PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC”
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ”
1 Khái niệm “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”:
Là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ
18 tuổi trở lên để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2 Đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Theo Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, người từ 18 tuổi trở lên nghiện ma túy đã từng được giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng vẫn tiếp tục nghiện hoặc chưa được áp dụng biện pháp giáo dục và không có nơi cư trú ổn định sẽ bị xử lý theo quy định.
Tại Nghị định 221/2013/NĐ - CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ, thì đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc hai trường hợp:
Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, và đã từng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương nhưng vẫn tiếp tục nghiện, cần được quan tâm và hỗ trợ kịp thời để có thể tái hòa nhập cộng đồng.
Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy, sẽ không bị xử lý nếu không có nơi cư trú ổn định.
Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, ban hành ngày 09 tháng 09 năm 2016, đã sửa đổi và bổ sung một số Điều của Nghị định 122/2013/NĐ-CP, quy định rõ ràng và cụ thể về các đối tượng được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nhằm đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng.
Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, sẽ bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nếu vẫn còn nghiện trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định Nếu quyết định giáo dục đã hết thời hiệu thi hành, thời gian áp dụng biện pháp này là 01 năm.
Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định và đã chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy.
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.
* Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau:
- Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
- Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
- Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân các cấp nơi người đó cư trú xác nhận.
Tại Nghị định 221/2013/NĐ – CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ, quy định cụ thể ngoài các trường hợp kể trên còn có các trường hợp sau:
Người tham gia chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng được quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 81/2013/NĐ-CP, ban hành ngày 19 tháng 7 năm 2013 Nghị định này quy định các điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, nhằm hỗ trợ và quản lý hiệu quả quá trình cai nghiện ma túy trong cộng đồng.
- Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 96/2012/NĐ – CP ngày 15 tháng 11 năm
2012 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
3 Thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
“Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”:
3.1 Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nghiện ma túy có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa người đó vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nhằm hỗ trợ họ trong việc phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.
Hồ sơ đề nghị bao gồm các tài liệu cần thiết như bản tóm tắt lý lịch, chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại, chứng từ về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với hành vi nghiện ma túy, bản tường trình của người vi phạm hoặc người đại diện hợp pháp, cùng với các tài liệu liên quan khác.
Tại Nghị định số 136/2016/NĐ – CP ngày 09 tháng 09 năm 2016 của Chính phủ quy định cụ thể hồ sơ đề nghị gồm:
- Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Bản tường trình của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ;
Biên bản vi phạm hành chính được lập khi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc khi có phiếu xét nghiệm cho kết quả dương tính với chất ma túy tại thời điểm lập hồ sơ.
Bản sao giấy chứng nhận hoàn thành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn là yêu cầu đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định này Ngoài ra, đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3, cần có bản sao quyết định chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm xác minh nơi cư trú của người nghiện ma túy không cư trú tại nơi vi phạm pháp luật Nếu xác định được nơi cư trú, cần chuyển người đó cùng biên bản vi phạm về địa phương để xử lý Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú, phải lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Hồ sơ đề nghị bao gồm các tài liệu quan trọng như biên bản vi phạm, bản tóm tắt lý lịch, và chứng cứ về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của cá nhân Ngoài ra, cần có tài liệu chứng minh người đó đã từng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn liên quan đến hành vi nghiện ma túy, cùng với bản tường trình của người nghiện ma túy.
Tại Nghị định số 136/2016/NĐ – CP ngày 09 tháng 09 năm 2016 của Chính phủ quy định cụ thể hồ sơ đề nghị gồm:
- Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Bản tường trình của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ;
Biên bản vi phạm hành chính được lập khi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc khi có phiếu xét nghiệm cho kết quả dương tính với chất ma túy tại thời điểm lập hồ sơ.
Phiếu trả lời kết quả từ người có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định này sẽ xác định tình trạng nghiện ma túy hiện tại của cá nhân đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Tài liệu xác định người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định.
THỰC TIỄN VIỆC XEM XÉT QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC” TẠI TÒA ÁN ĐỊA PHƯƠNG
TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC” TẠI TÒA ÁN ĐỊA PHƯƠNG
Kể từ khi Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH có hiệu lực, số lượng trường hợp áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Hòa Bình tăng lên đáng kể, chủ yếu là đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Công tác lập hồ sơ và xét duyệt đã thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị đề nghị Sau khi quyết định được ban hành, các cơ quan liên quan đã nhanh chóng thi hành, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự tại địa phương và nhận được sự đồng thuận từ cộng đồng cũng như gia đình người bị xử lý.
Theo con số thống kê của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hòa Bình từ năm
Tổng số hồ sơ được thụ lý
- Đã xem xét giải quyết:
+ Quyết định không áp dụng:
+ Đình chỉ (hết thời hiệu):
Số hồ sơ bị khiếu nại, kiến nghị:
+ Đình chỉ (rút đơn khiếu nại):
Việc gia tăng áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” tại tỉnh Hòa Bình, một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, được lý giải bởi vị trí địa lý đặc biệt của tỉnh này Hòa Bình nằm cách thủ đô Hà Nội 73 km và giáp ranh với ba khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc và phía Nam Bắc, tạo ra những thách thức riêng trong công tác quản lý và phòng chống tệ nạn xã hội.
Tỉnh Hòa Bình của Việt Nam có vị trí địa lý giáp ranh với nhiều tỉnh, bao gồm Phú Thọ ở phía Bắc, Hà Nam và Ninh Bình ở phía Nam, cũng như thủ đô Hà Nội ở phía Đông Địa hình đồi núi và dân cư đông đúc khiến tình hình an ninh trật tự tại đây trở nên phức tạp, đặc biệt là vấn đề tội phạm và tệ nạn xã hội, trong đó nghiêm trọng nhất là ma túy Hai điểm nóng về ma túy tại Hòa Bình là tuyến đường thủy sông Đà và khu vực hai xã Hang Kia, Pà Cò Mặc dù các cơ quan chức năng đã triển khai nhiều biện pháp ứng phó, tình hình tội phạm ma túy vẫn diễn biến rất phức tạp.
Từ năm 2015 đến nay, Công an tỉnh Hòa Bình đã triệt phá 27 đường dây mua bán và vận chuyển ma túy liên tỉnh, cùng với 35 điểm bán lẻ phức tạp, bắt giữ 544 vụ với 848 đối tượng, thu giữ 449 bánh và hơn 4 kg heroin Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình đã xét xử 532 vụ án liên quan đến ma túy, trong đó nổi bật có các vụ án lớn như vụ Vũ Ngọc Sơn với 34 bị cáo, vụ Tráng A Chư với 8 bị cáo và vụ Trần Đức Duy với 25 bị cáo, tất cả đều phạm tội liên quan đến mua bán và vận chuyển trái phép chất ma túy.
Tình trạng tái trồng cây thuốc phiện vẫn diễn ra tại tỉnh, đặc biệt ở các hộ dân thuộc vùng sâu, vùng xa Họ trồng thuốc phiện xen lẫn với cây hoa màu nhằm mục đích làm thuốc chữa bệnh cho con người và gia súc, cũng như để ngâm rượu.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, trong 5 năm qua, số người nghiện ma túy tại Hòa Bình luôn duy trì ở mức khoảng 1.200 người Tuy nhiên, tình hình sử dụng trái phép chất ma túy vẫn diễn biến phức tạp, với heroin là loại ma túy chủ yếu Gần đây, xuất hiện thêm các loại ma túy tổng hợp mới như thuốc lắc và ma túy đá (Ketamin).
Tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp trong thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên, công nhân và viên chức nhà nước, đang gia tăng một cách đáng lo ngại.
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, KHÓ KHĂN KHI XEM XÉT GIẢI QUYẾT ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC” TẠI ĐỊA PHƯƠNG
1 Về xác định tình trạng nghiện ma túy :
Hiện nay, việc áp dụng quy định pháp luật về đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đang gặp nhiều vướng mắc và bất cập, do các quy định này nằm rải rác trong nhiều luật và văn bản khác nhau, gây khó khăn cho việc tra cứu và áp dụng Việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt là tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người đề nghị, vì theo Quyết định số 5075/QĐ – BYT và số 3556/QĐ – BYT của Bộ Y tế, cần phải có đủ hai điều kiện về lâm sàng và xét nghiệm để xác định tình trạng nghiện.
Để xác định tình trạng nghiện, cần có ít nhất 3 trong 6 triệu chứng trong vòng 12 tháng và xét nghiệm dương tính với chất ma túy Tuy nhiên, 5 trong 6 triệu chứng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người nghi ngờ nghiện, yêu cầu họ hợp tác và trả lời đúng khi được hỏi Chỉ có triệu chứng "hội chứng cai" là phản ánh khách quan Thực tế, nhiều người không hợp tác, không thừa nhận tình trạng nghiện của mình Để xác định hội chứng cai, cần giữ người đó không sử dụng ma túy trong 48 giờ đối với người nghiện OPIAT và ATS, nhưng luật pháp hiện tại không quy định rõ về việc này Do đó, việc xác định tình trạng nghiện trở nên phức tạp và tốn kém về thời gian và chi phí Hiện chưa có hướng dẫn rõ ràng về việc định nghĩa người nghiện, đặc biệt trong những trường hợp sử dụng ma túy lần đầu do bạn bè rủ rê.
Theo Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA, quy định về thẩm quyền và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy còn thiếu sót trong một số nội dung như cơ sở pháp lý và quyền lợi của người bị lưu giữ Thời gian xác định tình trạng nghiện ma túy là từ 3-5 ngày, trong khi thời gian tạm giữ người vi phạm hành chính tại cơ quan công an chỉ tối đa 24 giờ, dẫn đến việc không đủ thời gian để xác định tình trạng nghiện Đặc biệt, khi bị bắt, người sử dụng ma túy thường trong tình trạng no thuốc, không biểu hiện triệu chứng nghiện ngay lập tức Điều này gây khó khăn cho việc xác định tình trạng nghiện, nhất là với người sử dụng ma túy đá, do loại chất này không tồn tại lâu trong cơ thể Ngành y tế đang chịu áp lực từ người sử dụng trái phép chất ma túy, trong khi cả cơ quan công an và ngành y tế đều không có chức năng giữ người sử dụng trái phép.
Vụ việc Bùi Đức Hanh tại Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, cho thấy khó khăn trong việc xác định tình trạng nghiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế Bùi Đức Hanh không hợp tác trong việc cung cấp thông tin về tình trạng nghiện của mình, gây khó khăn cho việc xác định hội chứng cai Luật không quy định việc giữ người để xác định nghiện, dẫn đến nhiều trở ngại Thời hạn lập hồ sơ ngắn và thường xuyên phải trả lại do việc xác định tình trạng nghiện gặp nhiều khó khăn.
2 Khó xác định nơi cư trú:
Theo Điều 12 của Luật Cư trú, nơi cư trú của công dân được định nghĩa là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống, bao gồm nơi thường trú và nơi tạm trú Khoản 2 Điều 30 của Luật Cư trú cũng quy định rõ về vấn đề này.
Theo quy định, trong vòng 30 ngày kể từ ngày đến, người dân phải đăng ký tạm trú tại Công an xã, phường Để xác định một người không có nơi cư trú ổn định, cần căn cứ vào khoản 2 Điều 30 Luật Cư trú Việc Công an xác định một người dương tính với ma túy vào ngày thứ 02 là không có nơi cư trú ổn định là trái với quy định này Ngoài ra, trường hợp người có hộ khẩu thường trú rõ ràng nhưng không có mặt tại địa phương cũng bị xem là không có nơi cư trú ổn định, điều này vi phạm Điều 12 Luật Cư trú.
Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định rằng "nơi cư trú ổn định" là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng thực tế quy định này chưa rõ ràng, dẫn đến sự không nhất quán trong việc áp dụng pháp luật Có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định nơi cư trú ổn định, từ phạm vi xã, phường, thị trấn cho đến huyện và tỉnh Đặc biệt, đối với người nghiện ma túy, họ thường không có nơi cư trú ổn định và di chuyển liên tục giữa các địa phương, tham gia vào các nhóm sử dụng ma túy, gây khó khăn trong việc xác minh nơi cư trú của họ Quy trình xác minh thường chậm trễ và không hiệu quả, làm mất thời gian cho cơ quan công an trong việc hoàn thiện hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Nguyễn Văn Hải, hiện đang cư trú tại Tổ 8, xã Sủ Ngòi, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, là một đối tượng nghiện ma túy Mặc dù sống ổn định tại địa phương, Hải thường xuyên di chuyển và thay đổi địa điểm sinh hoạt, gây khó khăn trong việc xác minh nơi cư trú của anh Quá trình xác minh thường chậm trễ và thiếu thông tin cụ thể, làm mất thời gian cho cơ quan công an trong việc hoàn thiện hồ sơ để đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
3 Kiểm sát việc xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính:
Theo khoản 3 Điều 4 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH, Viện kiểm sát có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ việc tại Tòa án sau khi nhận thông báo thụ lý hồ sơ Tuy nhiên, quy định này còn chung chung và chưa phù hợp với Điều 147 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, yêu cầu Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát Viện kiểm sát có thời hạn 15 ngày để nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính diễn ra nhanh chóng, nhưng Kiểm sát viên chỉ nghiên cứu hồ sơ tại Tòa án mà không xem xét trước đó Điều này dẫn đến việc Kiểm sát viên không thể đảm bảo rằng các cơ quan chức năng đã thông báo rõ ràng về quyền lợi của người bị đề nghị từ khi bắt đầu lập hồ sơ.
4 Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ quản lý người nghiện:
Hiện nay, quy trình lập hồ sơ liên quan đến nhiều cơ quan như Công an xã, Công an huyện, Phòng Tư pháp, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, và Toà án nhân dân cấp huyện, dẫn đến việc tiêu tốn nhiều thời gian Trong thời gian chờ quyết định, người nghiện có hộ khẩu thường trú sẽ được gửi về gia đình quản lý, trong khi những người không có nơi cư trú rõ ràng phải được đưa đến các cơ sở quản lý Tuy nhiên, các huyện tại tỉnh Hòa Bình hiện chưa có nhà lưu giữ, khiến cho việc quản lý và lưu giữ đối tượng gặp khó khăn.
Theo điểm b khoản 1 Điều 103 Luật Xử lý vi phạm hành chính, hồ sơ đề nghị đưa người nghiện không có nơi cư trú ổn định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cần có tài liệu chứng minh họ đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn Tuy nhiên, quy định này khó thực hiện vì người nghiện không có nơi cư trú ổn định thường không được giáo dục tại địa phương Mặc dù Nghị định số 136/2016/NĐ-CP không đề cập đến nội dung này, theo Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, nếu hồ sơ không đủ tài liệu theo quy định, Tòa án sẽ trả lại hồ sơ và nêu rõ lý do.
5 Về thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính:
Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, tính từ ngày cá nhân vi phạm lần cuối quy định tại khoản 1 Điều.
Theo quy định tại Điều 96 của Luật này, có hai cách hiểu về thời hạn 03 tháng liên quan đến quyết định của Tòa án trong việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Cách hiểu thứ nhất cho rằng thời hạn này bắt đầu từ ngày Tòa án ra quyết định, yêu cầu các cơ quan chức năng phải thu thập tài liệu và hoàn tất hồ sơ theo Điều 9 Nghị định 221/2013/NĐ-CP Cách hiểu thứ hai lại nhấn mạnh rằng việc lập hồ sơ đề nghị cần nhiều thời gian hơn, do việc thu thập tài liệu đầy đủ là một nhiệm vụ khó khăn, đặc biệt khi người nghiện thường có tâm lý né tránh việc vào cơ sở cai nghiện, trong khi số lượng người nghiện ma túy ngày càng gia tăng.
Chương III : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ
VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
“ĐƯA VÀO CƠ SỎ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC”
Quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp nhiều khó khăn trong việc xem xét và giải quyết Để khắc phục những vướng mắc này, cần kiến nghị và đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo điều kiện và cơ sở cần thiết, từ đó tổ chức thực hiện hiệu quả biện pháp xử lý hành chính này.