1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại toà án từ thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố pleiku, tỉnh gia lai

34 25 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Áp Dụng Biện Pháp Xử Lý Hành Chính “Đưa Vào Cơ Sở Giáo Dục Bắt Buộc” Tại Toà Án Từ Thực Tiễn Giải Quyết Tại Toà Án Nhân Dân Thành Phố Pleiku, Tỉnh Gia Lai
Tác giả Vũ Thư, Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Ngọc Bích, Cao Vũ Minh
Trường học Trường Đại học Luật Hà Nội
Chuyên ngành Luật học
Thể loại tiểu luận
Thành phố Pleiku
Định dạng
Số trang 34
Dung lượng 262 KB
File đính kèm Áp dụng biện pháp xử lý hành chính.rar (42 KB)

Cấu trúc

  • 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

  • 4. Phương pháp nghiên cứu

  • 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận

  • CHƯƠNG I

  • NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC BẮT BUỘC” TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

    • 1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

    • 3. Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

    • 4. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

    • 5. Ra các quyết định

    • 6. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính

      • 6.2.2. Sự tham gia của Viện kiểm sát trong việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

      • 6.2.3. Những trường hợp phải từ chối, thay đổi Thẩm phán, Thư ký phiên họp xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính

      • 6.2.4. Quyền và nghĩa vụ của những người tham gia phiên họp

    • 6.3. Sự có mặt của những người tham gia phiên họp

    • 6.4. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp

    • 7. Ban hành, cấp, gửi quyết định phiên họp

    • 8. Các quy định khác liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

  • CHƯƠNG II

  • THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

    • 1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Pleiku.

    • 2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku từ năm 2014 đến năm 2017.

    • Thứ ba, khoản 2 Điều 118 Luật xử lý vi phạm hành chính, quy định trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Trường hợp người nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Cơ sở giáo dục bắt buộc thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này. Tuy nhiên đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể thế nào là hành vi côn đồ hung hãn.

    • Thứ tư, theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Luật xử lý vi phạm hành chính thì sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ quan lập hồ sơ phải thông báo về việc lập hồ sơ cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ để đọc hồ sơ, ghi chép nội dung cần thiết. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này trên thực tế cho thấy người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ thường không đến nên cơ quan Công an gặp rất nhiều khó khăn trong công tác lập, hoàn thiện hồ sơ đề nghị, hoặc họ lợi dụng việc được thông báo để bỏ trốn. Đây là một trong những nguyên nhân gây nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc. 

  • PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

    • 1. Kết luận

    • 2. Kiến nghị các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là một trong bốn biện pháp được quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 Theo Điều 102 Hiến pháp 2013, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý và quyền con người Căn cứ vào khoản 2 Điều 105 của Luật này, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc và cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc chuyển giao thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính từ Ủy ban nhân dân sang Tòa án nhân dân đánh dấu một bước chuyển đổi quan trọng nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch và bình đẳng trong quá trình xem xét Mục tiêu của sự chuyển đổi này là bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời tạo điều kiện cho các đương sự có nhiều cơ hội để bảo vệ quyền lợi của mình Điều này phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và đảm bảo các quyền con người, quyền công dân.

Tình hình vi phạm pháp luật hành chính ở Việt Nam đang gia tăng với diễn biến phức tạp, gây khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp xử lý tại tỉnh Gia Lai và toàn quốc Các cơ quan chức năng thường gặp phải tình trạng kéo dài và tốn kém trong quá trình xử lý, nhưng hiệu quả không cao Do đó, cần thiết phải có giải pháp phù hợp để giảm thiểu vi phạm và nâng cao hiệu quả của Tòa án trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính Mục tiêu không chỉ là ngăn chặn hành vi vi phạm mà còn nhằm quản lý và giáo dục đối tượng, giúp họ hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Vì vậy, học viên chọn đề tài: Áp dụng biện pháp xử lý hành chính

Tại Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, việc "đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc" đã được thực hiện và giải quyết thực tiễn, tạo ra nhiều bài học quý giá cho công tác giáo dục và cải tạo Sự áp dụng này không chỉ nhằm mục đích giáo dục mà còn giúp giảm thiểu tội phạm, đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng.

Các công trình nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính nói chung các Tác giả như:

Tác giả Vũ Thư với luận án phó tiến sĩ luật học về “Chế tài hành chính –

Lí luận và thực tiễn”, bảo vệ thành công tại Viện Nhà nước và pháp luật, 1996;

Tác giả Nguyễn Trọng Bình đã hoàn thành luận văn thạc sĩ luật học với chủ đề “Hoàn thiện các quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính” và bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội vào năm 2002.

Nguyễn Ngọc Bích là tác giả của luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về XLHC với người chưa thành niên”, đã bảo vệ thành công tại Trường Đại học Luật Hà Nội vào năm 2003.

Tác giả Cao Vũ Minh với luận văn “Vai trò của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc”

Mặc dù các công trình khoa học đã được công bố còn hạn chế, chúng đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân Tuy nhiên, hiện tại chưa có nghiên cứu nào cung cấp cái nhìn toàn diện về lý luận và thực tiễn của các biện pháp này Dù vậy, các tài liệu này vẫn là nguồn tham khảo giá trị cho nghiên cứu, tiểu luận và góp phần nâng cao kiến thức chuyên môn của học viên.

3 Phạm vi nghiên cứu đề tài

Bài viết này nghiên cứu việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại Toà án, tập trung vào thực tiễn địa phương đối với cá nhân là người Việt Nam hoặc những người vừa có quốc tịch Việt.

Người mang quốc tịch nước ngoài có hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, cũng như tài sản, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân và người nước ngoài, có thể vi phạm trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trên địa bàn tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2017.

- Tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

Lê nin đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích sự hình thành và phát triển của pháp luật liên quan đến biện pháp xử lý hành chính trong cơ sở giáo dục bắt buộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, cùng với các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm trật tự an toàn xã hội, tôn trọng quyền con người, và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì dân, do dân Điều này góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh hiện nay.

Phương pháp nghiên cứu trong đề tài này bao gồm phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu và suy luận logic, nhằm lý giải các vấn đề lý luận từ nhiều góc độ khác nhau Điều này giúp nhận diện những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong các quan điểm, từ đó đưa ra kết luận khoa học và nổi bật Bên cạnh đó, phương pháp thống kê và tổng kết thực tiễn cũng được áp dụng hiệu quả, cho phép phân tích và tổng hợp dữ liệu thực tế để có cái nhìn toàn diện về tình hình pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục bắt buộc, làm cơ sở chính xác cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả thi trong thực tiễn.

5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận

Kết quả nghiên cứu tiểu luận này làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại Tòa án nhân dân.

Kết quả nghiên cứu từ tiểu luận không chỉ giúp nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân mà còn tạo điều kiện áp dụng hiệu quả vào công việc thực tiễn.

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

“ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC BẮT BUỘC” TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

Luật Xử lý vi phạm hành chính, được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào ngày 20/6/2012 và có hiệu lực từ 1/7/2013, đã thay thế Pháp lệnh năm 2002 với nhiều quy định mới về hình thức và thẩm quyền xử lý vi phạm Đặc biệt, luật này quy định rõ các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, có hiệu lực từ 1/1/2014, cùng với quy trình xử phạt và mức xử phạt được cải tiến.

Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, có bốn biện pháp xử lý hành chính, trong đó biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc được quy định tại Điều 93 Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp này (khoản 2 Điều 105) Các biện pháp này mang tính cưỡng chế nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên Người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị hạn chế tự do và một số quyền lợi khác Do đó, việc áp dụng cần tuân thủ trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công khai, đảm bảo khách quan, chính xác, phù hợp với tinh thần bảo vệ công lý và quyền con người theo Nghị quyết số 49.

NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Theo quy định tại Điều 106 của Luật

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định quy trình và thủ tục cho Tòa án nhân dân trong việc xem xét và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, bao gồm việc đưa cá nhân vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là hình thức xử lý hành chính cho những người vi phạm pháp luật theo Điều 94 của Luật xử lý vi phạm hành chính, nhằm mục đích lao động, học văn hóa, học nghề và sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục Thời gian áp dụng biện pháp này kéo dài từ 6 đến 24 tháng Để thực hiện hiệu quả tại Tòa án nhân dân, đặc biệt là Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, cần nắm vững các nội dung liên quan đến quy trình và tiêu chí áp dụng biện pháp này.

1 Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Theo quy định tại Điều 94 Luật xử lý vi phạm hành chính; Điều 5, Điều

Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc được xác định rõ ràng trong nghị quyết này.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 94 của Luật xử lý vi phạm hành chính, đối tượng bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là những người đã từng bị xử lý giáo dục tại xã, phường, thị trấn (đối với người có nơi cư trú ổn định) hoặc chưa bị xử lý giáo dục (đối với người không có nơi cư trú ổn định) Nếu trong vòng 06 tháng, họ bị xử phạt vi phạm hành chính ít nhất 02 lần về các hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, xâm phạm tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, hoặc vi phạm trật tự, an toàn xã hội, và tiếp tục thực hiện các hành vi này trong thời gian 06 tháng đó mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, họ sẽ bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Người mang quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài sẽ bị xử lý hành chính theo Điều 94 của Luật xử lý vi phạm hành chính nếu rơi vào một trong các trường hợp quy định.

+ Người đó nhập cảnh vào Việt Nam bằng giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp;

+ Người đó cư trú ở Việt Nam cho đến khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Việc lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc áp dụng cho những đối tượng đã vi phạm hành chính ít nhất hai lần trong vòng 06 tháng, sau khi đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn Điều này được quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ, nhằm thực hiện các biện pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành chính.

Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với các trường hợp sau đây:

+ Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;

+ Nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi;

+ Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện cấp huyện trở lên; + Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được

Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Người có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài có thể nhập cảnh vào Việt Nam bằng hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế hộ chiếu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp.

2 Thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền xem xét và quyết định biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thuộc về Tòa án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Luật xử lý vi phạm hành chính, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp hành chính tại Tòa án nhân dân đã quy định rõ rằng Tòa án có thẩm quyền này là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở.

Thẩm quyền của Tòa án được xác định dựa trên cơ quan đề nghị có trụ sở trong cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án cấp huyện, mà không phụ thuộc vào nơi cư trú của người bị đề nghị.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.

3 Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính là khoảng thời gian pháp luật quy định để xử lý vi phạm hành chính Nếu thời hạn này hết, cá nhân hoặc tổ chức vi phạm sẽ không bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính Theo điểm c khoản 2 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính, thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc được quy định cụ thể.

Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 01 năm, bắt đầu từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm lần cuối theo quy định tại khoản 1 Điều 94 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

Trong trường hợp hành vi của người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có dấu hiệu tội phạm, Tòa án sẽ chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành tố tụng hình sự Nếu cơ quan này không khởi tố vụ án hình sự mà trả lại hồ sơ để xử lý vi phạm hành chính, thì thời gian xem xét của cơ quan tố tụng hình sự sẽ được tính vào thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

1 Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Pleiku.

Thành phố Pleiku, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Gia Lai, có diện tích tự nhiên 26.199,3 ha và dân số khoảng 233.069 người Nơi đây bao gồm 23 xã, phường và 254 thôn, làng, tổ dân phố, với sự hiện diện của 27 dân tộc anh em Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 12,24%, chủ yếu là người Jarai và người Banar, cùng với các dân tộc thiểu số khác đến cư trú và lập nghiệp.

Từ năm 2014 đến năm 2017, Tòa án nhân dân thành phố Pleiku đã thực hiện các biện pháp xử lý hành chính đối với những trường hợp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Những biện pháp này nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật và góp phần cải thiện tình hình an ninh trật tự tại địa phương Việc áp dụng các biện pháp này không chỉ giúp giáo dục, răn đe mà còn tạo cơ hội cho những người vi phạm có thể tái hòa nhập cộng đồng.

Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 và Pháp lệnh số 09/2014/UNTVQH 13, từ năm 2015 đến 30/9/2017, các Toà án nhân dân cấp huyện tại tỉnh Gia Lai đã thụ lý và ra 303 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính Các biện pháp này bao gồm việc đưa người vi phạm vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và trường giáo dưỡng Kết quả này được thể hiện rõ qua bảng số liệu hàng năm.

Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Gai Lai từ năm 2014 đến năm 2017

BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH Đưa vào cơ sở cai nghiện Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Đưa vào Trường giáo dưỡng

Số liệu: Báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai

Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku từ năm 2015 đến năm 2017

2015 2016 2017 Đưa vào trường giáo dưỡng 1 0 0 1 Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 0 0 1 1 Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 1 64 71 136

Số liệu: Báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân thành phố Pleiku

Bảng thống kê 2.2 trên cho chúng ta thấy, trong ba năm từ 2015 đến năm

Năm 2017, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã thực hiện các biện pháp xử lý hành chính đối với 138 đối tượng Trong đó, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chiếm tỷ lệ cao nhất với 136 đối tượng, trong khi biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và Trường giáo dưỡng mỗi biện pháp đều áp dụng cho một số lượng nhất định.

Việc áp dụng thời hạn và đặc điểm của người bị xử lý hành chính có sự khác biệt rõ rệt, điều này được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây.

Bảng 2.3: Số liệu thời hạn áp dụng và đặc điểm người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

THỜI HẠN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP

XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐẶC ĐIỂM NGƯỜI BỊ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

Từ 18 tháng đến 24 tháng Độ tuổi Nghiện ma túy

Từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi

Từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi

Từ18 tuổi trở lên tuổi Đưa vào trường giáo dưỡng 1 1 Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

1 1 Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Số liệu: Báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân thành phố Pleiku

Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc dao động từ 18 đến 24 tháng, với 01 đối tượng trong khoảng thời gian này Đối tượng bị áp dụng chủ yếu là nam giới, chiếm 92,1% (127 người), trong khi nữ giới chỉ chiếm 7,9% (11 người) Đáng chú ý, có 4 đối tượng là người dân tộc thiểu số, chiếm 2,8% tổng số.

Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân là nhiệm vụ mới theo quy định pháp luật, nhưng tại thành phố Pleiku, số lượng đối tượng bị xử lý hành chính, đặc biệt là đưa vào cơ sở cai nghiện, lại tương đối lớn Tuy nhiên, hồ sơ về việc đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vẫn còn ít, không phản ánh đúng nhu cầu thực tế của việc áp dụng các biện pháp này, do nhiều nguyên nhân khác nhau liên quan đến tình hình thực tế tại địa phương.

3 Hạn chế, vướng mắc của thực tiễn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân thành phố Pleiku đã gặp phải nhiều khó khăn và vướng mắc trong việc giải quyết hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.

Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được áp dụng cho đối tượng vi phạm hành chính khi có ít nhất hai lần vi phạm trong vòng 06 tháng, theo quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều 90 Luật xử lý vi phạm hành chính Cụ thể, từ lần vi phạm thứ hai, cơ quan có thẩm quyền có thể lập hồ sơ để áp dụng biện pháp giáo dục Thêm vào đó, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP cũng nhấn mạnh rằng cần có ít nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính trong khoảng thời gian này để đủ điều kiện áp dụng biện pháp giáo dục.

Theo quy định của CP, một cá nhân hoặc tổ chức sẽ bị xử phạt nếu trong vòng 06 tháng đã hai lần vi phạm hành chính Điều này được nêu rõ trong khoản 3 Điều 4 của Thông tư số 48/2014/TT-BCA.

Theo quy định hiện hành, nếu một người vi phạm hành chính lần thứ ba trở đi mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan chức năng sẽ lập biên bản vi phạm và hồ sơ giáo dục tại địa phương thay vì ra quyết định xử phạt Điều này đang gây khó khăn cho các địa phương trong việc thống nhất nhận thức và phối hợp thực hiện Đặc biệt, đối với người chưa thành niên vi phạm, cơ quan Công an cấp huyện hoặc tỉnh sẽ tiến hành xác minh và lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng nếu vi phạm chưa đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự Các đối tượng vi phạm khác cũng sẽ được xử lý tương tự theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.

Nghị định số 02/2014/NĐ-CP và Thông tư số 43/2014/TT-BCA chưa quy định rõ ràng về việc giao đối tượng bị lập hồ sơ cho gia đình hoặc tổ chức quản lý sau khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam Điều này tạo ra sự không rõ ràng về trách nhiệm của đơn vị và cấp nào trong quá trình quản lý đối tượng này.

Theo khoản 2 Điều 118 Luật xử lý vi phạm hành chính, nếu một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thì trong trường hợp người nghiện ma túy có hành vi côn đồ hung hãn, biện pháp áp dụng sẽ là đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Cơ sở giáo dục này sẽ tiến hành cai nghiện cho người đó Tuy nhiên, hiện tại chưa có văn bản nào quy định rõ ràng về khái niệm hành vi côn đồ hung hãn.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Luật xử lý vi phạm hành chính, sau khi lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng hoặc cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ quan lập hồ sơ phải thông báo cho người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ để họ có thể đọc và ghi chép nội dung Tuy nhiên, thực tế cho thấy thường xuyên xảy ra tình trạng người bị đề nghị hoặc đại diện hợp pháp không đến, gây khó khăn cho cơ quan Công an trong việc hoàn thiện hồ sơ Điều này cũng tạo điều kiện cho họ lợi dụng việc thông báo để trốn tránh, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc thực hiện biện pháp xử lý hành chính này.

Vào thứ năm, việc phối hợp thực hiện các quy định về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc đang gặp nhiều thách thức Hiện tại, nhiều cơ quan thực hiện quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính tại các giai đoạn khác nhau, từ việc lập hồ sơ đề nghị cho đến thi hành các biện pháp Điều này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa gia đình, tổ chức xã hội và các cơ quan chức năng Tuy nhiên, do Luật xử lý vi phạm hành chính chưa quy định rõ ràng, công tác phối hợp gặp khó khăn, đặc biệt trong việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ và chuyển hồ sơ để xem xét, quyết định.

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 28/12/2021, 13:16

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Gai Lai từ năm 2014 đến năm 2017 - Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại toà án từ thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố pleiku, tỉnh gia lai
Bảng 2.1 Tổng hợp số liệu tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Gai Lai từ năm 2014 đến năm 2017 (Trang 23)
Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku từ năm 2015 đến năm 2017 - Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại toà án từ thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố pleiku, tỉnh gia lai
Bảng 2.2 Tổng hợp số liệu tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku từ năm 2015 đến năm 2017 (Trang 24)
Bảng thống kê 2.2 trên cho chúng ta thấy, trong ba năm từ 2015 đến năm - Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại toà án từ thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố pleiku, tỉnh gia lai
Bảng th ống kê 2.2 trên cho chúng ta thấy, trong ba năm từ 2015 đến năm (Trang 25)
Bảng 2.3: Số liệu thời hạn áp dụng và đặc điểm người bị áp dụng - Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc” tại toà án từ thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố pleiku, tỉnh gia lai
Bảng 2.3 Số liệu thời hạn áp dụng và đặc điểm người bị áp dụng (Trang 25)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w