Thuê/ mướn Mượn Được tặng
Tổng Tần số 74 16 70 12 55 4 231 cộng Tần suất
Bảng 16- Ảnh hưởng của nguồn sách đến thời gian đọc sách của SV TDMU
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm)
N of Valid Cases 231 a 19 cells (63,3%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,17.
Kết quả kiểm định Chi-Square Test với giá trị Sig=0 < α=0,05 cho thấy nguồn sách là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên TDMU.
2.4 Đối tượng cùng đọc sách và việc đọc sách
Trong khoảng thời gian từ 30-60 dành cho việc đọc sách mỗi ngày thì có đến 77,8%
Sinh viên thường chọn đọc sách một mình, với chỉ 22,2% sinh viên tham gia đọc cùng người khác Trong số đó, tỷ lệ đọc cùng người thân là 0,9%, đọc cùng thầy cô là 4,3%, và đọc cùng bạn bè chiếm 17,1%.
Người thân trong gia đình
Một mình Thời gian đọc sách
Tần suất (%) 0,0 0,0 18,2 81,8 100,0 Trên hai giờ
Bảng 17 - Ảnh hưởng của đối tượng cùng đọc sách đối với thời gian đọc sách của SV TDMU (Nguồn: Phạm Thuỵ Thuỳ Trâm, 2016)
N of Valid Cases 231 a 12 cells (60,0%) have expected count less than 5
The minimum expected count is ,09.
Kết quả kiểm định Chi-Square Test cho thấy Sig = 0,159, lớn hơn mức ý nghĩa a = 0,005, điều này cho phép khẳng định rằng việc đọc sách của sinh viên TDMU không bị ảnh hưởng bởi việc đọc sách của những người xung quanh.
Nhiều yếu tố khách quan ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của sinh viên TDMU, trong đó, địa điểm đọc sách là yếu tố nổi bật nhất Cụ thể, hầu hết sinh viên thường dành từ 30 đến 60 phút mỗi ngày để đọc sách tại nhà trọ.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, nhóm chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình và những gợi ý quý báu từ giảng viên Nhờ đó, chúng tôi đã áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã học để hoàn thành thành công đề tài của mình.
Sau khi nghiên cứu thực trạng đọc sách của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một, chúng tôi nhận thấy rằng họ có nhận thức đúng về vai trò quan trọng của việc đọc sách, như cung cấp tri thức mới và rèn luyện khả năng tập trung Từ nhận thức này, sinh viên đã dành từ 30-60 phút mỗi ngày cho việc đọc sách, khám phá nhiều thể loại khác nhau.
Thực trạng đọc sách của sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chủ yếu do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của việc đọc sách Các yếu tố chủ quan như học lực và yếu tố khách quan như môi trường đọc sách cũng ảnh hưởng đến thói quen này của sinh viên.
Mặc dù phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có điều kiện được áp dụng trong nghiên cứu định lượng, nhưng nó chưa phải là phương pháp đại diện tốt nhất Hơn nữa, việc áp dụng lý thuyết để giải thích vấn đề vẫn chưa được thực hiện một cách hợp lý.
Kiến nghị
2.1 Về phía bản thân sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một
- Tìm thêm các tài liệu hướng dẫn các kỹ năng đọc phù hợp với mỗi cá nhân
Tham gia tích cực vào các hội thảo, tập huấn và diễn đàn sẽ giúp nâng cao nhận thức và kỹ năng đọc sách Những hoạt động này không chỉ cung cấp kiến thức bổ ích mà còn tạo cơ hội để trao đổi kinh nghiệm và học hỏi từ những người có cùng sở thích.
Chủ động kết nối với các cá nhân và tổ chức sở hữu nguồn sách phong phú sẽ giúp bạn tìm kiếm thêm tài liệu hữu ích, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tri thức mới.
- Nâng cao số lượng, chất lượng của sách ở tại Thư viện để kích thích hoạt động đọc của sinh viên
Chúng tôi thường xuyên tổ chức các hội thảo, tập huấn và diễn đàn, nơi sinh viên có thể tham gia thảo luận về các chủ đề liên quan đến việc đọc sách.
- Nhân viên thư viện niềm nở, tận tình hướng dẫn sinh viên đọc sách
2.3 Về phía nhóm nghiên cứu
- Tìm thêm các tài liệu có nội dung liên quan đến phương pháp nghiên cứu khoa học và xã hội học nhằm cải thiện năng lực nghiên cứu.
Nghiên cứu sâu về nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách là rất cần thiết để hiểu rõ hơn về thói quen đọc của họ Đồng thời, cần đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện khả năng đọc sách của sinh viên hiện nay, từ đó nâng cao chất lượng học tập và phát triển tư duy.