GIỚI THIỆU
Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Bình Dương, một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nổi bật với vị trí gần TP HCM, điều kiện địa lý thuận lợi và cơ sở hạ tầng phát triển, đã nhanh chóng trở thành một trong những địa phương có tốc độ phát triển ấn tượng Chính sách "trải thảm đỏ đón nhà đầu tư" đã thu hút một lượng lớn lao động ngoại tỉnh, với tỷ lệ công nhân nhập cư luôn vượt 65%, đạt khoảng 85% vào năm 2017 Dân số đông thứ 7 cả nước, sự gia tăng dân số kéo theo nhu cầu về nhà ở, giáo dục, y tế, giải trí và tín dụng cũng gia tăng mạnh mẽ.
Mạng lưới tổ chức tín dụng tại tỉnh đã có sự phát triển mạnh mẽ, với số lượng tăng từ 35 chi nhánh tổ chức tín dụng, 11 quỹ tín dụng nhân dân và 84 phòng giao dịch vào năm 2005, lên 66 tổ chức tín dụng vào cuối năm 2017 Trong số này có 13 chi nhánh tổ chức tín dụng Nhà nước, 32 chi nhánh tổ chức tín dụng cổ phần, 1 chi nhánh tổ chức tín dụng liên doanh, 5 chi nhánh tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, 1 văn phòng đại diện, 1 chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội, 1 chi nhánh Ngân hàng Phát triển khu vực Bình Dương - Bình Phước, 1 quỹ đầu tư của tỉnh và 11 quỹ tín dụng nhân dân, tổng cộng có 165 phòng giao dịch.
Trong lĩnh vực tài chính vi mô tại tỉnh, bên cạnh các tổ chức tài chính vi mô chính thức, còn có nhiều tổ chức khác tham gia cung cấp tín dụng vi mô, bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, Ngân hàng Kiên Long, cùng với các Quỹ Tín dụng Nhân dân.
Bằng cách chia nhỏ khoản nợ và trả đều trong nhiều kỳ, các tổ chức tín dụng vi mô (TCTCVM) giúp giảm áp lực nợ cho khách hàng, đồng thời nâng cao năng lực tài chính cho người nghèo và người có thu nhập thấp Tuy nhiên, khả năng tiếp cận và phục vụ của các TCTCVM vẫn còn hạn chế, khiến khách hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng khi lựa chọn tổ chức vay vốn phù hợp, vì mỗi tổ chức đều có những điểm mạnh và yếu cũng như phương thức phục vụ khác nhau.
Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một là một trong những nhà cung cấp dịch vụ tài chính vi mô hàng đầu tại tỉnh Bình Dương, với lợi thế về mạng lưới cơ sở rộng khắp và đội ngũ nhân viên tận tâm Tuy nhiên, chi nhánh đang phải đối mặt với thách thức từ sự gia tăng của nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô khác nhau Để nâng cao sự hài lòng của khách hàng và tạo ra lợi thế cạnh tranh, CEP Thủ Dầu Một cần tập trung cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình.
Nghiên cứu trước đây từ Aarthi N & Suresh M (2018) tại Ấn Độ, Jesmin Ara và Humaira Begum (2018) tại Bangladesh, Eddy Balemba Kanyurhi (2013) tại Togo, cùng với các nghiên cứu tại Việt Nam như của Nguyễn Kim Nam và Trần Thị Tuyết Vân (2015) ở TP HCM, và Nguyễn Quốc Nghi (2010) ở TP Cần Thơ, đã chỉ ra rằng các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn tổ chức tín dụng vay vốn của khách hàng khác nhau giữa các khu vực Từ đó, đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn vay vốn tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một” ra đời nhằm giúp chi nhánh CEP Thủ Dầu Một hiểu rõ hơn về khách hàng, nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định vay vốn, từ đó làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược và cải thiện hoạt động nhằm thu hút khách hàng tiềm năng.
Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là phân tích các yếu tố tác động đến quyết định vay vốn của khách hàng tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một Qua đó, nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị nhằm cải thiện dịch vụ và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn vay vốn tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một bao gồm uy tín của tổ chức, lãi suất vay, điều kiện vay, dịch vụ khách hàng, và nhu cầu tài chính của khách hàng Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành quyết định vay vốn của khách hàng, giúp họ lựa chọn giải pháp tài chính phù hợp nhất với nhu cầu và khả năng chi trả của mình.
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với quyết định vay vốn của khách hàng tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một là rất quan trọng Nghiên cứu này sẽ phân tích các yếu tố tác động, từ đó giúp cải thiện dịch vụ và đáp ứng nhu cầu của khách hàng hiệu quả hơn Việc hiểu rõ các yếu tố này không chỉ hỗ trợ khách hàng trong quá trình vay vốn mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của tổ chức tài chính.
- Đưa ra các khuyến nghị nhằm thu hút, gia tăng Quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một của khách hàng.
Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết tốt các mục tiêu, nghiên cứu cần phải làm rõ các câu hỏi sau:
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến Quyết định lựa chọn vay vốn tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một của khách hàng?
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến quyết định vay vốn của khách hàng tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một rất đa dạng Các yếu tố như lãi suất, điều kiện vay, và dịch vụ khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành sự lựa chọn của khách hàng Đặc biệt, sự tin tưởng vào tổ chức tài chính và uy tín của CEP cũng là những yếu tố quyết định, giúp khách hàng cảm thấy an tâm khi vay vốn Việc nắm bắt và phân tích những yếu tố này sẽ giúp CEP cải thiện dịch vụ và thu hút nhiều khách hàng hơn.
- Những khuyến nghị nào có thể giúp thu hút, gia tăng quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một của khách hàng?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn vay vốn tại Tổ chức tài chính vi mô CEP - Chi nhánh Thủ Dầu Một của khách hàng.
- Về thời gian: nghiên cứu tiến hành khảo sát, thu thập dữ liệu sơ cấp trong năm
- Về không gian: chi nhánh CEP Thủ Dầu Một.
Phương pháp nghiên cứu
1.5.1 Phương pháp nghiên cứu định tính
- Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả (thông qua dữ liệu sơ cấp thu thập được), tiến hành lập bảng biểu, vẽ đồ thị so sánh.
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính và quản lý nhằm khám phá và bổ sung các yếu tố cũng như biến quan sát phù hợp với chủ đề nghiên cứu.
1.5.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng được tiến hành trên cơ sở mô hình định lượng, thông qua công cụ xử lý SPSS 20, cụ thể:
- Thu thập dữ liệu nghiên cứu bằng Phiếu khảo sát, kích thước mẫu n = 230, được chọn chủ yếu theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện.
Đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích yếu tố khám phá (EFA) giúp loại bỏ các biến quan sát không phù hợp với khái niệm nghiên cứu Quá trình này cũng cho phép tái cấu trúc các biến quan sát còn lại thành các yếu tố thích hợp, tạo nền tảng cho việc hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu và các giả thuyết liên quan.
Phân tích hồi quy bội với các quan hệ tuyến tính được sử dụng để kiểm định mô hình nghiên cứu và các giả thuyết liên quan, đồng thời tính toán mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến quyết định vay vốn của khách hàng tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định vay vốn tại TCTCVM, đặc biệt là tại chi nhánh CEP - Thủ Dầu Một Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm thu hút và gia tăng quyết định vay vốn của khách hàng tại chi nhánh này.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Tổng quan về tài chính vi mô
2.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển tài chính vi mô
TCVM, một khái niệm không mới trong lĩnh vực tài chính, có nguồn gốc từ thế kỉ XV tại Châu Âu, khi giáo hội Công giáo thành lập các cửa hàng cho vay thế chấp để bảo vệ người dân khỏi lãi suất cao của những người cho vay nặng lãi Những cửa hàng này sau đó lan rộng khắp châu lục, cho thấy rằng “tài chính phi chính thức và nhóm tự hỗ trợ là nguồn gốc của tài chính vi mô ở châu Âu” (Seibel, 2005) Đến đầu năm 1720, nhiều tổ chức tín dụng chính thức đã được thành lập tại Ireland, cung cấp quỹ cho vay không lãi suất và trả góp hàng tuần Vào đầu những năm 1800, Friedrich Wilhelm Raiffeisen đã thành lập một tổ chức tài chính kiểu hợp tác xã tại Đức, phát triển mạnh mẽ và mở rộng ra châu Âu, Bắc Mỹ và các nước đang phát triển Đến những năm 1900, mô hình hoạt động của Raiffeisen phù hợp với đa số hộ gia đình nông thôn ở Mỹ Latinh, với các dịch vụ tài chính được thiết kế để đáp ứng nhu cầu sản xuất của các hộ gia đình như giống và phân bón (Helms, 2006).
Một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành tài chính vi mô (TCVM) là sự ra đời của Ngân hàng tín dụng nhân dân Indonesia (IPCB1) vào năm 1895, trở thành hệ thống TCVM lớn nhất tại Indonesia Đến năm 1974, giáo sư Mahammad Yunus từ Bangladesh đã thực hiện khoản vay đầu tiên cho một nhóm phụ nữ ở Jobra mà không cần thế chấp, với quy định rằng nếu một thành viên không trả nợ, các thành viên khác sẽ chịu trách nhiệm Hình thức này đã tạo nền tảng cho mô hình ngân hàng Grameen, một biểu tượng của tài chính vi mô trên toàn cầu.
2.1.1.2 Khái niệm tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô a Khái niệm tài chính vi mô
Cho đến nay, có nhiều khái niệm về TCVM - xét trên góc nhìn khác nhau của từng tổ chức, từng chương trình.
Theo CGAP (2013), tài chính vi mô (TCVM) cung cấp dịch vụ tài chính thiết yếu cho người nghèo, bao gồm tiết kiệm, tín dụng, lương hưu, chuyển tiền, bảo hiểm vi mô và các dịch vụ phi tài chính khác Những dịch vụ này được thiết kế phù hợp với nhu cầu của nhóm thu nhập thấp, nhằm hỗ trợ sản xuất, phát triển nghề nghiệp, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Theo Ledgerwood (2000), TCVM là phương pháp phát triển kinh tế thông qua dịch vụ tài chính, mang lại lợi ích cho cư dân có thu nhập thấp Phương pháp này bao gồm hai yếu tố chính: trung gian tài chính và trung gian xã hội.
Theo cách hiểu truyền thống, Tài chính vi mô (TCVM) được xem là hoạt động cung cấp các khoản vay nhỏ cho hộ gia đình và cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là người nghèo và các gia đình nghèo, nhằm giúp họ tạo ra việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Theo Quỹ Đầu tư và Phát triển Liên hiệp quốc (UNCDF), tài chính vi mô (TCVM) được định nghĩa là việc cung cấp dịch vụ tài chính cho những cá nhân không có khả năng tiếp cận hệ thống tài chính chính thức.
Theo Nghị định số 28/2005/NĐ-CP, tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam được định nghĩa là hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nhỏ, bao gồm nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc và tự nguyện, cùng với một số dịch vụ thanh toán Mục tiêu chính của TCVM là phục vụ các hộ gia đình và cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ nghèo và người nghèo.
Tổ chức tài chính vi mô (TCVM) không chỉ phục vụ người nghèo và người có thu nhập thấp mà còn mở rộng đến nhiều đối tượng khác TCVM không chỉ mang sứ mệnh an sinh xã hội mà còn hoạt động như một trung gian tài chính, giúp đỡ những khách hàng gặp khó khăn trong cuộc sống, dù là tạm thời hay lâu dài.
Theo ADB (2000), TCTCVM được định nghĩa là một loại hình doanh nghiệp xã hội, với mục tiêu chính là cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng Mục tiêu này nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và các doanh nghiệp siêu nhỏ.
Theo Joanna Ledgerwood (2006), tài chính vi mô (TCVM) không chỉ là phương pháp phát triển kinh tế cho cư dân thu nhập thấp mà còn bao gồm yếu tố trung gian xã hội như hình thành nhóm, đào tạo kiến thức và hỗ trợ quản lý Mặc dù nhiều tổ chức phi chính phủ không xem mình là tổ chức tài chính, nhưng họ vẫn cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo Tương tự, một số ngân hàng thương mại cũng được xem là tổ chức tài chính vi mô dù chỉ cung cấp một phần nhỏ dịch vụ này Tại Việt Nam, TCTCVM được công nhận chính thức theo Luật Các tổ chức tín dụng 2010, quy định rằng TCTCVM là tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện các hoạt động ngân hàng cho cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
2.1.1.3 Phân loại và đặc điểm của các tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM
Dịch vụ tài chính vi mô (TCVM) tại Việt Nam được cung cấp bởi nhiều đơn vị như ngân hàng thương mại, Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Hợp tác xã, Quỹ tín dụng nhân dân, các công ty tài chính và tổ chức tài chính vi mô Theo nghiên cứu của Nguyễn Kim Anh (2011), mạng lưới cung ứng dịch vụ TCVM được chia thành ba khu vực: khu vực chính thức, khu vực bán chính thức và khu vực phi chính thức Mặc dù phục vụ cùng một nhóm khách hàng, mỗi khu vực lại có mục tiêu và tính chất hoạt động riêng biệt Các đơn vị cung cấp dịch vụ TCVM được phân loại cụ thể trong bảng 2.1.
Bảng 2.1: Phân loại các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính vi mô
Khu vực chính thức Khu vực bán chính thức Khu vực phi chính thức
• Các NHTM, đầu tư, tiết kiệm, phát triển
• Các ngân hàng phục vụ nông thôn
• Các ngân hàng theo mô hình hợp tác xã
• Các tổ chức phi ngân hàng khác
• Các công ty tài chính
• Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng, Quỹ hưu trí
• Các công ty bảo hiểm
(thị trường cổ phiếu, trái phiếu)
• Các tổ chức tài chính vi mô chính thức đăng ký theo luật
• Các hợp tác xã tín dụng và tiết kiệm
• Các hiệp hội tín dụng
• Các ngân hàng nhân dân không đăng ký chính thức là TCTD
• Các ngân hàng hợp tác
• Các quỹ tiết kiệm tạoxã việc làm
• Các ngân hàng làng xã không đăng ký chính thức là TCTD
• Các dự án phát triển, các tổ chức phi chính phủ cung cấp dịch vụ tài chính vi mô
• Các hiệp hội tiết kiệm
• Các hiệp hội tín dụng và tiết kiệm quay vòng và biến thể của nó
• Các công ty tài chính, đầu tư phi chính thức
• Những người cho vay cá nhân thương mại:
(ví dụ: người cho vay nặng lãi); và phi thương mại(họ hàng, bạn bè, hàng xóm…)
• Các thương gia và chủ hiệu
Các đơn vị trong khu vực chính thức phải tuân thủ quy định và kiểm soát của ngành ngân hàng Đơn vị bán chính thức được cấp phép bởi các cơ quan chính phủ và chịu sự giám sát từ những cơ quan này Trong khi đó, các trung gian tài chính phi chính thức hoạt động ngoài sự quản lý của ngành ngân hàng và cơ quan chính phủ.
So với các tổ chức tín dụng cùng cung cấp dịch vụ TCVM, các TCTCVM có các đặc điểm khác biệt sau:
Bảng 2.2: Đặc điểm của các TCTCVM so với các TCTD khác
Chỉ tiêu TCTCVM TCTD khác
Mục tiêu bền vững và trách nhiệm xã hội thường bị ảnh hưởng bởi mục tiêu lợi nhuận Thị phần khách hàng chủ yếu tập trung vào những người có thu nhập thấp ở nông thôn, trong khi khách hàng trung bình và khá lại chủ yếu ở khu vực thành thị Để giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp thường áp dụng hình thức tín chấp theo nhóm bảo lãnh và đảm bảo chủ yếu bằng tài sản.
- Khoản vay nhỏ, trả dần, chủ yếu cho phụ nữ
- Một số sản phẩm bổ sung giúp nâng cao năng lực
Nhân lực - Đào tạo và kỹ thuật không cao
- Kỹ năng xã hội tốt Đào tạo & kỹ năng cao Thủ tục Đơn giản & tối thiểu hóa Phức tạp hơn
Cách tiếp cận Tại làng/bản/tại nhà khách hàng Tại phòng giao dịch/chi nhánh
Nguồn: Nguyễn Kim Anh, Lê Thanh Tâm (2013) [4]
Mức độ cân bằng giữa trách nhiệm xã hội và lợi nhuận ở các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô (TCVM) có sự khác biệt Để duy trì trách nhiệm xã hội bền vững, các tổ chức TCVM cần có khả năng tài chính ổn định Ngược lại, nếu các tổ chức này tập trung vào lợi nhuận quá mức, họ sẽ không thể đảm bảo trách nhiệm xã hội, làm cho sứ mệnh hoạt động của họ trở nên vô nghĩa.
Hình 2.1: Trách nhiệm xã hội và bền vững tài chính & khả năng sinh lợi của một số tổ chức tài chính
2.1.1.4 Sản phẩm và dịch vụ của tổ chức tài chính vi mô a Tín dụng vi mô
Tín dụng vi mô đóng góp một phần lớn vào tài sản của các TCTCVM, nhờ vào việc tiếp cận sâu sát khách hàng thông qua các tổ chức đoàn thể địa phương Mặc dù mục tiêu ban đầu là cung cấp vốn cho sản xuất nhỏ trong nông nghiệp và kinh doanh siêu nhỏ, nhưng hộ nghèo và hộ có thu nhập thấp thường gặp khó khăn trong việc phân tách nguồn vốn Điều này dẫn đến xu hướng sử dụng tín dụng vi mô cho nhiều mục đích khác, bao gồm học phí, chữa bệnh, và cải thiện điều kiện sống như nước sạch và vệ sinh môi trường.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quy trình nghiên cứu
Bài nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính để điều chỉnh, phát hiện và bổ sung các yếu tố mới, đồng thời kết hợp với nghiên cứu định lượng dựa trên mô hình định lượng.
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu
Mẫu: 230 quan sát Phương pháp: Chọn mẫu thuận tiện
Xây dựng thang đo sơ bộ
Kiểm định độ tin cậy thang đo
Rút gọn các biến đo lường
Phân tích nhân tố khám phá EFA
Phân tích tương quan - hồi quy
Kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Kết luận và hàm ý quản trị Điều chỉnh thang đo(nếu có)
Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính áp dụng phương pháp thống kê mô tả thông qua việc thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, từ đó lập bảng biểu và vẽ biểu đồ so sánh Đồng thời, nghiên cứu còn thực hiện thảo luận nhóm chuyên gia nhằm khám phá ý kiến mới, bổ sung và điều chỉnh các biến quan sát Đối tượng tham gia thảo luận là các chuyên gia có trình độ tối thiểu cử nhân và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, bao gồm hai giám đốc chi nhánh, hai trưởng phòng tín dụng, hai tổ trưởng tín dụng và một cán bộ tín dụng Ý kiến được thống nhất thông qua biểu quyết, chọn theo đa số Kết quả và dàn bài thảo luận nhóm chuyên gia được trình bày tại Phụ lục 01.
Dựa trên lý thuyết và mô hình nghiên cứu của Aarthi N & Suresh M (2018), tác giả đã đề xuất mô hình nghiên cứu gồm 07 yếu tố với 33 biến quan sát, trong đó có 06 yếu tố chính từ mô hình trước đó: Chính sách quy định, Sản phẩm/dịch vụ, Mạng lưới phổ biến, Các hoạt động xã hội, Đối xử công bằng và Sự chuyên nghiệp Ngoài ra, tác giả bổ sung yếu tố mới là Độ tin cậy và đảm bảo Biến phụ thuộc trong nghiên cứu là Quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một, với 03 biến quan sát.
Tổng hợp biến quan sát và thang đo được thể hiện tại bảng 3.1 bên dưới. Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert với 5 mức độ (1 Hoàn toàn không đồng ý; 2.
Không đồng ý; 3 Không có ý kiến; 4 Đồng ý; 5 Hoàn toàn đồng ý).
Bảng 3.1: Tổng hợp biến quan sát và thang đo
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN VAY VỐN CEP MỨC ĐỘ ĐỒNG Ý
Phát biểu về yếu tố Chính sách quy định
1 Điều kiện tham gia dễ dàng 1 2 3 4 5
2 Hồ sơ vay vốn đơn giản 1 2 3 4 5
3 CEP cho vay không yêu cầu tài sản thế chấp 1 2 3 4 5
4 Khách hàng không phải tốn các khoản phí khác ngoài lãi vay 1 2 3 4 5
5 Vốn gốc được chia nhỏ để trả dần 1 2 3 4 5
6 CEP không tính lãi phạt khi khách hàng trả chậm 1 2 3 4 5
7 Các giao dịch được thực hiện tại cơ sở, khách hàng không cần phải đến văn phòng chi nhánh 1 2 3 4 5
Phát biểu về yếu tố Sản phẩm/ dịch vụ
1 CEP có nhiều thời hạn vay linh hoạt 1 2 3 4 5
2 Lãi suất cho vay của CEP hợp lý 1 2 3 4 5
3 CEP có nhiều kỳ hạn góp (1 tuần, 2 tuần, 4 tuần, tháng) để lựa chọn 1 2 3 4 5
4 Khách hàng có thể gửi tiết kiệm từ khoản tiền nhỏ 1 2 3 4 5
Phát biểu về yếu tố Mạng lưới phổ biến
1 Khách hàng có thể tiếp cận thông tin về CEP dễ dàng 1 2 3 4 5
2 Địa điểm nhận vốn thuận tiện 1 2 3 4 5
3 Địa điểm trả lãi thuận tiện 1 2 3 4 5
Phát biểu về yếu tố Các hoạt động xã hội
1 CEP có các buổi họp cụm với thông tin hữu ích 1 2 3 4 5
2 CEP có chương trình trao tặng học bổng và dụng cụ học tập cho con em khách hàng 1 2 3 4 5
3 CEP có chương trình hỗ trợ nhu yếu phẩm 1 2 3 4 5
4 CEP có chương trình tặng thẻ Bảo hiểm y tế 1 2 3 4 5
5 CEP có các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm ngành nghề cho khách hàng 1 2 3 4 5
6 CEP có các hoạt động vì cộng đồng 1 2 3 4 5
Phát biểu về yếu tố Đối xử công bằng
1 CEP cho tất cả khách hàng vay với lãi suất như nhau 1 2 3 4 5
2 CEP có cơ chế xét duyệt mức vay rõ ràng 1 2 3 4 5
3 CEP để khách hàng tự kiểm soát việc sử dụng vốn vay 1 2 3 4 5
4 CEP không phân biệt hạn mức cho vay giữa khách hàng mới và khách hàng cũ 1 2 3 4 5
Nguồn: tác giả luận văn
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Tổng quan về Tổ chức tài chính vi mô CEP và chi nhánh Thủ Dầu Một
4.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Vào đầu thập niên 90, Liên đoàn Lao động Tp.HCM đã tích cực kết nối các hoạt động công đoàn với hoạt động xã hội nhằm giảm nghèo, đặc biệt là tạo việc làm cho CBNV và người lao động nghèo Tuy nhiên, việc tạo việc làm gặp khó khăn do thiếu nguồn tín dụng cho người lao động nghèo khởi nghiệp Để khắc phục, Liên đoàn đã tiến hành khảo sát và học hỏi từ các mô hình tạo việc làm hiệu quả trên thế giới, trong đó mô hình Ngân hàng Grameen của Bangladesh được đánh giá là phù hợp nhất với bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay.
Vào tháng 7/1991, Liên đoàn Lao động Tp.HCM đã khởi động thí điểm các chương trình tín dụng và tiết kiệm tại các quận và huyện đô thị cũng như nông thôn của Tp.HCM, bao gồm quận 1, quận Gò Vấp, huyện Củ Chi và Cần Giờ, theo mô hình Ngân hàng Grameen Chương trình đã đạt được những kết quả khả quan, giúp người lao động nghèo có được nguồn vốn nhỏ để thực hiện các hoạt động tự tạo thu nhập, từ đó cải thiện đời sống và an sinh xã hội.
Vào ngày 02/11/1991, Ủy ban Nhân dân Tp.HCM đã quyết định thành lập "Quỹ Trợ Vốn cho Người Lao Động Nghèo Tự Tạo Việc Làm" (CEP) với mục tiêu xây dựng mối quan hệ gắn bó với người lao động CEP cung cấp các khoản vay nhỏ nhằm hỗ trợ người dân trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện tình trạng nghèo đói.
Kể từ khi thành lập, CEP đã không ngừng mở rộng dịch vụ tín dụng vi mô cho người lao động nghèo tại Tp.HCM thông qua việc thành lập các chi nhánh tại các quận, huyện, góp phần tích cực vào chương trình xóa đói giảm nghèo của thành phố.
Năm 1998, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng Huân chương Lao động Hạng Ba cho CEP để ghi nhận những đóng góp của tổ chức này Đến năm 2001, CEP vinh dự nhận Huân chương Lao động Hạng Nhì nhờ những đóng góp thiết thực và hiệu quả trong công cuộc xóa đói giảm nghèo tại Tp.HCM.
Vào giữa năm 2001, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Australia đã ký thỏa thuận “Mở rộng hoạt động tài chính vi mô của CEP”, tạo điều kiện cho việc thành lập thêm chi nhánh và nâng cao năng lực tổ chức của CEP, nhằm phục vụ nhân dân lao động nghèo tại 24 quận/huyện của TP.HCM Đến năm 2007, CEP mở chi nhánh đầu tiên ngoài TP.HCM tại tỉnh Bình Dương, và đến năm 2010, đã thành lập thêm 08 chi nhánh tại các tỉnh lân cận, tiếp tục cung cấp dịch vụ tài chính cho người lao động nghèo ở khu vực nông thôn và các khu vực chưa phát triển tại Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Năm 2011, CEP kỷ niệm 20 năm hoạt động với nhiều thành tựu nổi bật Để ghi nhận những đóng góp tích cực trong công tác xóa đói giảm nghèo cho công nhân và người lao động nghèo, CEP vinh dự nhận Huân chương Lao động Hạng Nhất từ Nhà nước.
Năm 2016, CEP đã mở rộng cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho công nhân, lao động nghèo và người có thu nhập thấp tại TP.HCM và các tỉnh lân cận Để nâng cao hiệu quả tiếp cận cộng đồng nghèo, CEP đã thành lập hai chi nhánh mới tại Bến Tre và Bình Dương, nâng tổng số chi nhánh lên 34, trong đó có 17 chi nhánh tại TP.HCM và 17 chi nhánh tại Bến Tre, Bình Dương.
Vào tháng 10 năm 2017, CEP đã chính thức chuyển đổi thành Tổ chức tài chính vi mô trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nhằm hỗ trợ người lao động nghèo trong việc tự tạo việc làm.
Tổ chức tài chính vi mô CEP, sau gần 26 năm hoạt động như một tổ chức xã hội phi lợi nhuận, đã bước sang một trang sử mới Dù có những thay đổi, sứ mệnh phục vụ người nghèo và mục tiêu phi lợi nhuận vẫn là những giá trị cốt lõi không bao giờ thay đổi của CEP Đến cuối năm 2017, tổ chức này đã phục vụ hơn 320.900 thành viên đang vay vốn, khẳng định vị thế là tổ chức tài chính vi mô lớn nhất tại Việt Nam.
Một số thông tin cơ bản về CEP
Tên Tổ chức: Tổ chức tài chính vi mô trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho người lao động nghèo tự tạo việc làm
Tên giao dịch quốc tế: Capital Aid for Employment of the Poor Microfinance Institution (Ltd.)
Tên gọi tắt: Tổ chức tài chính vi mô CEP
Trụ sở chính: Số 14C Cách Mạng Tháng Tám, Quận 1, Tp.HCM
Số điện thoại: 84 -028 -38220959/ 38239100 - Số Fax: 84 - 028 – 38 245 620
Email: cephcm@cep.org.vn
Website: http://www.cep.org.vn
Chúng tôi cam kết hỗ trợ công nhân, lao động nghèo và người có thu nhập thấp nhằm nâng cao an sinh xã hội, thông qua việc cung cấp dịch vụ tài chính và phi tài chính một cách thiết thực và hiệu quả.
CEP đã mang đến những cải thiện đáng kể cho đời sống của công nhân, lao động nghèo và người có thu nhập thấp tại Việt Nam thông qua các hoạt động hỗ trợ thiết thực.
CEP hợp tác với Ủy ban Nhân dân phường/xã và các ban điều hành khu phố/ấp để hỗ trợ người lao động nghèo thông qua mô hình cụm - nhóm Mỗi cụm có tối đa 100 khách hàng, trong khi mỗi nhóm giới hạn ở 09 khách hàng Nhân viên tín dụng của CEP sẽ tiến hành khảo sát từng hộ gia đình trước khi cấp vốn.
UBND phường/xã và Ban điều hành khu phố/ấp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ xác định khách hàng tiềm năng từ các hộ nghèo tại địa phương Họ cũng có trách nhiệm xác nhận tình trạng cư trú của khách hàng và hỗ trợ CEP trong việc nhận biết các nguồn vay khác có sẵn trong cộng đồng.
Cụm trưởng đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý hoạt động tín dụng và tiết kiệm của cụm, đồng thời giới thiệu khách hàng tiềm năng và truyền đạt thông tin về chương trình CEP tại khu phố Họ cũng chịu trách nhiệm thu hồi vốn vay từ nhóm, sắp xếp các cuộc họp cụm, và phối hợp với nhân viên tín dụng để thực hiện các chương trình chăm lo cộng đồng tại đơn vị.
Kết quả nghiên cứu và phân tích dữ liệu
4.2.1 Mô tả mẫu quan sát
Trong tổng số 230 phiếu khảo sát phát ra, đã thu về 224 phiếu, nhưng sau khi làm sạch và nhập liệu, có 08 phiếu không hợp lệ do thiếu thông tin hoặc do người khảo sát chọn cùng một loại lựa chọn Cuối cùng, chỉ có 216 phiếu khảo sát đạt yêu cầu được sử dụng cho phân tích dữ liệu Đặc điểm mẫu quan sát được trình bày tại phụ lục 04 và bảng 4.13.
Bảng 4.13: Thống kê mẫu quan sát Đặc điểm mẫu Tần số Tỷ lệ (%) % tích lũy
Nữ 123 56,9 100,0 Độ tuổi Dưới 25 tuổi 10 4,6 4,6
Tình trạng hôn nhân Độc thân 51 23,6 23,6 Đã lập gia đình 118 54,6 78,2
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
- Về giới tính: tỷ lệ nữ nhiều hơn nam chiếm 56,9%, nam chiếm 43,1%.
- Về độ tuổi: nhóm tuổi dưới 25 tuổi chiếm tỷ lệ 4,6%, nhóm tuổi từ 25 đến 55 tuổi chiếm đa số 75,5%; và cuối cùng là nhóm tuổi trên 55 chiếm tỷ lệ 19,9%.
Trong nghiên cứu về hôn nhân, có 51 người độc thân, chiếm 23,6% tổng số, trong khi 118 người đã kết hôn, chiếm 54,6% Nhóm người ly dị hoặc góa bụa gồm 47 người.
Trong tổng số 216 người, nghề buôn bán chiếm 15,7% với 34 người, trong khi lao động phổ thông là nhóm đông nhất với 34,3%, tương đương 74 người Nghề trồng trọt và chăn nuôi có 43 người, chiếm 19,9%, tiếp theo là công nhân viên với 39 người, tương đương 18,1% Cuối cùng, nhóm nghề nghiệp khác chiếm 12,0% với 26 người.
4.2.2 Đánh giá thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha Để khẳng định rằng các thang đo lường đảm bảo về độ tin cậy, hai công cụ chính được sử dụng là hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha và phương pháp phân tích yếu tố khám phá EFA Hệ số Cronbach’s Alpha được sử dụng trước để loại các biến không phù hợp, tất cả các biến quan sát của những thang đo đạt độ tin cậy sẽ tiếp tục phân tích yếu tố khám phá EFA.
Kết quả kiểm định cho thấy tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha ≥ 0,6, với thành phần có hệ số thấp nhất là 0,515 (Sự chuyên nghiệp) Các thành phần khác có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,7 đến 0,9 và có tương quan giữa biến và tổng lớn hơn 0,3, ngoại trừ 8 biến quan sát không đạt yêu cầu: TC4, CS2, SP1, XH4, XH5, CB2, SCN2, SCN4 Sau khi loại bỏ các biến này, tất cả các biến đo lường còn lại đều đạt yêu cầu, cho phép sử dụng chúng trong phân tích yếu tố khám phá EFA ở bước tiếp theo.
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha của các thang đo
Biến quan sát Trung bình thang đo nếu loại biến
Phương sai thang đo nếu loại biến
Hệ số tương quan giữa biến và tổng
Cronbach’s Alpha nếu loại biến này Chính sách quy định: Cronbach's Alpha = 0,868
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả quan sát Biến
Trung bình thang đo nếu loại biến
Phương sai thang đo nếu loại biến
Hệ số tương quan giữa biến và tổng
Cronbach’s Alpha nếu loại biến này
Sản phẩm/ dịch vụ: Cronbach's Alpha = 0,793
Mạng lưới phổ biến: Cronbach's Alpha = 0,785
Các hoạt động xã hội: Cronbach's Alpha = 0,802
XH6 10,94 4,173 0,604 0,758 Đối xử công bằng: Cronbach's Alpha = 0,728
Sự chuyên nghiệp: Cronbach's Alpha = 0,617
SCN3 9,95 4,411 0,357 0,399 Độ tin cậy và đảm bảo: Cronbach's Alpha = 0,800
Quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một: Cronbach's Alpha = 0,818
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
Như vậy, sau khi loại 8 biến: TC4, CS2, SP1, XH4, XH5, CB2, SCN2, SCN4,
25 biến quan sát đạt yêu cầu còn lại được đưa vào phân tích EFA tiếp theo.
4.2.3 Đánh giá bằng phân tích yếu tố khám phá (EFA)
4.2.3.1 Phân tích EFA các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một
Kết quả phân tích EFA về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một được trình bày trong phụ lục 06 cho thấy những yếu tố quan trọng cần xem xét.
Chỉ số KMO đạt 0,840, vượt mức 0,5, cùng với mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett là 0,00, nhỏ hơn 0,05, cho thấy dữ liệu nghiên cứu hoàn toàn phù hợp để thực hiện phân tích EFA.
- 25 biến quan sát được trích vào 06 yếu tố, tại Eigenvalue = 1,346 và phương sai trích đạt 66,991% (bảng số 3, phụ lục 06) Biến XH2 có hệ số tải nhân tố
< 0,5 Vì vậy, tiến hành phân tích EFA lần 2 với việc loại biến XH2 này.
Chỉ số KMO đạt 0,827, lớn hơn 0,5, cùng với mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett là 0,00, nhỏ hơn 0,05, cho thấy dữ liệu nghiên cứu phù hợp cho việc phân tích EFA.
Kết quả phân tích EFA cho thấy 24 biến quan sát được nhóm thành 6 yếu tố với Eigenvalue đạt 1,345 và phương sai trích đạt 67,509% (bảng số 9, phụ lục 06) Biến XH3 có hệ số tải nhân tố chênh lệch dưới 0,3, do đó, cần thực hiện phân tích EFA lần 3 bằng cách loại bỏ biến XH3.
Chỉ số KMO đạt 0,813, vượt mức 0,5, cùng với mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett là 0,00, nhỏ hơn 0,05, cho thấy rằng dữ liệu nghiên cứu hoàn toàn phù hợp cho việc phân tích EFA.
Trong nghiên cứu, 23 biến quan sát đã được nhóm lại thành 06 yếu tố với Eigenvalue đạt 1,345 và phương sai trích đạt 67,971% (theo bảng số 15, phụ lục 06) Tất cả các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,5, với chênh lệch hệ số tải nhân tố vượt quá 0,3, đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của các yếu tố được trích xuất.
Bảng 4.15: Kết quả phân tích EFA các yếu tố ảnh hưởng đến Quyết định lựa chọn vay vốn tại chi nhánh CEP Thủ Dầu Một lần 3
Mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett = 0,000
Biến quan sát Yếu tố
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
Kết quả phân tích EFA lần 3 được trình bày trong bảng 4.15 cho thấy tính phù hợp cao, với các biến quan sát có hệ số tải nhân tố đạt yêu cầu trên 0,5 và chênh lệch giữa các hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,3.
23 biến quan sát còn lại được trích vào 06 yếu tố, cụ thể như sau:
Yếu tố 1 bao gồm 06 biến quan sát (CS1, CS3, CS4, CS5, CS6, CS7) được nhóm lại thông qua phép tính trung bình (Mean) và được đặt tên đại diện là Chính sách quy định, ký hiệu là CS.
Yếu tố 2 bao gồm 05 biến quan sát (SP2, SP3, SP4, XH1, XH6) được nhóm lại bằng cách sử dụng lệnh trung bình (Mean) và được đặt tên đại diện là Sản phẩm/dịch vụ, ký hiệu là SP.
Yếu tố 3, được ký hiệu là TC, bao gồm 04 biến quan sát (TC1, TC2, TC3, TC5) được nhóm lại thông qua lệnh trung bình (Mean) và mang tên đại diện là Độ tin cậy và đảm bảo.