CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA QUY TRÌNH KHAI BÁO THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
Khái quát về về thuế xuất nhập khẩu, khai báo thuế xuất nhập khẩu
1.1.1 Khái niệm về thuế xuất nhập khẩu
Theo giáo trình thuế của Học viện Tài chính năm 2009 của PGS.TS Nguyễn Thị Liên và PGS.TS Nguyễn Văn Hậu, thuế xuất khẩu (XK) và thuế nhập khẩu (NK) được định nghĩa là các loại thuế áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo từ điển Luật học năm 2006, thuế xuất khẩu (XK) và nhập khẩu (NK) là loại thuế gián thu áp dụng cho hàng hóa XK và NK qua biên giới Đối tượng nộp thuế bao gồm các tổ chức và cá nhân có hàng hóa XK, NK vào Việt Nam qua các hình thức như mậu dịch chính ngạch, mậu dịch tiểu ngạch và phi mậu dịch, bao gồm cả hàng hóa từ khu chế xuất Tuy nhiên, hàng hóa vận chuyển quá cảnh, hàng mượn đường qua biên giới, hàng chuyển cửa khẩu theo quy định của Chính phủ và hàng viện trợ nhân đạo không thuộc diện chịu thuế này.
Thuế quan là loại thuế gián thu áp dụng cho hàng hóa xuất nhập khẩu khi qua lãnh thổ quốc gia, và là một phần cấu thành giá cả hàng hóa Mức thuế và số thu thuế xuất nhập khẩu phụ thuộc vào chính sách ngoại thương của từng quốc gia Các tổ chức và cá nhân chịu thuế phải thực hiện thủ tục đăng ký tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc các cơ quan được Tổng cục Hải quan ủy quyền.
1.1.2 Khái niệm về khai báo thuế xuất nhập khẩu
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã chuyển sang cơ chế quản lý thuế tự khai, tự nộp Cơ chế này yêu cầu người nộp thuế tự xác nhận và nộp số tiền thuế của mình, đồng thời chịu trách nhiệm về việc kê khai Cơ quan thuế sẽ thực hiện thanh tra và kiểm tra các hoạt động kê khai của người nộp thuế.
Theo Điều 29 Luật Hải quan và Điều 30 Luật Quản lý thuế hiện hành, người nộp thuế có trách nhiệm tự kê khai đầy đủ và chính xác, đồng thời tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về các thông tin trên tờ khai Điều này bao gồm các yếu tố liên quan đến việc tính thuế, miễn thuế, xét miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, cũng như các loại thuế như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng.
Cơ quan Hải quan cam kết tôn trọng quyền tự tính và khai thuế của người nộp thuế, đồng thời áp dụng biện pháp giám sát hiệu quả để khuyến khích tuân thủ tự nguyện và phát hiện các vi phạm pháp luật thuế Tuy nhiên, việc nộp thuế thường không mang lại lợi ích trực tiếp cho người nộp thuế, dẫn đến việc họ tìm cách giảm thiểu chi phí thuế Trong khi đó, cơ quan Hải quan luôn nỗ lực kiểm soát để đảm bảo thu đủ số thuế theo quy định Để hỗ trợ người khai Hải quan thực hiện trách nhiệm đúng quy định, cơ quan Hải quan và công chức Hải quan có nhiệm vụ hướng dẫn thủ tục, cung cấp thông tin và công khai các quy trình liên quan đến Hải quan và thuế, thực hiện đúng các quyền hạn theo Luật Hải quan và Luật Quản lý thuế.
Lý thuyết về không tuân thủ thuế và tuân thủ thuế
Việc phân biệt giữa hành vi "tránh thuế" và "trốn thuế" là rất khó khăn Hành vi tránh thuế liên quan đến việc tận dụng các khe hở pháp luật để giảm thiểu nghĩa vụ thuế, trong khi trốn thuế là vi phạm pháp luật Theo Boidman (1983), có ba hình thức không tuân thủ thuế: (1) không nộp tờ khai thuế thuộc bất kỳ loại nào; (2) không kê khai thu nhập nhận được trên tờ khai thuế; và (3) giảm thu nhập chịu thuế bằng cách kê khai không đúng các khoản miễn giảm hay khấu trừ.
Theo Jackson & Milliron (1986); Kesselman (1994); Kasipillai & Jabbar
Không tuân thủ thuế được xác định là hành vi không tuân theo luật thuế, bao gồm việc khai báo không chính xác, kê khai sai các khoản giảm trừ, miễn giảm thuế và không thanh toán đúng hạn nghĩa vụ thuế.
Hành vi không tuân thủ thuế dự tính: Hành vi tuân thủ thuế không dự tính bao gồm trốn thuế và tránh thuế:
Xét từ góc độ kinh tế vĩ mô, cả tránh thuế và trốn thuế đều có tác động tiêu cực tương tự đối với ngân sách nhà nước Do đó, các nhà kinh tế học thường phân tích những ảnh hưởng này đồng thời mà không phân biệt giữa hai khái niệm.
Trốn thuế và tránh thuế là hai khái niệm khác nhau trong pháp luật, mặc dù cả hai đều không tuân thủ mục đích của luật Trốn thuế được hiểu là hành vi vi phạm pháp lý nhằm giảm bớt gánh nặng thuế, ví dụ như việc khai man thu nhập hoặc tài sản để không phải nộp thuế.
Doanh nghiệp vi phạm luật khi cố gắng kê khai thu nhập chịu thuế thấp, kê khai chi phí kinh doanh vượt quá thực tế hoặc tránh kê khai thu nhập từ vốn, lao động và các yếu tố khác theo nguyên tắc kế toán thuế Tình trạng trốn thuế dẫn đến thất thoát ngân sách, với tỷ lệ khoảng 3,5 đến 13,4% GDP ở các nước phát triển và lên tới 50% ở các nước đang phát triển.
Tránh thuế là hành động không tuân thủ mục đích của luật nhưng không vi phạm pháp luật Hình thức này nhằm giảm gánh nặng thuế thông qua việc khai thác kẽ hở của luật, sử dụng các thủ thuật trì hoãn, kéo dài thời gian để giảm thuế, hoặc tái phân bổ hoạt động kinh doanh để “tiết kiệm thuế” Ngoài ra, tránh thuế còn bao gồm việc chuyển thu nhập từ lao động sang thu nhập từ vốn để chịu mức thuế thấp hơn, cũng như khai thác các thiên đường thuế ở các quốc gia khác.
Theo quan điểm đạo đức, nhiều người cho rằng không có sự khác biệt giữa một nhà kinh doanh nhỏ hoạt động trong nền kinh tế ngầm và một nhà đầu tư lớn sử dụng luật sư giỏi để tìm kiếm "thiên đường thuế" Sự phân biệt này gợi lên câu hỏi về tính hợp pháp và đạo đức trong các hoạt động kinh doanh.
Nghiên cứu tâm lý hành vi của doanh nghiệp cho thấy sự khác biệt giữa trốn thuế và tránh thuế do cơ sở pháp lý Tránh thuế thường được coi là hành động tích cực hơn trốn thuế Khi người nộp thuế có kiến thức về thuế tốt, họ có xu hướng lựa chọn tránh thuế một cách công bằng hơn Ngược lại, nếu kiến thức về thuế hạn chế, người nộp thuế dễ có xu hướng trốn thuế nhiều hơn.
Một số cơ quan thuế đang chú trọng đến nguyên nhân khiến doanh nghiệp trốn thuế và tránh thuế, thay vì tập trung vào lý do tuân thủ thuế Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn, việc tuân thủ thuế nên được ưu tiên hơn Để hệ thống quản lý thu thuế hoạt động hiệu quả, các cơ quan thuế cần nhận được sự hợp tác từ đa số doanh nghiệp, nhằm đảm bảo mức độ tuân thủ cao nhất và giảm thiểu các hành vi không tuân thủ, đặc biệt là tình trạng tránh thuế.
Hành vi không tuân thủ thuế, bao gồm trốn thuế và tránh thuế, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả quản lý thuế Chính phủ và cơ quan thuế trên toàn cầu đều hướng tới việc tăng cường tuân thủ thuế và giảm thiểu các hành vi không tuân thủ Việc này không chỉ làm thu hẹp cơ sở chịu thuế mà còn dẫn đến thất thoát nguồn thu ngân sách Các quốc gia có mức độ tuân thủ thấp thường phải thay đổi chế độ thuế để duy trì tỷ lệ thuế so với GDP, nhưng điều này có thể làm cho hệ thống thuế trở nên kém ổn định và bình đẳng Do đó, nâng cao mức độ tự nguyện tuân thủ thuế đã trở thành mục tiêu quan trọng trong các cuộc cải cách thuế toàn cầu.
Nhận dạng các hành vi không tuân thủ trong kê khai thuế XNK:
Trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật khi người nộp thuế cố ý tránh trả khoản nợ thuế của mình, dẫn đến trách nhiệm hình sự (Engel et al, 1999; Manasan, 1988) Vấn đề trốn thuế đã trở thành mối quan tâm lớn cả ở cấp quốc gia và quốc tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống thu thuế và cản trở nỗ lực của Chính phủ trong việc tăng thu ngân sách công (Franzoni, 1998; Van và Arndt).
Việc buôn lậu hàng hóa gây ra những vi phạm về thuế nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hệ thống thuế quốc gia (Selimaek, 2005) Để phân loại và đánh giá các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về Hải quan, những doanh nghiệp làm ăn chân chính sẽ được ưu tiên và tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động Ngược lại, các doanh nghiệp không tuân thủ sẽ phải chịu các biện pháp quản lý chặt chẽ, nhằm hạn chế gian lận thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan được định nghĩa theo công ước Nairobi là hành vi vi phạm pháp luật Hải quan, bao gồm việc lừa dối Hải quan nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế xuất nhập khẩu, vi phạm các biện pháp cấm hoặc hạn chế do luật pháp quy định, với mục đích thu lợi từ các hành vi vi phạm này.
Hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan được định nghĩa là sự lừa dối nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế và tuân thủ các quy định pháp luật hải quan, với mục đích thu lợi bất chính.
Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan diễn ra khi các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu được thực hiện hợp pháp, nhưng lợi dụng kẽ hở trong quy định để khai báo sai lệch về mẫu mã, số lượng, chất lượng, giá cả và xuất xứ hàng hóa Mục đích cuối cùng của hành vi này là để giảm mức thuế phải nộp.
Hành vi này có khi là thủ đoạn riêng của chủ hàng, có khi đƣợc hậu thuẫn của nhân viên Hải quan thoái hóa, biến chất
THỰC TRẠNG KHAI BÁO THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU THÔNG
Khái quát về hệ thống thông quan điện tử tự động (VNACCS/VCIS) và
2.1.1 Khái quát về hệ thống thông quan điện tử tự động (VNACCS/VCIS)
Chính phủ Nhật Bản đã cung cấp cho Việt Nam gói hỗ trợ toàn diện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại để phát triển hệ thống thông quan tự động cho Hải quan Việt Nam, dựa trên công nghệ tiên tiến của hệ thống NACCS/CIS Hệ thống VNACCS/VCIS bao gồm hai phần: Hệ thống thông quan tự động (VNACCS) và Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ (VCIS), tạo nên cơ chế một cửa quốc gia hiệu quả.
VNACCS/VCIS bao gồm nhiều phần mềm quan trọng như Khai báo điện tử (e-Declaration), Manifest điện tử (e-Manifest), Hóa đơn điện tử (e-Invoice), Thanh toán điện tử (e-Payment), C/O điện tử (e-C/O), cùng với các chức năng phân luồng (selectivity), quản lý hồ sơ rủi ro và tiêu chí rủi ro, quản lý doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thông quan và giải phóng hàng, cũng như giám sát và kiểm soát.
VNACCS là hệ thống thông quan hàng hóa tự động, phục vụ cho việc thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu, bao gồm cả ba giai đoạn: trước, trong và sau thông quan Hệ thống này có nhiều chức năng quan trọng giúp tối ưu hóa quy trình thông quan.
Thủ tục đăng ký danh mục miễn thuế bao gồm các bước áp dụng chung cho hàng mậu dịch và phi mậu dịch, đồng thời cũng có quy trình đơn giản cho hàng hóa có giá trị thấp Ngoài ra, việc quản lý hàng hóa tạm nhập - tái xuất cũng là một phần quan trọng trong chức năng này.
Tăng cường kết nối giữa các Bộ, Ngành thông qua việc áp dụng Cơ chế một cửa (Single Window) là một bước tiến quan trọng Hệ thống VNACCS được thiết kế để kết nối hiệu quả với các Bộ, giúp tối ưu hóa quy trình và nâng cao hiệu suất trong quản lý thủ tục hành chính.
Cơ quan Hải quan sẽ chuyển tiếp thông tin liên quan đến việc xin cấp phép từ các cơ quan chuyên ngành Kết quả xử lý cấp phép sẽ được thực hiện qua Hệ thống.
Tiếp nhận và xử lý tự động thông tin khai báo của doanh nghiệp giúp nâng cao hiệu quả quản lý Đồng thời, việc hạn chế sử dụng hồ sơ giấy thông qua áp dụng chữ ký điện tử không chỉ tiết kiệm thời gian mà còn bảo vệ môi trường.
Kết nối với các hệ thống công nghệ thông tin của các bên liên quan như doanh nghiệp kho bãi, cảng, dịch vụ giao nhận, vận chuyển, ngân hàng, và các bộ ngành liên quan là rất quan trọng để tối ưu hóa quy trình hoạt động.
Trước khi thông quan, hệ thống VNACCS tập trung vào việc xử lý thông tin để phục vụ cho công tác kiểm tra và giám sát Hải quan, đảm bảo hiệu quả tại các bước khai báo hàng hóa.
Hệ thống VNACCS cho phép gộp một số chỉ tiêu của tờ khai trị giá theo phương pháp trị giá giao dịch vào tờ khai nhập khẩu, giúp đơn giản hóa quy trình khai báo Do đó, không cần khai riêng tờ khai trị giá cho phương pháp này Để đảm bảo thông quan hàng hóa nhanh chóng, các lô hàng nghi vấn về giá sẽ được xử lý sau thông quan Việc xác định bộ phận phụ trách xử lý sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hệ thống chính thức đi vào hoạt động.
Hệ thống VNACCS được áp dụng nhằm đơn giản hóa quy trình giám sát và quản lý Hải quan đối với hàng hóa vận chuyển Hệ thống này gom các thủ tục liên quan đến chuyển cửa khẩu, chuyển cảng và quá cảnh, đảm bảo rằng hàng hóa vận chuyển giữa các địa điểm vẫn chịu sự giám sát chặt chẽ của Hải quan.
VCIS là hệ thống thông tin tình báo Hải quan, hỗ trợ quản lý rủi ro và giám sát nghiệp vụ của Hải quan Việt Nam, nhằm nâng cao khả năng kiểm soát rủi ro cho các đơn vị Hải quan ở mọi cấp độ Hệ thống này dựa trên thông tin có sẵn để cải thiện hiệu quả công việc của ngành Hải quan.
Hệ thống VCIS giúp các đơn vị Hải quan đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật Hải quan và thuế, đồng thời xác định xếp hạng rủi ro cho các đối tượng thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh và quá cảnh.
DN được phân loại theo mức độ tuân thủ pháp luật từ cao đến thấp, với DN ưu tiên có mức độ tuân thủ tự nguyện rất cao và DN vi phạm pháp luật nhiều lần ở mức độ kém Tất cả thông tin nghiệp vụ liên quan đến thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu đang được xử lý tại các chi cục Hải quan cửa khẩu đều có thể được kiểm tra và giám sát tập trung tại Tổng cục Hải quan.
Theo Công văn số 2765/TCHQ-GSQL ngày 01/04/2015 của Tổng cục Hải quan, hệ thống VNACCS được triển khai nhằm chuẩn hóa chế độ quản lý Hải quan với 38 mã loại hình xuất nhập khẩu, bao gồm 22 mã loại hình nhập khẩu và 16 mã loại hình xuất khẩu Khi khai báo trên hệ thống VNACCS/VCIS, không phân biệt giữa loại hình mậu dịch và phi mậu dịch, chỉ khác nhau về mặt chứng từ Một số loại hình đặc thù như hàng hóa của cư dân biên giới, hàng an ninh quốc phòng và hàng trị giá thấp sẽ được xử lý thủ công.
Hình 2.1: Mô hình tổng thể về hệ thống TQĐT VNACCS/VCIS
(Nguồn: www.customs.gov.vn)
2.1.2 Quy trình khai báo thuế xuất nhập khẩu
Bước 1: Tiếp nhận, kiểm tra, đăng ký, phân luồng tờ khai
Thực trạng khai báo thuế xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang
2.2.1 Giới thiệu khái quát về Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang
Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang, trực thuộc Tổng cục Hải quan, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, có chức năng quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm bảo vệ an ninh chính trị và phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh Kiên Giang Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về Hải quan, quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần duy trì ổn định kinh tế chính trị xã hội cho tỉnh.
Hải quan Kiên Giang được thành lập vào ngày 20/8/1975 theo Quyết định số 29/TNNgt-TCCB của Tổng nha Ngoại thương, ban đầu mang tên Ty Hải quan Rạch Giá Đến ngày 01/6/1994, đơn vị này được đổi tên thành Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang theo Quyết định số 91/TCHQ-TCCB của Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan, giữ tên gọi như hiện nay.
Sau hơn 40 năm phát triển, Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang đã không ngừng lớn mạnh với tổng số cán bộ, công chức hiện tại là 146, tăng từ 54 Cục được tổ chức thành 9 đơn vị, trong đó có 5 công chức có trình độ trên đại học (chiếm 3,42%) và 105 công chức có trình độ đại học và cao đẳng (chiếm 71,92%) Công tác đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức cũng được chú trọng, với hơn 80% công chức biết ngoại ngữ và 90% biết sử dụng vi tính.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang đƣợc thể hiện qua sơ đồ sau:
Hình 2.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy của Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang
(Nguồn báo cáo năm của Văn phòng - Cục HQ tỉnh Kiên Giang)
2.2.2 Đánh giá hoạt động XNK và thu thuế của Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang
2.2.2.1 Đặc điểm hoạt động XNK của tỉnh Kiên Giang
Tỉnh Kiên Giang, nằm ở cửa ngõ biển Tây của đồng bằng sông Cửu Long, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu và dịch vụ thương mại cho khu vực Tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế biển, giao thương quốc tế, đặc biệt với Campuchia Các ngành mũi nhọn bao gồm du lịch, thương mại, dịch vụ công nghiệp và nuôi trồng thủy sản Sản phẩm xuất khẩu chủ lực như gạo, thủy hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ và suất ăn hàng không tại cảng quốc tế Phú Quốc có khả năng cạnh tranh cao Ngoài ra, hàng hóa tạp hóa sản xuất tại Việt Nam cũng được xuất khẩu sang Campuchia với số lượng lớn, trong khi các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho các dự án phát triển du lịch tại huyện đảo như clinker, hạt nhựa, bao bì và máy móc thiết bị.
2.2.2.2 Đánh giá tình hình XNK Để đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về Hải quan Cục Hải quan Kiên Giang đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, mang tính đột phá nhằm đẩy nhanh tiến trình cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản như: rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, giảm các giấy tờ không cần thiết, ứng dụng các phương pháp quản lý mới trong hoạt động Hải quan (quản lý rủi ro, Kiểm tra sau thông quan, quản lý tuân thủ, doanh nghiệp ƣu tiên…) tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp XNK trên địa bàn thông qua hoạt động XNK của năm sau luôn cao hơn năm trước
Bảng 2.1: Số lƣợng tờ khai và kim ngạch XNK
Tổng số tờ khai hải quan đƣợc đăng ký 11.115 14.880 13.806 12.385 10.825
XNK (triệu USD) 360,22 543,34 665,19 759,8 1.595,15 Mức độ tăng trưởng (%) +95,51 +50,84 +4,02 +14,22 +109,94
(Nguồn: Báo cáo tình hình XNK hàng năm của Phòng Nghiệp vụ - Cục Hải quan tỉnh
NĂM 2014 NĂM 2015 NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2018
Biểu đồ 2.1 Tổng số tờ khai XNK và kim ngạch XNK
Tổng số tờ khai XNK Kim ngạch XNK (triệu USD)
Theo bảng 2.1, số lượng tờ khai xuất nhập khẩu có xu hướng giảm dần, trong khi kim ngạch xuất nhập khẩu lại tăng lên qua từng năm Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút này là do việc áp dụng quy trình khai báo mới của các doanh nghiệp.
Hải quan điện tử theo phương thức VNACCS/VCISS cho phép doanh nghiệp đăng ký một lần cho lượng hàng hóa lớn, tự động trừ lùi trên hệ thống sau mỗi lần xuất nhập khẩu, theo Thông tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài Chính Phương thức này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu nguồn nhân lực cho cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra hồ sơ Tại Kiên Giang, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng trưởng, với mức tăng 109,94% trong năm 2018, chủ yếu do nhập khẩu và tạm nhập phục vụ cho dự án Casino của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Du lịch Phú Quốc, cũng như một số máy móc thiết bị cho dự án cáp treo Hòn Thơm - Phú Quốc.
2.2.2.3 Công tác thu thuế XNK
Công tác quản lý khai thuế tại cơ quan Hải quan là bước đầu tiên trong quy trình quản lý thuế nhập khẩu Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang đã xác định việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này là nhiệm vụ quan trọng, tạo nền tảng cho các bước tiếp theo trong quy trình nghiệp vụ.
Hình 2.3: Sơ đồ quy trình khai thuế NK
Trước năm 2013, quy trình thủ tục hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang yêu cầu công chức hải quan tiếp nhận hồ sơ thủ công, với 2-3 công chức thực hiện tại bộ phận tiếp nhận Doanh nghiệp phải nộp 02 tờ khai hải quan cùng các chứng từ liên quan như hợp đồng mua bán, hóa đơn thương mại, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) và các tài liệu khác tùy theo từng trường hợp Công chức tiếp nhận sẽ kiểm tra các tiêu chí khai báo liên quan đến thuế nhập khẩu, đảm bảo sự phù hợp giữa các chứng từ và nội dung khai báo với quy định pháp luật Sau khi nhập thông tin vào hệ thống để lấy số tờ khai, hồ sơ sẽ được chuyển đến lãnh đạo Chi cục để quyết định hình thức kiểm tra Thông thường, 1-2 công chức sẽ kiểm tra thực tế hàng hóa và ghi kết quả vào tờ khai Bộ phận kế toán thuế sau đó sẽ đối chiếu khai báo với thực tế hàng hóa, ấn định thuế nếu cần thiết và thực hiện công tác kế toán để theo dõi việc thu nộp thuế.
Thời gian thông quan cho một lô hàng nhập khẩu qua thủ tục hải quan thủ công thường kéo dài từ 1 đến 3 giờ Trung bình, mỗi Chi cục thuộc Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang tiếp nhận khoảng 1 tờ khai/ngày.
Vào tháng 01/2013, hệ thống khai hải quan điện tử đã được triển khai, và đến tháng 06/2014, hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS chính thức được áp dụng tại Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang.
Việc doanh nghiệp khai báo hàng hóa nhập khẩu qua hệ thống máy tính kết nối với cơ quan hải quan đã rút ngắn thời gian thông quan đáng kể, chỉ còn 1-1,5 giờ cho hồ sơ luồng Đỏ và 15-20 phút cho hồ sơ luồng Xanh hoặc Vàng Công chức tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ không cần kiểm tra tất cả hồ sơ như trước, mà chỉ tập trung vào hồ sơ thuộc luồng Vàng hoặc Đỏ, dựa trên mức độ rủi ro và lịch sử tuân thủ pháp luật hải quan của doanh nghiệp Điều này giúp doanh nghiệp không phải chờ đợi nhiều chữ ký như trước, chỉ cần 1-3 chữ ký từ các công chức liên quan.
Bộ phận kế toán thuế (thực tế tại các Chi cục 01 công chức thừa hành có thể làm một hoặc nhiều bước thủ tục)
Các hình thức gian lận trong kê khai thuế nhập khẩu
Một số hình thức gian lận trong công tác khai báo thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang:
Một trong những hình thức gian lận thuế phổ biến là việc khai báo sai số lượng và trọng lượng hàng hóa, nhằm giảm số thuế phải nộp Doanh nghiệp thường lập chứng từ khai báo số lượng và trọng lượng thấp hơn thực tế, hoặc thông đồng với cán bộ hải quan để chấp nhận kết quả khai báo, mặc dù hàng hóa thực tế nhiều hơn số liệu trên chứng từ.
Việc truy thu thuế chủ yếu tập trung vào nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, gia công và đầu tư tài sản cố định, nhưng số tiền thu được từ các loại hình này không đáng kể so với tổng thu hàng năm của cục Gian lận chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực gia công và sản xuất xuất khẩu, thể hiện qua việc khai sai định mức khi nhập khẩu và xuất khẩu Đối với hàng đầu tư, doanh nghiệp thường nhập khẩu nguyên dây chuyền máy móc thiết bị, nhưng trong đó có một số hàng hóa đã được sản xuất trong nước theo quy định.
Bộ Kế hoạch đầu tƣ ban hành
Khai báo không trung thực về trị giá tính thuế, đặc biệt liên quan đến mặt hàng gỗ nhập khẩu, là một vấn đề nghiêm trọng Việc xác định trị giá hàng hóa để tính thuế hải quan đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn thất thu thuế Theo quy định của Luật Thuế NK, giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu được xác định dựa trên giá mua tại cửa khẩu nhập (giá CIF, DAF) Các cơ quan chức năng ước tính rằng thất thu thuế qua giá có thể lên tới khoảng 25% trong tổng số thu thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu.
Kết Quả Đạt đƣợc Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.3.1 Những kết quả đạt được
Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang đã cải tiến quy trình thủ tục hải quan, đảm bảo tính thống nhất và công khai trong các khâu nghiệp vụ Các bước thực hiện thủ tục đã được đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và tăng tốc độ thông quan hàng hóa Cơ cấu tổ chức được phân chia theo mô hình từng bộ phận chức năng, với nhiệm vụ rõ ràng cho từng bộ phận.
Công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong quy trình thủ tục hải quan, với việc đầu tư trang bị thiết bị hiện đại và thường xuyên nâng cấp hạ tầng mạng Hệ thống máy tính của các Chi cục được kết nối với Kho bạc Nhà nước, giúp truyền nhận dữ liệu hiệu quả, đảm bảo theo dõi thu nộp thuế đúng quy định và rút ngắn thời gian hoàn thuế so với trước đây.
Việc triển khai thủ tục hải quan điện tử và hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS đã rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, đồng thời giảm chi phí cho doanh nghiệp Điều này không chỉ giúp cơ quan hải quan tiết kiệm nguồn lực mà còn đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa và các cam kết quốc tế về hải quan.
Công tác chống buôn lậu tại khu vực cửa khẩu biên giới đường bộ được Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang chú trọng với nhiều biện pháp hiệu quả như tăng cường lực lượng, phương tiện tuần tra và kiểm tra hàng hóa nhập khẩu ngay tại cửa khẩu Cục cũng đẩy mạnh tuyên truyền để người dân không tham gia buôn lậu và vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới Đồng thời, lực lượng kiểm soát chống buôn lậu được chỉ đạo sàng lọc các đối tượng đầu nậu nhằm xây dựng các phương án đấu tranh hiệu quả.
Kết quả thu thuế tại Cục Hải quan tỉnh Kiên Giang đã có sự tăng trưởng tích cực, mặc dù số thu nộp ngân sách hàng năm vẫn còn khiêm tốn so với các đơn vị Hải quan trên toàn quốc Trong bối cảnh kinh tế-xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, với số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hạn chế và hàng hóa còn đơn điệu, việc hoàn thành các chỉ tiêu thu nộp ngân sách là một nỗ lực lớn Từ năm 2014 đến nay, kết quả thu ngân sách nhà nước luôn đạt và vượt chỉ tiêu, trong đó thuế nhập khẩu có sự gia tăng đáng kể, đặc biệt là năm 2018 với mức tăng 281,45% so với năm 2017.
2.3.2 Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù Cục Hải quan Kiên Giang đã đạt được nhiều kết quả trong việc hoàn thiện quy trình khai báo thuế XNK qua hệ thống thông quan điện tử, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục Cụ thể, việc giải đáp khó khăn cho doanh nghiệp và người nộp thuế chưa được thực hiện kịp thời trong một số trường hợp Ngoài ra, công tác kiểm tra sau thông quan còn yếu, dẫn đến tình trạng thất thu ngân sách và hiệu quả quản lý thuế đối với hộ và cá nhân kinh doanh vẫn còn thấp.
* Một số văn bản pháp quy liên quan công tác quản lý thuế NK còn nhiều bất cập:
Luật Doanh Nghiệp hiện nay có quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp tương đối dễ dàng và còn nhiều sơ hở, thiếu quá trình xác minh và điều tra tình hình hoạt động thực tế Điều này đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp lợi dụng để thành lập một cách bất hợp pháp, trong đó nhiều trường hợp người đứng tên chủ doanh nghiệp chỉ là người được mượn tên Họ còn lợi dụng chính sách ân hạn thuế để nhập khẩu hàng hóa, sau đó tự giải thể hoặc bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu.
Luật Quản lý thuế quy định rằng việc khai bổ sung hồ sơ khai thuế đối với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu phải được thực hiện trong vòng 60 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan, nhưng trước khi cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế Thời gian 60 ngày này được coi là ngắn và chưa đủ khuyến khích người nộp thuế tự phát hiện sai sót để thực hiện khai bổ sung.
Chính sách ân hạn nộp thuế đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm thời gian để thu xếp tài chính, nhưng cũng bộc lộ những lỗ hổng trong quản lý Từ khi phát sinh nợ thuế đến khi doanh nghiệp không thể thực hiện thủ tục nhập khẩu, cơ quan hải quan cần thực hiện nhiều bước, cho thấy sự lỏng lẻo trong quản lý doanh nghiệp Điều này dẫn đến việc một số doanh nghiệp lợi dụng chính sách này để chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước.
Một số doanh nghiệp lợi dụng quy định thuế để chây ỳ, không nộp thuế đúng hạn, mặc dù có khả năng thanh toán Họ dựa vào chính sách của Nhà nước để chiếm dụng vốn, dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế kéo dài Nhiều doanh nghiệp sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Quá trình gia nhập WTO và ký kết nhiều Hiệp định quốc tế đã tạo ra nhiều bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật về thuế nhập khẩu tại Việt Nam Là một nước đang phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, Việt Nam gặp khó khăn trong việc thích nghi và đáp ứng các yêu cầu hội nhập Điều này dẫn đến sự không đồng nhất trong chính sách và quản lý thuế nhập khẩu, khiến cho các văn bản pháp luật thường xuyên thay đổi và mâu thuẫn với nhau Hơn nữa, việc ban hành các văn bản hướng dẫn không kịp thời so với quy định của Luật đã gây ra khó khăn cho cả người nộp thuế và cơ quan hải quan trong quá trình thực hiện.
* Công tác kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế nhập khẩu:
Kết quả kiểm tra sau thông quan cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu khai sai và thiếu thông tin để trốn thuế, điều này khiến cán bộ công chức không thể phát hiện do khối lượng hàng hóa cần kiểm tra quá lớn Mặc dù công tác kiểm tra sau thông quan đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là chưa đi sâu vào các sai phạm tổ chức Công tác này cũng chưa chú trọng đủ đến lĩnh vực trị giá và gặp khó khăn trong việc xác định mã số hàng hóa Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp còn cố tình không cung cấp hồ sơ cho cơ quan Hải quan, dẫn đến khó khăn trong công tác kiểm tra Thông tin từ các nguồn trong và ngoài ngành phục vụ cho công tác này vẫn còn rất hạn chế.
Nguyên nhân của hạn chế:
Số lượng hồ sơ được kiểm tra sau thông quan hiện vẫn thấp so với tổng số doanh nghiệp và hồ sơ xuất nhập khẩu Hoạt động kiểm tra sau thông quan là một phần quan trọng trong quản lý hải quan hiện đại, nhưng còn mới mẻ và cần được chú trọng đồng bộ ở nhiều khía cạnh như nguồn nhân lực, dữ liệu, quản lý rủi ro, ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý và bảo vệ pháp luật.
Tình trạng gian lận thương mại qua giá đang gia tăng, gây khó khăn trong việc kiểm soát thanh toán quốc tế qua ngân hàng Việc sử dụng hóa đơn GTGT ghi sai giá trị hàng hóa đã trở nên phổ biến Hệ thống văn bản kiểm tra sau thông quan chưa đủ mạnh, thiếu đồng bộ và chặt chẽ, dẫn đến chồng chéo và chậm hoàn thiện Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này chưa được quy định rõ ràng, và thiếu chuẩn mực trong quy trình kiểm tra Hơn nữa, phần mềm quản lý rủi ro và cập nhật kết quả kiểm tra chưa được phát triển đầy đủ cho công tác kiểm tra sau thông quan.
Lực lượng kiểm tra, soát xét hải quan hiện tại chưa đủ để đáp ứng nhu cầu, do bị khống chế với số biên chế tối đa chỉ chiếm 10% tổng số cán bộ công chức của một Cục Hải quan Công tác phối hợp giữa các Chi cục Hải quan cửa khẩu và các cơ quan chức năng trong việc thu thập, trao đổi thông tin liên quan đến doanh nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu còn yếu, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm tra, soát xét.