Lý do nghiên cứu
Trong 30 năm qua, năng lực cạnh tranh đã trở thành chủ đề nóng bỏng giữa các học giả, doanh nghiệp và cơ quan quản lý Hiện nay, vấn đề này không chỉ được thảo luận ở cấp độ quốc gia mà còn ở từng vùng lãnh thổ, địa phương Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa, doanh nghiệp đang phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng khốc liệt Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, điều này yêu cầu họ phải sở hữu nguồn lực phù hợp để tạo ra lợi thế Do đó, việc phát hiện và duy trì các nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh là rất quan trọng, nhằm đảm bảo sự bền vững và giúp doanh nghiệp đứng vững trước áp lực từ đối thủ trong thị trường nội địa.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị để tận dụng cơ hội và đối mặt với thách thức từ việc mở cửa thị trường Việc thực hiện các cam kết quốc tế, hướng tới gia nhập WTO, là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển thông qua việc nâng cao năng lực cạnh tranh Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở nên khốc liệt, và những doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt sẽ chiếm ưu thế trên thị trường Nhiều doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau, đang nỗ lực cải cách và đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, mặc dù kết quả vẫn còn hạn chế so với yêu cầu phát triển Đối với Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kinh tế - chính trị mà Nhà Nước giao phó.
Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau (PVPCM), một chi nhánh của Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam, hiện quản lý và vận hành hai nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1&2, cung cấp điện năng cho nhu cầu năng lượng quốc gia Ngành điện vẫn chịu sự điều tiết của Nhà nước, với EVN nắm độc quyền trong sản xuất, phân phối và truyền tải, làm giảm tính cạnh tranh Chính phủ đã triển khai thị trường phát điện cạnh tranh từ tháng 7/2012 nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư Do đó, việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của PVPCM là cần thiết để đề xuất các phương hướng hoạt động hợp lý Đề tài nghiên cứu “Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau” sẽ giúp tìm ra thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong tương lai.
Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước
Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu về Quản lý chất lượng toàn diện (TQM) đã chỉ ra rằng TQM là một nhân tố cạnh tranh quan trọng dựa trên nguồn lực của tổ chức Mô hình nghiên cứu xác định sự ảnh hưởng của TQM đến kết quả hoạt động của tổ chức thông qua hai khía cạnh: nguyên lý TQM và thực hành TQM Bốn yếu tố chính của TQM bao gồm định hướng khách hàng, cải tiến liên tục, tập trung vào con người và tầm nhìn toàn cầu Nghiên cứu được thực hiện trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, bao gồm cả ngành khách sạn, cho thấy TQM thực sự nâng cao năng lực cạnh tranh và kết quả hoạt động của tổ chức Đặc biệt, việc áp dụng thực hành TQM mang lại hiệu quả cao hơn so với chỉ vận dụng nguyên lý của TQM trong hoạt động tổ chức.
Nghiên cứu đã xác định 10 yếu tố chính cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bao gồm nguồn nhân lực, công nghệ, uy tín, khả năng phát triển sản phẩm, mạng lưới phân phối, trình độ quảng cáo, khả năng quản lý, chi phí sản xuất, dịch vụ khách hàng và năng lực tài chính Kết quả này giúp doanh nghiệp nhận diện các yếu tố cạnh tranh, tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu hiện tại còn đơn giản và chỉ cho điểm các yếu tố mà chưa xác định được tầm quan trọng hay ảnh hưởng của từng yếu tố đến hiệu quả hoạt động Đánh giá kết quả hoạt động chủ yếu dựa trên các chỉ số tài chính (Thompson, Strickland và Gamble, 2007).
Nghiên cứu mối quan hệ giữa TQM và năng lực cạnh tranh của tổ chức dựa trên nguồn lực cho thấy TQM có khả năng liên kết hiệu quả tất cả các nguồn lực và hoạt động của tổ chức, từ đó phát triển các năng lực cạnh tranh khác biệt Những năng lực này ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động của tổ chức Nghiên cứu được thực hiện trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ ở Tây Ban Nha, nhấn mạnh bốn thành phần TQM: tập trung vào khách hàng, cải tiến liên tục, đáp ứng nhân viên, và tổ chức như một hệ thống tổng thể Kết quả cho thấy TQM kết hợp với các yếu tố nguồn lực sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh đặc biệt, nâng cao kết quả tài chính của tổ chức (Tena, A.B.E và cộng sự, 2001).
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh động của doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh đã chỉ ra bốn yếu tố chính, bao gồm năng lực marketing, năng lực sáng tạo, định hướng kinh doanh và định hướng học hỏi Những yếu tố này có mối quan hệ tích cực với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, khẳng định vai trò quan trọng của chúng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).
Nghiên cứu đã xác định 12 yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong ngành cao su, bao gồm mức độ mở cửa của nền kinh tế, vai trò của Chính phủ, tài chính, vốn, tài sản doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng, trình độ công nghệ và kỹ thuật, lao động giản đơn, lao động cao cấp, điều kiện đất đai, chất lượng sản phẩm, nhu cầu sản phẩm trên thị trường, khả năng đổi mới sản phẩm và khả năng cạnh tranh marketing Các yếu tố này đại diện cho doanh nghiệp sản xuất và nghiên cứu trong môi trường cân bằng, chưa xem xét đến giả thuyết cạnh tranh trong môi trường động và các yếu tố vô hình Kết quả nghiên cứu này sẽ là nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo, tập trung vào các yếu tố vô hình (Huỳnh Văn Sáu, 2008).
- Nghiên cứu cho rằng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch TP
Hồ Chí Minh được xây dựng dựa trên 9 yếu tố quan trọng bao gồm cơ sở vật chất, tổ chức quản lý, hệ thống thông tin, nhân sự, thị trường, marketing, vốn, cạnh tranh nội bộ ngành và chính sách của nhà nước Nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các yếu tố hữu hình, trong khi các yếu tố vô hình, đặc biệt là các yếu tố cạnh tranh trong môi trường động, chưa được nhấn mạnh đầy đủ (Nguyễn Cao Trí, 2011).
Các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh thường có sự khác biệt về đặc điểm và điều kiện nghiên cứu Mỗi doanh nghiệp, bao gồm cả Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau, đều có những yếu tố riêng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh Do đó, mô hình đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty này sẽ có nhiều điểm khác biệt so với các mô hình đã được nghiên cứu trước đó.
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu
Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau, nhằm đánh giá tổng thể tình hình cạnh tranh hiện tại của đơn vị Qua đó, nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong tương lai Mục tiêu chính là phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau
- Phân tích các ưu điểm và hạn chế của năng lực cạnh tranh của công ty Điện lực dầu khí Cà Mau
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau trong thời gian tới.
Các câu hỏi đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau, nghiên cứu này đề ra các câu hỏi nghiên cứu quan trọng.
Năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau đang chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố khác nhau Các yếu tố như chất lượng dịch vụ, công nghệ hiện đại, và quản lý hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao vị thế cạnh tranh Bên cạnh đó, thị trường năng lượng đang ngày càng cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi công ty phải liên tục cải tiến và đổi mới Sự phát triển bền vững và khả năng thích ứng với xu hướng thị trường cũng là những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty trong bối cảnh hiện tại.
- Các nhân tố này đang tồn tại những thách thức và hạn chế gì?
- Các giải pháp khả thi cho các nhân tố này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau là gì?
- Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau đã và đang diễn ra như thế nào?
- Các ưu điểm và hạn chế của năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau đã và đang diễn ra như thế nào?
- Những giải pháp khả thi nào giúp Công ty Điện lực dầu khí Cà Mau nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới?
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với thống kê mô tả, khảo sát, phân tích và so sánh để tổng quan lý thuyết và các công trình nghiên cứu liên quan Mục tiêu là đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong tương lai.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quát về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua đánh giá của khách hàng, giúp công ty nhận diện các yếu tố vô hình ảnh hưởng đến năng lực động của mình Từ đó, công ty có thể đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Công ty có thể sử dụng kết quả nghiên cứu này để thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu theo từng ngành kinh doanh, nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng và từ đó đề ra chính sách phù hợp Nghiên cứu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khảo sát định hướng học hỏi trong công ty, qua đó góp phần xây dựng giá trị văn hóa mới cho tổ chức.
Kết cấu của đề tài
Kết cấu luận văn gồm các phần chính sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh
Chương 2 phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau, tập trung vào các yếu tố nội tại và ngoại tại ảnh hưởng đến vị thế của công ty trong ngành điện Chương 3 đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau, bao gồm cải tiến công nghệ, tối ưu hóa quy trình vận hành và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Tổng quan năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm đa dạng, liên quan đến hành vi của các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh và nền kinh tế Để giành lợi thế trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể cần áp dụng nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường Nhiều định nghĩa về năng lực cạnh tranh đã được đưa ra, phản ánh sự phức tạp của khái niệm này.
Cạnh tranh là cuộc ganh đua quyết liệt giữa các nhà tư bản nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa, từ đó tối đa hóa lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh trong cơ chế thị trường, theo Từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh), được định nghĩa là sự ganh đua và kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành lấy tài nguyên sản xuất cho cùng một loại hàng hóa.
Theo P.A Samuelson và W.D Nordhaus trong cuốn "Kinh tế học" (xuất bản lần thứ 12), cạnh tranh được định nghĩa là sự kình địch giữa các doanh nghiệp nhằm thu hút khách hàng và giành thị trường Họ cũng nhấn mạnh rằng cạnh tranh có thể được đồng nhất với khái niệm cạnh tranh hoàn hảo.
Trong tác phẩm "Thị trường, chiến lược, cơ cấu", Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2008) nhấn mạnh rằng cạnh tranh trong thương trường không phải là tiêu diệt đối thủ mà là cung cấp cho khách hàng những giá trị gia tăng độc đáo và hấp dẫn hơn Điều này giúp khách hàng lựa chọn sản phẩm hoặc dịch vụ của mình thay vì của đối thủ cạnh tranh.
Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là một quan hệ kinh tế thiết yếu, nơi các chủ thể kinh tế cạnh tranh quyết liệt để giành lấy điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa Mục tiêu chính của sự cạnh tranh này là chiếm lĩnh thị trường, thu hút khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp, đồng thời mang lại lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi cho người tiêu dùng (Đặng Đức Thành, 2010).
Theo báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 tại diễn đàn Liên hợp quốc, cạnh tranh của một quốc gia được định nghĩa là khả năng đạt được thành quả nhanh chóng và bền vững về mức sống Điều này được thể hiện qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian.
Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên đây có thể rút ra quan điểm chung về cạnh tranh ở phạm vi doanh nghiệp sau đây:
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các tổ chức và cá nhân có chức năng tương tự, diễn ra thông qua nỗ lực và hành động nhằm đạt được mục tiêu như thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn và danh tiếng.
Cạnh tranh có hai mặt: tích cực và tiêu cực Mặt tích cực, cạnh tranh giúp phân bổ hợp lý nguồn lực hạn chế, thúc đẩy cơ cấu kinh tế hiệu quả và tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó tăng năng suất sản xuất và đáp ứng nhu cầu xã hội với sản phẩm chất lượng cao, giá cả hợp lý Tuy nhiên, mặt tiêu cực xuất hiện khi cạnh tranh chỉ nhằm lợi nhuận mà bỏ qua các yếu tố xã hội, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như hủy hoại môi trường, ảnh hưởng sức khỏe con người, và suy thoái đạo đức xã hội Nếu tình trạng này xảy ra, nền kinh tế sẽ phát triển lệch lạc, không phục vụ lợi ích của đa số.
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm
Theo báo cáo của Theo Aldington năm 1985, doanh nghiệp (DN) có khả năng cạnh tranh là DN có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn so với các đối thủ trong nước và quốc tế Khả năng cạnh tranh không chỉ giúp DN đạt được lợi ích lâu dài mà còn đảm bảo thu nhập cho người lao động và chủ DN.
1994, định nghĩa này được nhắc lại trong “Sách trắng về NLCT của Vương quốc Anh” (1994)
Năm 1998, Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với
DN và NLCT đề cập đến khả năng sản xuất sản phẩm đúng, xác định giá cả hợp lý và thời điểm giao hàng chính xác, từ đó đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp khác Theo Buckley (1988), NLCT của doanh nghiệp cần liên kết chặt chẽ với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp thông qua ba yếu tố chính: các giá trị cốt lõi, mục đích chính và các mục tiêu cụ thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
Năng lực cạnh tranh được phân loại thành bốn cấp độ: quốc gia, ngành, doanh nghiệp và sản phẩm Trong đó, năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Mặc dù chưa có sự đồng thuận hoàn toàn, các khái niệm này đều tập trung vào những khía cạnh khác nhau của cạnh tranh.
1) Phổ biến nhất là quan niệm năng lực cạnh tranh là khả năng duy trì và mở rộng thị phần của doanh nghiệp
2) Khả năng chống chọi trước sự tấn công của doanh nghiệp đối thủ theo quan điểm của Hội đồng chính sách năng lực cạnh tranh của Mỹ và Ủy Ban Quốc gia về hợp tác kinh tế (1997)
3) Năng lực cạnh tranh đồng nhất với năng suất lao động theo quan điểm của Porter (1990) và Tổ chức OECD
4) Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh;
5) Năng lực cạnh tranh đồng nhất với năng lực kinh doanh
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được định nghĩa là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh thông qua việc thu hút và sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào, sản xuất sản phẩm chất lượng cao và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh là yếu tố quan trọng phản ánh khả năng của mỗi chủ thể kinh tế khi so sánh và đánh giá với các đối thủ trong cùng lĩnh vực và thị trường Khái niệm này có thể áp dụng ở nhiều cấp độ khác nhau, từ năng lực cạnh tranh quốc gia cho đến các ngành, doanh nghiệp và sản phẩm cụ thể.
Các nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài
Các nhân tố môi trường bên ngoài, bao gồm môi trường vĩ mô và môi trường vi mô, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Những yếu tố này tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức cho doanh nghiệp, do đó, việc hiểu rõ môi trường bên ngoài là rất quan trọng để phát triển chiến lược kinh doanh hiệu quả.
Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp là tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị
Pháp luật, văn hóa - xã hội, công nghệ và các yếu tố tự nhiên là những nhân tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến doanh nghiệp Doanh nghiệp không thể thay đổi những yếu tố này, nhưng cần phải biết thích nghi một cách sáng tạo để phát triển Môi trường kinh tế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chiến lược kinh doanh hiệu quả.
Mức tăng trưởng kinh tế hàng năm, được đo qua tăng GDP và thu nhập bình quân đầu người, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Khi tăng trưởng kinh tế diễn ra, khả năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân tăng lên, tạo triển vọng phát triển cho doanh nghiệp và giảm áp lực cạnh tranh Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, nhu cầu tiêu thụ giảm, lực lượng cạnh tranh gia tăng, và cuộc chiến giá cả trong các ngành trưởng thành trở nên khốc liệt hơn.
Mức lãi suất, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái không chỉ tạo ra cơ hội mới cho doanh nghiệp mà còn tiềm ẩn những rủi ro đối với sự phát triển của chúng.
Mức độ lạm phát có tác động lớn đến doanh nghiệp, khi tỷ lệ lạm phát cao có thể gây mất ổn định nền kinh tế và hạn chế sự phát triển Điều này dẫn đến việc tăng lãi suất cho vay và biến động giá ngoại tệ Khi lạm phát gia tăng, các dự án đầu tư trở nên rủi ro hơn, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm kế hoạch đầu tư vào sản xuất.
Hệ thống thuế và mức thuế suất đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh mối quan hệ cung cầu của các sản phẩm hàng hóa trong nền kinh tế Chúng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp và tổ chức, đồng thời tạo ra những cơ hội hoặc thách thức cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố đã đề cập, doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố quan trọng khác như phương pháp hoạt động của thị trường, thị trường vốn, vòng quay và các chỉ số chứng khoán, cũng như cấu trúc nền kinh tế.
Môi trường chính trị và pháp luật có ảnh hưởng đa dạng đến doanh nghiệp, tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức Những yếu tố này có thể trở thành động lực phát triển hoặc gây ra rủi ro nghiêm trọng cho tổ chức.
Chính phủ là người tiêu dùng lớn nhất trong nền kinh tế quốc gia, tạo ra môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư Sự ổn định về an ninh chính trị và nhất quán trong các chính sách lớn là yếu tố quan trọng giúp thu hút đầu tư Hệ thống luật pháp hoàn thiện sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp và tổ chức hoạt động kinh doanh một cách ổn định và hiệu quả.
Quyết định về các loại chính sách thuế và lệ phí có thể mang lại cơ hội cũng như thách thức cho sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp.
Luật lao động là yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp cần chú ý, bao gồm các khía cạnh như thu nhập, tiền lương, quy chế tuyển dụng, đề bạt, chế độ hưu trí và trợ cấp thất nghiệp.
Môi trường khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực kinh tế và tổ chức Sự biến đổi công nghệ đã từng gây ra những thay đổi lớn, thậm chí làm mất đi nhiều ngành nghề, nhưng cũng đồng thời tạo ra nhiều cơ hội mới và hoàn thiện hơn cho các lĩnh vực kinh doanh.
Thế kỷ XXI chứng kiến sự bùng nổ của tiến bộ khoa học và công nghệ, khiến việc phân tích và đánh giá các biến đổi công nghệ trở nên cấp bách hơn bao giờ hết Sự thay đổi này ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ Khi khoa học và công nghệ phát triển, chúng không chỉ tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh, mà còn tiềm ẩn nguy cơ làm cho công nghệ hiện tại trở nên lỗi thời.
Môi trường văn hoá - xã hội luôn thay đổi nhanh chóng, tạo ra cả cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Để thành công, doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu và nắm bắt các xu hướng tiêu dùng, sự biến đổi của tháp tuổi, tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ, cùng với vai trò của phụ nữ trong công việc và gia đình.
Sự xuất hiện của hiệp hội người tiêu dùng buộc doanh nghiệp phải chú trọng đến chất lượng sản phẩm để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng Sự gia tăng trình độ dân trí đang tạo ra thách thức lớn cho các nhà sản xuất Văn hóa truyền thống và văn hóa tiếp nhận qua giao lưu hình thành nền tảng văn hóa của các dân tộc, có giá trị hệ thống và lịch sử, ảnh hưởng đến tư duy và hành động của con người trong các lĩnh vực kinh tế xã hội, từ đó tác động đến hành vi tiêu dùng.
Kinh nghiệm năng lực cạnh tranh của một số quốc gia và Việt Nam
PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG
TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ CÀ MAU
2.1 Tổng quan về Công ty Điện lực Dầu khí Cà Mau
- Tên chính thức: Chi nhánh Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam - PVPower Cà Mau
- Tên giao dịch: PVPower Cà Mau
- Tên giao dịch quốc tế: PetroVietNam Power Ca Mau Company (DLDK
- Địa chỉ: Xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau
- Các chứng nhận chất lượng: ISO 9001:2008; OHSAS 18001-2007, ISO
- Loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
- Lĩnh vực hoạt động: sản xuất, truyền tải và phân phối điện
2.1.1 Li ̣ch sử hình thành và phát triển:
PVPower Cà Mau là thành viên của Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam, thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, có nhiệm vụ quản lý và vận hành Nhà máy điện Cà Mau 1 và Cà Mau 2 với tổng công suất thiết kế 1.500 MW Nhà máy sử dụng công nghệ tuabin khí chu trình hỗn hợp với cấu hình 2-2-1, bao gồm 2 tuabin khí, 2 lò thu hồi nhiệt và 1 tuabin hơi Các thiết bị chính được sản xuất bởi Tập đoàn Siemens - CHLB Đức Hiện tại, công suất của hai nhà máy chiếm khoảng 7% tổng công suất của Hệ thống điện Việt Nam và có khả năng phát tối đa đạt 10% sản lượng điện toàn quốc.
Dự án có tổng mức đầu tư lên đến 14.060,2 tỷ đồng, trong đó Nhà máy điện Cà Mau 1 chiếm 7.234,3 tỷ đồng và Nhà máy Cà Mau 2 là 6.825,9 tỷ đồng Cả hai nhà máy được xây dựng trên diện tích 35 ha trong cụm công nghiệp Khí – Điện – Đạm Cà Mau, tọa lạc tại xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.