TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Mô hình Healy (1985) là mô hình tiên phong trong việc đo lường hành vi quản trị lợi nhuận, tập trung vào việc so sánh chỉ số tổng dồn tích trên tài sản giữa các nhóm doanh nghiệp mà không đo lường trực tiếp dồn tích Trong khi đó, mô hình DeAngelo cũng đóng góp vào nghiên cứu này.
Năm 1986, để xác định dồn tích có điều chỉnh riêng biệt cho mỗi doanh nghiệp, người ta tính chênh lệch giữa tổng dồn tích của hai kỳ trên tài sản Mô hình Jones (1991) xác định dồn tích không điều chỉnh là một hàm số phụ thuộc vào doanh thu và tài sản cố định hữu hình Tổng biến dồn tích được tính bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế trừ đi dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, trong khi dồn tích có điều chỉnh được xác định là phần còn lại của tổng dồn tích sau khi trừ đi dồn tích không điều chỉnh.
Mô hình Friedlan (1994) là một biến thể của mô hình DeAngelo (1986), xác định dồn tích có điều chỉnh bằng cách tính chênh lệch giữa tổng dồn tích của hai kỳ trên tài sản chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng Mô hình Modified Jones của Dechow và các cộng sự (1995) cải tiến mô hình Jones (1991) bằng cách bổ sung yếu tố nợ phải thu, cho thấy mô hình này là tốt nhất để phát hiện quản trị lợi nhuận Kothari và các cộng sự (2005) đã phát triển thêm mô hình bằng cách đưa vào biến lợi nhuận trên tổng tài sản, nhằm xem xét mối quan hệ giữa dồn tích và kết quả hoạt động công ty Tuy nhiên, nghiên cứu của Keung và Shih (2014) chỉ ra rằng các sai số của mô hình Kothari có mối tương quan ngược chiều với biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh.
1.1.2 Nghiên cứu về động cơ dẫn đến hành vi quản trị lợi nhuận
Nghiên cứu của Healy (1985) chỉ ra rằng hành vi sử dụng khoản dồn tích nhằm tối đa hóa thưởng là phổ biến Watts và Zimmerman (1990) nhấn mạnh rằng các nhà quản lý có xu hướng chuyển lợi nhuận từ tương lai sang kỳ kế toán hiện tại khi có kế hoạch thưởng dựa trên lợi nhuận Healy và Wahlen (1999) xác định ba động cơ chính dẫn đến hành vi quản trị lợi nhuận: kỳ vọng thị trường vốn, hợp đồng liên quan đến số liệu kế toán, và phản ứng với quy định chính phủ Baralexis (2004) cho thấy các công ty nhỏ chú trọng đến tiết kiệm thuế trong quản trị lợi nhuận Ball và Shivakumare (2005) xác định thuế là một mục tiêu quan trọng trong báo cáo thường niên của công ty tư nhân Burgstahler và Eames (2006) phát hiện rằng hành vi quản trị lợi nhuận gia tăng khi đáp ứng kỳ vọng của nhà phân tích Bergstresser và Philippon (2006) chỉ ra rằng nhà quản lý có xu hướng quản trị lợi nhuận tăng lên để gia tăng tài sản cá nhân khi có quyền chọn mua cổ phiếu Chevis và cộng sự (2007) cho thấy các công ty đạt hoặc vượt kế hoạch sẽ được đánh giá cao hơn Nghiên cứu của Noronha và cộng sự (2008) nhấn mạnh động cơ hợp đồng bồi thường và tiết kiệm thuế doanh nghiệp là yếu tố quan trọng trong hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty đại chúng Trung Quốc Ahmad–Zaluki và cộng sự (2011) cho thấy các công ty có hành vi quản trị lợi nhuận mạnh mẽ trong giai đoạn niêm yết, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng Omar Farooq và Meryem Benali (2012) chỉ ra rằng các công ty cổ phần có hành vi quản trị lợi nhuận cao hơn trong năm đầu niêm yết so với các năm trước và sau.
Các động cơ chính thúc đẩy hành vi quản trị lợi nhuận bao gồm kỳ vọng từ thị trường vốn, lợi ích phát sinh từ các hợp đồng liên quan đến lợi nhuận kế toán, cùng với các quy định pháp lý của chính phủ và yêu cầu từ các bên liên quan.
1.1.3 Nghiên cứu về kỹ thuật quản trị lợi nhuận
Theo DuCharme và các cộng sự (2000), nhà quản trị có thể thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua việc lựa chọn phương pháp kế toán, sử dụng ước tính kế toán và ghi nhận thu chi Verbruggen và các cộng sự (2008) đã chỉ ra bốn kỹ thuật quản trị lợi nhuận, bao gồm: quản trị lợi nhuận qua dồn tích các đối tượng cụ thể, phân bổ chi phí hoặc doanh thu, công bố thông tin, và các hoạt động thực tế.
1.1.4 Nghiên cứu về các nhân tố đặc điểm công ty ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận
Becker và các cộng sự (1998) đã áp dụng mô hình Jones (1991) để nghiên cứu sự khác biệt trong quản trị lợi nhuận giữa các công ty được kiểm toán bởi Big6 (hiện nay là Big4) và các công ty không thuộc Big6 Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các công ty không được kiểm toán bởi Big6 có mức quản trị lợi nhuận cao hơn so với các công ty được kiểm toán bởi Big6.
Nghiên cứu của Roodposhti & Chashmin (2011) chỉ ra rằng cơ chế quản trị công ty có ảnh hưởng đáng kể đến quản trị lợi nhuận, dựa trên mẫu 196 công ty niêm yết tại Sàn chứng khoán Tehran trong giai đoạn 2004-2008 Kết quả cho thấy rằng khi quy mô công ty tăng lên, hành vi quản trị lợi nhuận cũng có xu hướng gia tăng.
Nghiên cứu của Ahmad–Zaluki và các cộng sự (2011) về hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Malaysia với mẫu nghiên cứu gồm
Một nghiên cứu về 250 công ty trong giai đoạn 1990-2000 sử dụng mô hình Jones (1991) để phân tích hành vi quản trị lợi nhuận cho thấy rằng chất lượng dịch vụ của công ty kiểm toán và thời gian hoạt động của công ty có mối quan hệ nghịch biến với hành vi quản trị lợi nhuận.
Nghiên cứu của Soliman & Ragab (2013) sử dụng mô hình Jones
Năm 1991, một nghiên cứu đã được thực hiện trên 40 công ty niêm yết tại Sàn chứng khoán Ai Cập trong giai đoạn 2007-2010 nhằm xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận Kết quả cho thấy rằng quy mô công ty có tác động tích cực đến hành vi quản trị lợi nhuận.
Nghiên cứu của Dwi Lusi Tyasing Swastika (2013) chỉ ra rằng có mối quan hệ tích cực giữa quản trị công ty và hành vi quản trị lợi nhuận, trong khi các yếu tố như chất lượng công ty kiểm toán và quy mô doanh nghiệp lại có ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi này.
Nghiên cứu của Samira Rahmani và các cộng sự (2013) về tác động của quy mô doanh nghiệp và cấu trúc vốn đến quản trị lợi nhuận đã sử dụng mô hình Jones (1991) để phân tích hành vi quản trị lợi nhuận trên 75 công ty niêm yết tại Iran trong giai đoạn 2006-2010 Kết quả chỉ ra rằng cấu trúc vốn, cụ thể là tỷ lệ đòn bẩy tài chính, có ảnh hưởng nghịch biến đến hành vi quản trị lợi nhuận, trong khi không tìm thấy mối liên hệ rõ ràng giữa quy mô công ty và hành vi này.
1.1.5 Nghiên cứu về hậu quả của hành vi quản trị lợi nhuận
Cohen và Zarowin (2008) đã chỉ ra rằng quản trị lợi nhuận có tác động tiêu cực đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, khi các công ty đầu tư vượt mức tối ưu trong giai đoạn quản trị lợi nhuận và sau đó lại đầu tư thấp hơn mức tối ưu, dẫn đến việc sử dụng không hiệu quả vốn của cổ đông Nghiên cứu của Dechow và các cộng sự (1996) cũng cho thấy các nhà đầu tư rất nhạy cảm với hành vi này, với bằng chứng là giá cổ phiếu của các công ty bị SEC điều tra giảm khoảng 9%.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Phạm Thị Bích Vân (2012) đã áp dụng mô hình Modified Jones của Dechow và các cộng sự (1995) để nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận tại 54 doanh nghiệp niêm yết trên HOSE trong năm 2010 Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình này không hiệu quả trong việc nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp này Điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đó của Giáp Thị Liên (2015) và Nguyễn Thị Phương Hồng.
Nghiên cứu của Phạm Thị Bích Vân (2012) đã đề xuất một mô hình mới để nhận diện quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên HOSE, dựa trên mô hình Modified Jones Mô hình này bổ sung biến dự phòng và thay thế biến tài sản cố định bằng biến khấu hao tài sản cố định Kết quả cho thấy hệ số đo lường sự phù hợp của mô hình được cải thiện và có ý nghĩa thống kê Tuy nhiên, biến dự phòng không có ý nghĩa thống kê, cho thấy nó không ảnh hưởng đến việc phát hiện quản trị lợi nhuận tại các doanh nghiệp niêm yết ở HOSE.
1.2.2 Nghiên cứu về động cơ dẫn đến hành vi quản trị lợi nhuận
Nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân (2012) chỉ ra rằng các công ty cổ phần có xu hướng tăng cường quản trị lợi nhuận trong năm đầu niêm yết trên TTCK Việt Nam, đặc biệt là những công ty được hưởng thuế suất ưu đãi, nhằm tiết kiệm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp Trong khi đó, nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Trang (2012) áp dụng mô hình quản trị lợi nhuận của DeAngelo và Friedlan trên 20 doanh nghiệp thuộc 4 loại hình khác nhau, cho thấy rằng công ty cổ phần thường quản trị lợi nhuận để thu hút vốn đầu tư và tiết kiệm thuế, trong khi các loại hình doanh nghiệp khác lại có xu hướng giảm lợi nhuận để giảm chi phí thuế.
Nghiên cứu năm 2014 về quản trị lợi nhuận trong bối cảnh phát hành thêm cổ phiếu của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy rằng các công ty này có xu hướng tăng cường quản trị lợi nhuận trong các năm phát hành cổ phiếu bổ sung Điều này nhằm thu hút nhà đầu tư và đảm bảo thành công cho đợt chào bán.
Nghiên cứu năm 2015 về hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên HOSE cho thấy rằng 100% các công ty tham gia có hành vi quản trị lợi nhuận trong các năm trước, trong và sau khi niêm yết Đặc biệt, các công ty cổ phần thể hiện hành vi quản trị lợi nhuận tăng cao trong năm đầu niêm yết so với năm trước và năm sau.
1.2.3 Nghiên cứu về kỹ thuật quản trị lợi nhuận
Nguyễn Công Phương (2009) đã tổng hợp bốn kỹ thuật quản trị lợi nhuận mà nhà quản trị có thể áp dụng, bao gồm: lựa chọn phương pháp kế toán, vận dụng các phương pháp kế toán, xác định thời điểm áp dụng các phương pháp kế toán và quyết định thời điểm đầu tư hoặc thanh lý tài sản cố định.
Nghiên cứu năm 2011 về kỹ thuật quản trị lợi nhuận của nhà quản trị đã chỉ ra rằng nhà quản trị có thể áp dụng nhiều phương pháp, bao gồm lựa chọn phương pháp kế toán ảnh hưởng đến thời điểm ghi nhận doanh thu và chi phí, cùng với việc lựa chọn thời điểm mua hoặc bán tài sản Đường Nguyễn Hưng (2013) cũng nhấn mạnh rằng nhà quản trị có thể sử dụng các kỹ thuật như lựa chọn chính sách kế toán, thực hiện ước tính kế toán, và quyết định thực hiện nghiệp vụ kinh tế Ngoài ra, Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2016) đã đưa ra sáu kỹ thuật quản trị lợi nhuận, bao gồm thay đổi chính sách kế toán, trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng tổn thất tài sản, lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang, thực hiện các khoản trích trước và phân bổ, sử dụng các khoản dự phòng phải trả, và ước tính tỷ lệ hoàn thành hợp đồng để ghi nhận doanh thu và chi phí cho hợp đồng dài hạn.
1.2.4 Nghiên cứu về các nhân tố đặc điểm công ty ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận
Nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân (2012) về hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã phân tích 43 công ty niêm yết Kết quả cho thấy rằng quy mô công ty không có ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận.
Nguyễn Thị Phương Uyên (2014) đã nghiên cứu quản trị lợi nhuận trong bối cảnh phát hành thêm cổ phiếu của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Kết quả cho thấy rằng các công ty có quy mô lớn hơn thường có mức độ quản trị lợi nhuận cao hơn, và chất lượng kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trần Thị Mỹ Tú (2014) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên HOSE Kết quả cho thấy, tính độc lập của hội đồng quản trị là yếu tố quan trọng nhất, chiếm 61.7%, tiếp theo là quy mô công ty (15.53%), công ty kiểm toán (14.56%) và đòn bẩy tài chính (8.74%) Đáng chú ý, quy mô công ty có tác động thuận chiều đến hành vi quản trị lợi nhuận, trong khi công ty kiểm toán lại có tác động nghịch chiều.
Nghiên cứu của Phan Thị Thanh Trang (2015) về hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên HOSE cho thấy quy mô công ty là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất, tiếp theo là các điều kiện kinh tế, công ty kiểm toán và thời gian hoạt động của công ty Đặc biệt, quy mô công ty có tác động tích cực đến hành vi quản trị lợi nhuận, trong khi thời gian hoạt động và loại công ty kiểm toán lại có tác động tiêu cực Biến ngành nghề kinh doanh không có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu này.
Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính thông qua hành vi quản trị lợi nhuận và giá trị thích hợp của thông tin kế toán Nghiên cứu tổng hợp 23 nhân tố, chia thành 5 nhóm: cơ cấu sở hữu vốn, quản trị công ty, cơ cấu vốn, đặc điểm thị trường và hiệu quả công ty Kết quả cho thấy 11 trong số 23 nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính thông qua quản trị lợi nhuận Đặc biệt, quy mô công ty và tính trì hoãn của báo cáo tài chính có tác động thuận chiều, trong khi thời gian niêm yết của công ty lại có tác động nghịch chiều đến hành vi quản trị lợi nhuận.
1.2.5 Nghiên cứu về hậu quả của hành vi quản trị lợi nhuận
Nghiên cứu của Võ Văn Nhị và Hoàng Cẩm Trang (2013) đã phân tích mối quan hệ giữa hành vi quản trị lợi nhuận và nguy cơ phá sản của 85 công ty niêm yết trên HOSE trong niên độ kế toán 2011 Sử dụng mô hình của Leuz et al (2003) để xác định hành vi quản trị lợi nhuận và chỉ số Z của Altman (2000) để đánh giá nguy cơ phá sản, kết quả cho thấy có sự tương đồng giữa mức độ quản trị lợi nhuận và nguy cơ phá sản của các công ty.
Nhận xét và xác định vấn đề nghiên cứu
Các nghiên cứu hiện nay trên thế giới và tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào các khía cạnh cơ bản của hành vi quản trị lợi nhuận, bao gồm mô hình nhận diện, động cơ, kỹ thuật, các nhân tố ảnh hưởng và hậu quả của hành vi này Đặc biệt, tại Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu hướng đến các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM hoặc tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Theo các nghiên cứu trước, các nhà quản trị có thể sử dụng chính sách kế toán và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận Việc thay đổi chế độ kế toán sẽ dẫn đến sự thay đổi trong chính sách kế toán và cách xử lý các nghiệp vụ kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết.
Tác giả nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn thay đổi chế độ kế toán, nhằm xem xét sự biến đổi trước và sau khi có sự thay đổi từ Bộ Tài chính Mô hình Modified Jones (1995) sẽ được áp dụng để đo lường hành vi này trong các năm 2014 và 2015 Nhiều nghiên cứu trước đây như của Teoh và cộng sự (1998), Aboody và cộng sự (2005), Alves (2014), và González và Meca (2014) cũng đã sử dụng mô hình tương tự để phân tích hành vi quản trị lợi nhuận.
Nghiên cứu này kế thừa các công trình trước đó về ảnh hưởng của các nhân tố đến hành vi quản trị lợi nhuận, đặc biệt là nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) đã phân loại các nhân tố thành 5 nhóm và xem xét trong giai đoạn 2012-2014 Tác giả tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của các đặc điểm công ty, bao gồm quy mô, thời gian hoạt động, thời gian niêm yết, loại công ty kiểm toán và tính trì hoãn của báo cáo tài chính đến hành vi quản trị lợi nhuận trong năm đầu áp dụng chế độ kế toán mới Nghiên cứu nhằm cập nhật thông tin về quản trị lợi nhuận cho các nhà đầu tư, hỗ trợ họ trong việc đưa ra quyết định.
Trong chương 1, tác giả đã trình bày các nghiên cứu liên quan đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết cùng những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi này cả trong nước và quốc tế Qua việc phân tích các nghiên cứu trước và tìm hiểu sâu về vấn đề, tác giả đã xác định khoảng trống nghiên cứu và lựa chọn đề tài cho luận văn Nghiên cứu sẽ tập trung vào hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trong bối cảnh thay đổi chế độ kế toán, đồng thời xem xét ảnh hưởng của các đặc điểm công ty đến hành vi này.
Trong chương tiếp theo, tác giả sẽ giới thiệu các lý thuyết cơ bản liên quan đến hành vi quản trị lợi nhuận, đồng thời cung cấp cái nhìn tổng quan về Thông tư 200/2014/TT-BTC, quy định về chế độ kế toán mới.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Định nghĩa hành vi quản trị lợi nhuận
Theo Schipper (1989), hành vi quản trị lợi nhuận được định nghĩa là sự can thiệp có tính toán trong việc cung cấp thông tin tài chính ra bên ngoài bởi các nhà quản trị, nhằm mục đích đạt được những lợi ích cá nhân nhất định.
Theo Healy và Waland (1999), hành vi quản trị lợi nhuận xảy ra khi các nhà quản lý sử dụng các xét đoán trong báo cáo tài chính và cấu trúc của các nghiệp vụ kinh tế để điều chỉnh báo cáo tài chính Điều này có thể dẫn đến sự hiểu nhầm về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến kết quả của các hợp đồng dựa vào số liệu báo cáo kế toán.
Levitt (1998) và Parfet (2000) chỉ ra rằng hành vi quản trị lợi nhuận nhằm mục đích che giấu thực trạng tài chính, khiến báo cáo tài chính phản ánh ý muốn của nhà quản trị thay vì hoạt động tài chính cốt lõi của công ty.
Beneish (2001) và Jiraporn cùng các cộng sự (2008) cho rằng hành vi quản trị lợi nhuận không chỉ nhằm mục đích cá nhân mà còn hướng đến lợi ích của các bên liên quan, thông qua việc cải thiện giá trị của thông tin được cung cấp ra bên ngoài.
Ronen và Yaari (2008) đã phân loại quản trị lợi nhuận thành ba nhóm dựa trên mục tiêu công bố thông tin: nhóm quản trị lợi nhuận trắng nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính, nhóm quản trị lợi nhuận xám nhằm tăng giá trị doanh nghiệp hoặc lợi ích của nhà quản trị, và nhóm quản trị lợi nhuận đen nhằm làm sai lệch hoặc giảm tính minh bạch của báo cáo tài chính Họ cho rằng hành vi quản trị lợi nhuận bao gồm các quyết định quản lý nhằm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp bằng cách không phản ánh chính xác lợi nhuận thực trong ngắn hạn.
Hành vi quản trị lợi nhuận được định nghĩa bởi nhiều nhà nghiên cứu, mỗi quan điểm mang đến cái nhìn khác nhau nhưng đều dẫn đến việc thông tin tài chính của doanh nghiệp bị thay đổi bởi sự can thiệp của các nhà quản trị Theo định nghĩa của Ronen và Yaari (2008), hành vi này là tập hợp các quyết định quản lý không phản ánh đúng thu nhập ngắn hạn của doanh nghiệp, thông qua các hành động liên quan đến sản xuất, đầu tư, cũng như việc lựa chọn chính sách và ước tính kế toán ảnh hưởng đến số liệu thu nhập.
Các lý thuyết nền tảng
Lý thuyết đại diện, phát triển bởi Jensen và Meckling vào năm 1976, xuất phát từ lý thuyết kinh tế và giải thích sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý nguồn lực Điều này dẫn đến việc người quản lý có thể ưu tiên lợi ích cá nhân hơn lợi ích của chủ sở hữu Lý thuyết này tập trung vào mối quan hệ giữa bên ủy quyền (Principals) và bên đại diện (Agents), trong đó bên đại diện được trao quyền hạn nhất định dựa trên sự ủy quyền Xung đột lợi ích có thể phát sinh khi có sự bất cân xứng thông tin giữa hai bên, tạo ra trạng thái thông tin không đồng đều trong giao dịch.
Trong công ty cổ phần, mối quan hệ giữa bên ủy quyền và bên đại diện thể hiện sự tương tác giữa cổ đông và nhà quản lý, khi cổ đông ủy quyền cho nhà quản lý điều hành doanh nghiệp Đồng thời, mối quan hệ này cũng bao gồm sự ủy quyền từ chủ nợ cho cổ đông trong việc sử dụng vốn tín dụng mà chủ nợ cung cấp.
Trong mối quan hệ giữa cổ đông và nhà quản lý, thường xảy ra sự bất cân xứng thông tin, khi mà nhà quản lý nắm giữ nhiều thông tin hơn cổ đông về khả năng đạt được mục tiêu và các rủi ro hiện tại của công ty Điều này có thể dẫn đến việc nhà quản lý đưa ra quyết định nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân thay vì giá trị doanh nghiệp Ví dụ, những nhà quản lý có tâm lý sợ rủi ro có thể từ chối các cơ hội đầu tư có lợi nhuận mà cổ đông mong muốn, hoặc những người có lương thưởng gắn liền với kết quả kinh doanh có thể tìm mọi cách để cải thiện kết quả nhằm nhận được lợi ích cá nhân.
Trong mối quan hệ giữa chủ nợ và cổ đông công ty, cổ đông thường nắm giữ nhiều thông tin hơn về hoạt động kinh doanh và khả năng trả nợ của công ty Sự bất cân xứng thông tin này có thể gây rủi ro cho chủ nợ nếu công ty sử dụng vốn vay không hiệu quả, dẫn đến khả năng không thu hồi được vốn cho vay Do đó, khi quyết định cho vay, chủ nợ thường đánh giá rủi ro dựa vào tình hình tài chính được thể hiện trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán Một báo cáo tài chính thể hiện kết quả hoạt động tốt thường được xem là ít rủi ro, từ đó ảnh hưởng đến quyết định cho vay của chủ nợ Nhà quản trị có thể nâng cao khả năng thu hút vốn vay thông qua việc áp dụng các chính sách kế toán hợp lý.
Lý thuyết đại diện cho thấy rằng người quản lý thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính để tối đa hóa lợi ích cá nhân Nghiên cứu này kỳ vọng rằng các công ty niêm yết được kiểm toán bởi Big4 sẽ có mức độ quản trị lợi nhuận thấp hơn so với các công ty không được kiểm toán bởi Big4.
2.2.2 Lý thuyết tín hiệu (Signaling Theory)
Lý thuyết tín hiệu, được giới thiệu từ những năm 70 của thế kỷ XX, nhấn mạnh rằng người lao động cần phát tín hiệu để thể hiện khả năng của mình trên thị trường lao động, như được nghiên cứu bởi Spence vào năm 1973 Bini và các cộng sự (2010) cho rằng các công ty có khả năng sinh lợi cao cũng sử dụng tín hiệu để nâng cao sức cạnh tranh Lý thuyết này dựa trên thông tin bất cân xứng, trong đó bên nắm giữ thông tin cần phát tín hiệu cho bên cần thông tin nhằm đạt được mục tiêu cụ thể Trong các công ty cổ phần, thông tin bất cân xứng thường xuất hiện trong mối quan hệ giữa nhà quản lý và cổ đông, cũng như giữa doanh nghiệp và các bên liên quan.
Nhà quản lý nắm giữ nhiều thông tin quan trọng của công ty, và nếu họ cố tình che giấu, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định của cổ đông, gây bất lợi cho họ Doanh nghiệp cần phát tín hiệu chính xác ra bên ngoài; nếu không, sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm và tổn thất cho các bên liên quan Ví dụ, việc công bố thông tin tài chính không chính xác, đặc biệt là chỉ tiêu lợi nhuận, có thể khiến số thuế nộp không phản ánh đúng thực tế kinh doanh, dẫn đến các chủ nợ và nhà đầu tư đưa ra quyết định sai lầm về giải ngân hoặc đầu tư.
Theo lý thuyết tín hiệu, để giảm thiểu bất cân xứng thông tin, các công ty cần phát tín hiệu cho các bên liên quan Tuy nhiên, nhiều công ty thường phát tín hiệu có lợi cho bản thân để che giấu những yếu kém và gia tăng sức cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư Lý thuyết này giải thích rằng nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ để cung cấp thông tin tích cực về doanh nghiệp cho các nhà đầu tư Nghiên cứu cho thấy, các công ty niêm yết có quy mô lớn thường có mức độ quản trị lợi nhuận cao hơn, trong khi các công ty hoạt động lâu năm, niêm yết lâu, được kiểm toán bởi các công ty Big4 và có tính trì hoãn báo cáo tài chính cao lại có mức độ quản trị lợi nhuận thấp hơn.
Biến kế toán dồn tích và nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận
Theo VAS01, mọi hoạt động kinh tế và tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí cần được ghi sổ kế toán ngay khi phát sinh, không phụ thuộc vào thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền Báo cáo tài chính được lập dựa trên nguyên tắc dồn tích, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được lập theo cơ sở dồn tích, trong khi báo cáo lưu chuyển tiền tệ dựa trên cơ sở tiền Điều này dẫn đến sự khác biệt giữa lợi nhuận trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dòng tiền hoạt động kinh doanh trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ, được gọi là biến kế toán dồn tích Biến kế toán dồn tích phản ánh phần lợi nhuận kế toán không bằng tiền trong báo cáo tài chính.
2.3.2 Nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận
Biến kế toán dồn tích là sự chênh lệch giữa lợi nhuận sau thuế trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập theo cơ sở tiền và không thể điều chỉnh Để quản trị lợi nhuận, các nhà quản trị cần điều chỉnh các biến kế toán dồn tích Tổng biến kế toán dồn tích (Total accruals - TA) bao gồm hai phần: biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh (Nondiscretionary accruals - NDA) và biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh từ nhà quản trị (Discretionary accruals - DA).
Biến NDA phản ánh điều kiện kinh doanh cụ thể của từng đơn vị và không bị điều chỉnh bởi nhà quản lý, như chu kỳ kinh doanh và chu kỳ sống của sản phẩm Ngược lại, biến DA có thể được điều chỉnh bởi nhà quản lý thông qua việc lựa chọn chính sách kế toán hoặc tác động vào các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Các nghiên cứu của Healy (1985), DeAngelo (1986), Jones (1991), Friedlan (1994), Dechow và các cộng sự (1995), cùng Kothari và các cộng sự (2005) đều chỉ ra rằng biến điều chỉnh lợi nhuận (DA) phản ánh hành vi quản trị lợi nhuận Tuy nhiên, việc quan sát trực tiếp hành vi này là không khả thi; thay vào đó, các nhà nghiên cứu phải xác định phần biến kế toán không thể điều chỉnh (NDA) để nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý.
Tổng biến kế toán dồn tích (TA)
Tổng biến kế toán dồn tích (TA)
Một số công cụ quản trị lợi nhuận
Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2016) đã đề xuất một số thủ thuật quản trị lợi nhuận phổ biến tại Việt Nam mà nhà quản trị có thể áp dụng Những thủ thuật này bao gồm việc thay đổi chính sách kế toán, trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng tổn thất tài sản, lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang, thực hiện các khoản trích trước và phân bổ, quản lý các khoản dự phòng phải trả, cũng như ước tính tỷ lệ hoàn thành hợp đồng và ghi nhận doanh thu, chi phí cho các hợp đồng dài hạn.
2.4.1 Thay đổi chính sách kế toán áp dụng
Giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam cũng thiết lập các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán, cung cấp nhiều phương pháp và chính sách kế toán cho doanh nghiệp Doanh nghiệp có quyền lựa chọn chính sách kế toán phù hợp nhất với nhu cầu và đặc thù của mình.
Các phương pháp tính giá hàng tồn kho như nhập trước xuất trước, bình quân gia quyền và thực tế đích danh, cũng như các phương pháp khấu hao tài sản cố định như khấu hao đường thẳng, khấu hao theo số dư giảm dần và khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm, đều cần được áp dụng nhất quán để đảm bảo thông tin trên báo cáo tài chính có tính so sánh Nếu có sự thay đổi trong chính sách kế toán, cần có thuyết minh rõ ràng về sự thay đổi này Việc lựa chọn chính sách kế toán đa dạng cho phép nhà quản lý áp dụng phương pháp phù hợp nhất theo đánh giá chủ quan, nhằm phục vụ các mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn.
2.4.2 Thông qua việc trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng tổn thất tài sản
Kế toán Việt Nam cho phép doanh nghiệp lập dự phòng tổn thất tài sản cho bốn nhóm tài sản: chứng khoán kinh doanh, đầu tư vào đơn vị khác, phải thu khó đòi và hàng tồn kho Để trình bày thông tin tài sản theo giá trị thuần, doanh nghiệp cần xem xét lại giá trị các khoản mục này trước khi lập báo cáo tài chính Việc xác định mức dự phòng tổn thất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả xét đoán chủ quan của nhà quản lý và kế toán Điều này có thể tạo cơ hội cho nhà quản lý can thiệp vào giá trị tài sản và chi phí trong báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp.
2.4.3 Thông qua việc lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang
Theo quy định, doanh nghiệp sản xuất có thể áp dụng nhiều phương pháp xác định trị giá sản phẩm dở dang, như đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu chính, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, hay ước tính sản lượng hoàn thành tương đương Việc này không chỉ giúp tính toán và phân bổ chi phí cho các sản phẩm chưa hoàn thành mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và gián tiếp tác động đến chi phí hoạt động kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp Tùy thuộc vào đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất và tính chất các khoản mục chi phí, nhà quản lý có thể lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp, tạo cơ hội để tối ưu hóa thu nhập và đạt được các mục tiêu kinh doanh.
2.4.4 Thông qua các khoản trích trước và phân bổ Để đảm bảo nguyên tắc phù hợp trong kế toán, chế độ kế toán cho phép doanh nghiệp sử dụng các kỹ thuật trích trước hoặc phân bổ, để xử lý các khoản mục chi phí liên quan đến nhiều kỳ kế toán Thí dụ, để phản ánh các khoản phải trả cho hàng hóa, dịch vụ đã nhận được từ người bán trong kỳ báo cáo nhưng thực tế chưa chi trả do chưa có hóa đơn hoặc chưa đủ hồ sơ, tài liệu kế toán, quy định cho phép doanh nghiệp được ghi nhận vào chi phí sản xuất, kinh doanh của kỳ báo cáo thông qua việc trích trước chi phí Hay kỹ thuật này còn được sử dụng để trích trước chi phí trong thời gian doanh nghiệp ngừng sản xuất theo mùa vụ, trích trước chi phí để tạm tính giá vốn hàng hóa, thành phẩm bất động sản đã bán, Việc trích trước vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phải được tính toán một cách chặt chẽ và phải có bằng chứng hợp lý, tin cậy về các khoản chi phí phải trích trước trong kỳ, để đảm bảo số chi phí phải trả này phù hợp với số chi phí thực tế phát sinh Bên cạnh đó, quy định còn cho phép doanh nghiệp treo lại các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều kỳ kế toán (như chi phí trả trước về thuê cơ sở hạ tầng, Chi phí thành lập doanh nghiệp, Công cụ, dụng cụ, bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê liên quan đến hoạt động kinh doanh trong nhiều kỳ kế toán, ) để kết chuyển các khoản chi phí này vào chi phí sản xuất kinh doanh của các kỳ kế toán sau Đồng thời, quy định cũng nêu rõ việc tính và phân bổ chi phí trả trước vào chi phí sản xuất kinh doanh từng kỳ kế toán, phải căn cứ vào tính chất, mức độ từng loại chi phí, để lựa chọn phương pháp và tiêu thức hợp lý Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định cơ sở để trích trước chi phí cũng như việc lựa chọn phương pháp và tiêu thức phân bổ hợp lý thì không giống nhau giữa các doanh nghiệp Bởi điều này, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả sự can thiệp chủ quan của nhà quản lý Do đó, đây cũng là một trong những con đường dẫn tới chi phối thu nhập của các doanh nghiệp
2.4.5 Thông qua các khoản dự phòng phải trả
Theo Thông tư 200/2014/TT-BTC, doanh nghiệp có thể ghi nhận các khoản dự phòng phải trả như dự phòng tái cơ cấu, bảo hành sản phẩm và bảo hành công trình xây dựng, tùy thuộc vào đặc điểm hoạt động và quản lý Để ghi nhận khoản dự phòng, doanh nghiệp cần đưa ra ước tính đáng tin cậy về giá trị nghĩa vụ nợ Giá trị ghi nhận là ước tính hợp lý nhất về khoản tiền cần chi để thanh toán nghĩa vụ nợ tại thời điểm kết thúc kỳ kế toán Nếu khoản dự phòng phải trả trong kỳ lớn hơn số đã lập trước đó, chênh lệch sẽ được ghi vào chi phí sản xuất, kinh doanh Ngược lại, nếu nhỏ hơn, chênh lệch sẽ được hoàn nhập và ghi giảm chi phí Việc ước tính mức dự phòng cho phép quản lý sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp, nhưng cũng có thể tạo cơ hội cho việc tác động đến chi phí và thu nhập của doanh nghiệp nhằm phục vụ mục tiêu định trước.
2.4.6 Việc ước tính tỷ lệ hoàn thành và ghi nhận doanh thu, chi phí đối với hợp đồng dài hạn
Trong các doanh nghiệp xây lắp, việc xác định doanh thu và chi phí có những đặc thù riêng Doanh thu hợp đồng xây dựng được ghi nhận dựa vào cách thức thanh toán: theo tiến độ kế hoạch hoặc theo giá trị khối lượng thực hiện Nếu thanh toán theo khối lượng thực hiện, doanh thu sẽ được ghi nhận khi kết quả thực hiện được xác nhận bởi khách hàng Ngược lại, nếu thanh toán theo tiến độ, doanh thu sẽ phản ánh phần công việc đã hoàn thành được ước tính tại thời điểm lập báo cáo tài chính Theo Chuẩn mực hợp đồng xây dựng (VAS 15), phần công việc hoàn thành có thể được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào bản chất của hợp đồng Điều này cho phép doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính toán phù hợp, ảnh hưởng đến giá trị doanh thu dựa trên các căn cứ khác nhau và sự xét đoán của nhà quản lý.
Tổng quan về Thông tư 200/2014/TT-BTC
Vào ngày 22/12/2014, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 200/2014/TT-BTC, thay thế Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 về chế độ kế toán doanh nghiệp Thông tư này quy định các nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính, có hiệu lực áp dụng từ năm 2015.
Thông tư 200/2014/TT-BTC đã đưa ra một số thay đổi quan trọng, ảnh hưởng đến việc áp dụng các chính sách kế toán của nhà quản trị Những điều chỉnh này có thể tác động trực tiếp đến quy trình quản lý tài chính và báo cáo kế toán của doanh nghiệp.
2.5.1 Lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho
Theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong bốn phương pháp tính giá hàng xuất kho, bao gồm nhập trước – xuất trước, nhập sau – xuất trước, bình quân gia quyền và thực tế đích danh Tuy nhiên, Thông tư 200/2014/TT-BTC đã giới hạn lựa chọn chỉ còn ba phương pháp: nhập trước – xuất trước, bình quân gia quyền và thực tế đích danh, loại bỏ phương pháp nhập sau – xuất trước Điều này dẫn đến việc doanh nghiệp không còn khả năng sử dụng phương pháp nhập sau – xuất trước như một công cụ để quản trị lợi nhuận.
2.5.2 Ghi nhận doanh thu đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh bất động sản
Thông tư 200/2014/TT-BTC quy định cách ghi nhận doanh thu bất động sản, điều mà Quyết định 15/2006/QĐ-BTC chưa quy định cụ thể Doanh nghiệp đầu tư không được ghi nhận doanh thu từ việc bán bất động sản theo tiến độ xây dựng hoặc theo số tiền thu trước của khách hàng Nếu theo thỏa thuận, doanh thu chỉ được ghi nhận khi hoàn thành và bàn giao phần xây thô cho khách hàng, cho dù khách hàng có quyền hoàn thiện nội thất hoặc chủ đầu tư thực hiện việc này Đối với bất động sản phân lô bán nền, doanh thu được ghi nhận sau khi chuyển giao nền đất cho khách hàng.
Thông tư 200/2014/TT-BTC quy định rõ ràng về điều kiện ghi nhận doanh thu từ bất động sản, yêu cầu doanh thu phải gắn liền với dòng tiền và chi phí thực tế Do đó, doanh nghiệp không được phép sử dụng ước tính tỷ lệ hoàn thành hợp đồng xây dựng để quản trị lợi nhuận.
Thông tư 200/2014/TT-BTC quy định rằng đối với bất động sản đầu tư nắm giữ chờ tăng giá, doanh nghiệp không được trích khấu hao mà phải xác định tổn thất do suy giảm giá trị khi giá trị thị trường thấp hơn giá trị sổ sách Tổn thất này sẽ được ghi nhận vào chi phí, do đó doanh nghiệp không thể ước tính thời gian khấu hao để ghi nhận chi phí mà phải tính toàn bộ vào chi phí ngay lập tức.
2.5.3 Ghi nhận chi phí chiết khấu thương mại, khuyến mãi và giảm giá hàng bán
Theo Thông tư 200/2014/TT-BTC, khi khách hàng nhận hàng khuyến mãi kèm theo điều kiện mua sản phẩm, doanh nghiệp cần phân bổ doanh thu cho cả hàng khuyến mãi và giá trị hàng khuyến mãi vào giá vốn, vì đây là hình thức giảm giá Bên cạnh đó, chi phí chiết khấu thương mại và khuyến mãi theo doanh số không được ghi nhận vào chi phí bán hàng như trước đây, mà phải giảm trực tiếp lên doanh thu gộp hoặc ghi nhận vào các khoản giảm trừ doanh thu tùy từng trường hợp.
Theo Thông tư 200/2014/TT-BTC, khi doanh nghiệp thực hiện giao dịch bán hàng theo chương trình khách hàng truyền thống, họ không ghi nhận toàn bộ giá bán vào doanh thu mà phải ghi nhận doanh thu chưa thực hiện Doanh thu chưa thực hiện này phản ánh giá trị hợp lý của hàng hóa, dịch vụ miễn phí hoặc giảm giá mà doanh nghiệp còn nghĩa vụ thực hiện với khách hàng Phần doanh thu này chỉ được chuyển vào doanh thu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh khi chương trình kết thúc, tức là khi khách hàng không đủ điều kiện để hưởng ưu đãi hoặc khi doanh nghiệp đã hoàn thành việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng đủ điều kiện.
Theo Thông tư 200/2014/TT-BTC, nhà phân phối khuyến mãi hộ nhà sản xuất sẽ chỉ theo dõi số lượng hàng hóa nhận từ nhà sản xuất trong hệ thống quản trị nội bộ mà không ghi nhận vào thu nhập hay các khoản phải trả cho nhà sản xuất như trước đây Nhà phân phối chỉ ghi nhận thu nhập khác cho giá trị hàng khuyến mãi không phải trả lại khi chương trình khuyến mãi kết thúc.
Các quy định này ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu gộp, doanh thu thuần, lợi nhuận gộp và chi phí bán hàng của doanh nghiệp Chúng cũng có khả năng tác động lớn đến chính sách bán hàng, thường dẫn đến việc doanh nghiệp triển khai nhiều chương trình chiết khấu, khuyến mãi và giảm giá cho khách hàng Điều này làm thay đổi cách doanh nghiệp sử dụng chính sách bán hàng như một công cụ quản trị lợi nhuận hiệu quả.
2.5.4 Ghi nhận dự phòng hoàn nguyên môi trường
Thông tư 200/2014/TT-BTC yêu cầu doanh nghiệp phải trích lập dự phòng cho các khoản chi phí hoàn nguyên môi trường, bao gồm chi phí thu dọn và khôi phục mặt bằng Doanh nghiệp có văn phòng hoặc nhà xưởng trên đất thuê cần xem xét việc trích lập dự phòng này nhằm đảm bảo hoàn trả nguyên trạng mặt bằng cho chủ đất khi kết thúc hợp đồng thuê Giá trị dự phòng hoàn nguyên môi trường có thể rất lớn, dẫn đến việc gia tăng đáng kể chi phí trong kỳ, đặc biệt là trong năm tài chính.
Năm 2015, doanh nghiệp lần đầu tiên trích lập dự phòng hoàn nguyên môi trường theo quy định của Thông tư 200/2014/TT-BTC Thông tư này không chỉ rõ việc trích lập có thể thực hiện một lần hay dần dần qua các năm thuê đất Do đó, doanh nghiệp có thể sử dụng khoản dự phòng này như một công cụ quản trị lợi nhuận hiệu quả.
2.5.5 Ghi nhận lãi phải thu từ các khoản cho vay
Thông tư 200/2014/TT-BTC quy định rằng doanh thu từ tiền lãi phải thu chỉ được ghi nhận khi có sự chắc chắn về khả năng thu hồi, và các khoản cho vay cũng như nợ gốc phải thu không được phân loại là quá hạn cần lập dự phòng Do đó, doanh nghiệp có thể sử dụng việc lập dự phòng nợ như một công cụ quản trị lợi nhuận hiệu quả.
2.5.6 Ghi nhận lãi vay đối với nhà thầu xây lắp
Quyết định 15/2006/QĐ-BTC cho phép doanh nghiệp vốn hóa lãi vay đối với nhà thầu xây lắp, tuy nhiên Thông tư 200/2014/TT-BTC lại không cho phép điều này Do đó, doanh nghiệp không thể sử dụng việc vốn hóa lãi vay như một công cụ quản trị lợi nhuận trong lĩnh vực xây dựng.
Việc áp dụng Thông tư 200/2014/TT-BTC có thể tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận thông qua việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho, ghi nhận doanh thu từ hoạt động đầu tư và kinh doanh bất động sản, cũng như ghi nhận chi phí chiết khấu thương mại, khuyến mãi và giảm giá hàng bán Thêm vào đó, Thông tư này còn ảnh hưởng đến việc ghi nhận dự phòng hoàn nguyên môi trường, lãi phải thu từ các khoản cho vay và lãi vay đối với nhà thầu xây lắp.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu và phát triển giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của chế độ kế toán và các yếu tố đặc điểm công ty đến hành vi quản trị lợi nhuận Tác giả đã xây dựng hai mô hình nghiên cứu độc lập: mô hình 1 khám phá tác động của chế độ kế toán, trong khi mô hình 2 xem xét ảnh hưởng của năm yếu tố đặc điểm công ty, bao gồm quy mô công ty, thời gian hoạt động, thời gian niêm yết, loại công ty kiểm toán và tính trì hoãn của báo cáo tài chính.
Mô hình ảnh hưởng của việc áp dụng chế độ kế toán đến hành vi quản trị lợi nhuận được nghiên cứu tại các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa quy định kế toán và các quyết định quản trị tài chính Sự tuân thủ chế độ kế toán không chỉ ảnh hưởng đến báo cáo tài chính mà còn định hình cách thức các công ty quản lý lợi nhuận, từ đó tác động đến hiệu quả hoạt động và sự minh bạch trong kinh doanh.
(Nguồn: tác giả xây dựng mô hình)
Vận dụng chế độ kế toán
VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN
Mô hình các nhân tố về đặc điểm công ty ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán cho thấy sự tương tác giữa các yếu tố nội tại và hành vi tài chính Các đặc điểm như quy mô công ty, ngành nghề hoạt động và cấu trúc quản lý có thể tác động mạnh mẽ đến quyết định quản trị lợi nhuận Hiểu rõ các nhân tố này giúp các nhà đầu tư và quản lý đưa ra chiến lược phù hợp nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh và tăng cường giá trị cổ phiếu.
(Nguồn: tác giả xây dựng mô hình)
3.1.2 Phát triển giả thuyết nghiên cứu 3.1.2.1 Vận dụng chế độ kế toán
Theo VAS 21, khi lập và trình bày báo cáo tài chính, doanh nghiệp cần lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành Việc thay đổi chế độ kế toán có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán của doanh nghiệp.
Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2016) cho rằng doanh nghiệp có thể sử dụng việc thay đổi các chính sách kế toán để thực hiện quản trị lợi nhuận Sự thay đổi chế độ kế toán sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn và áp dụng các chính sách của doanh nghiệp, từ đó tác động đến quản trị lợi nhuận của các nhà quản trị Do đó, việc áp dụng Thông tư 200/2014/TT-BTC về chế độ kế toán mới là rất quan trọng.
Thời gian hoạt động của công ty
Thời gian niêm yết của công ty
Loại công ty kiểm toán
Tính trì hoãn của báo cáo tài chính
Quản trị lợi nhuận có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của các nhà quản trị tại các công ty niêm yết ở Việt Nam Thông tư số 200/2014/TT-BTC đã đưa ra nhiều điểm mới so với Quyết định 15/2006/QĐ-BTC, như việc loại bỏ phương pháp nhập sau xuất trước trong tính giá hàng xuất kho và không cho phép vốn hóa lãi vay đối với nhà thầu xây lắp Nghiên cứu này đặt ra giả thuyết về những ảnh hưởng này.
Giả thuyết H1: Các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội có mức độ quản trị lợi nhuận trong năm 2015 ít hơn năm 2014
Các công ty lớn thường có kỳ vọng lợi nhuận cao hơn, dẫn đến xu hướng quản trị lợi nhuận để đáp ứng mong đợi của nhà đầu tư Các nhà quản trị tại những công ty này thường là những người có kinh nghiệm và kỹ năng, giúp họ linh hoạt trong việc áp dụng các chính sách kế toán hiện hành Do đó, quy mô công ty càng lớn thì khả năng quản trị lợi nhuận càng cao Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Uyên (2014) và Phan Thị Thanh Trang (2015) cũng xác nhận mối quan hệ tích cực giữa quy mô công ty và hành vi quản trị lợi nhuận.
Giả thuyết H2: Công ty có quy mô càng lớn thì mức độ quản trị lợi nhuận càng cao
3.1.2.3 Thời gian hoạt động của công ty
Theo nghiên cứu của Ahmad–Zaluki và các cộng sự (2011), thời gian hoạt động của công ty có ảnh hưởng ngược lại đến hành vi quản trị lợi nhuận Cụ thể, các công ty hoạt động lâu dài thường ổn định và đã tạo dựng được uy tín với nhà đầu tư, do đó việc quản trị lợi nhuận trở nên không cần thiết Ngược lại, các công ty mới thành lập, chưa ổn định và chưa được nhà đầu tư đánh giá đầy đủ, có xu hướng tăng lợi nhuận để thu hút sự chú ý của nhà đầu tư Tóm lại, thời gian hoạt động dài của công ty làm giảm xu hướng quản trị lợi nhuận.
Giả thuyết H3: Công ty có thời gian hoạt động càng dài thì mức độ quản trị lợi nhuận càng thấp
3.1.2.4 Thời gian niêm yết của công ty
Thời gian niêm yết của công ty có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi quản trị lợi nhuận Các công ty đã niêm yết lâu dài thường không cần thực hiện các biện pháp quản trị lợi nhuận, vì nhà đầu tư đã có cái nhìn rõ ràng về hoạt động của họ Ngược lại, các công ty mới niêm yết có thể có xu hướng tăng lợi nhuận để thu hút sự chú ý của nhà đầu tư, do chưa có cái nhìn tổng quan về công ty Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) cũng chỉ ra rằng, với thời gian niêm yết dài hơn, hành vi quản trị lợi nhuận sẽ giảm đi Từ đó, giả thuyết được đặt ra là: thời gian niêm yết càng lâu thì hành vi quản trị lợi nhuận càng giảm.
Giả thuyết H4: Công ty có thời gian niêm yết càng dài thì mức độ quản trị lợi nhuận càng thấp
3.1.2.5 Loại công ty kiểm toán
Báo cáo tài chính do công ty tự lập và phát hành mà không có bên thứ ba kiểm tra có thể bị nghi ngờ về độ tin cậy Do đó, người sử dụng thông tin cần một bên kiểm toán độc lập để xác minh tính trung thực và hợp lý của báo cáo, đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực và quy định hiện hành Công ty kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin của người sử dụng và nâng cao giá trị thông tin tài chính Kiểm toán không chỉ tăng cường độ tin cậy mà còn giảm thiểu xung đột giữa cơ quan quản lý và các cổ đông bên ngoài.
Mặc dù báo cáo tài chính kiểm toán thường được coi là đáng tin cậy, nhưng không phải lúc nào cũng vậy, đặc biệt khi được kiểm toán bởi các công ty có chất lượng kém Nếu các kiểm toán viên không phát hiện ra sai sót hoặc gian lận, họ có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, dẫn đến việc báo cáo tài chính không phản ánh đúng tình hình thực tế của công ty Chất lượng của công ty kiểm toán và trình độ của kiểm toán viên ảnh hưởng lớn đến độ tin cậy của báo cáo tài chính Khi được kiểm toán bởi những chuyên gia có kinh nghiệm, các nhà quản trị có xu hướng hạn chế việc sử dụng các thủ thuật quản trị lợi nhuận, do lo ngại rằng hành vi của họ sẽ bị phát hiện Nhiều nghiên cứu, bao gồm các công trình của Becker (1998), Ahmad-Zaluki (2011), Dwi Lusi Tyasing Swastika (2013), Trần Thị Mỹ Tú (2014) và Phan Thị Thanh Trang, đã chỉ ra rằng mức độ quản trị lợi nhuận tỉ lệ nghịch với chất lượng công ty kiểm toán.
(2015) Theo đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết:
Giả thuyết H5: Công ty được kiểm toán bởi các công ty Big4 thì mức độ quản trị lợi nhuận thấp hơn khi không được kiểm toán bởi Big4
3.1.2.6 Tính trì hoãn của báo cáo tài chính
Tính trì hoãn của báo cáo tài chính là khoảng thời gian giữa ngày ký báo cáo kiểm toán và ngày kết thúc niên độ kế toán Thời gian trì hoãn càng dài, các đối tượng sử dụng thông tin càng lo ngại về tính trung thực của báo cáo tài chính, đặc biệt là chỉ tiêu lợi nhuận Điều này dẫn đến việc các công ty trở nên dè dặt hơn trong quản trị lợi nhuận Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng
Giả thuyết H6: Công ty có tính trì hoãn báo cáo tài chính càng dài thì mức độ quản trị lợi nhuận càng thấp.
Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm giải quyết bốn vấn đề chính liên quan đến hành vi quản trị lợi nhuận Thứ nhất, tổng quan lý thuyết về hành vi quản trị lợi nhuận, nhằm xác định các khe hổng nghiên cứu từ các công trình trước Thứ hai, đo lường hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2014-2015, nhằm nhận diện sự thay đổi trước và sau khi áp dụng Thông tư 200/2014/TT-BTC Thứ ba, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận, tập trung vào đặc điểm công ty Cuối cùng, đề xuất các kiến nghị cho các bên liên quan, nhằm hỗ trợ trong việc ra quyết định và giảm thiểu hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết.
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để hệ thống hóa các lý thuyết nền tảng và phân tích các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến hành vi quản trị lợi nhuận Mục tiêu là xác định khe hổng nghiên cứu và lựa chọn mô hình đo lường hành vi quản trị lợi nhuận cho luận văn Sau khi xây dựng mô hình nghiên cứu với 6 nhân tố tác động, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu và kiểm định các giả thuyết đã đề ra.
Dựa vào phương pháp nghiên cứu, tác giả đưa ra quy trình nghiên cứu như hình 3.3
Bước đầu tiên trong nghiên cứu là hệ thống và phân tích các nghiên cứu trước đây cùng với các lý thuyết nền tảng liên quan đến hành vi quản lý lợi nhuận Qua đó, tác giả xác định các khe hổng trong nghiên cứu và đề xuất một mô hình nghiên cứu mới.
Bước 2: Tiến hành thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu qua 2 giai đoạn để kiểm định các giả thuyết đặt ra Cụ thể:
Bước 2.1: Tiến hành phân tích hồi quy giai đoạn 1 để đo lường hành vi quản trị lợi nhuận thông qua mô hình Modified Jones
Bước 2.2: Tiến hành kiểm định T-test để kiểm định giả thuyết
H1: Các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội có hành vi quản trị lợi nhuận trong năm 2015 ít hơn năm 2014
Hình 3.3 Quy trình nghiên cứu
(Nguồn: tác giả xây dựng quy trình)
Bước 2.3: Thực hiện phân tích thống kê nhằm mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu nhân tố, tiếp theo là phân tích hồi quy giai đoạn 2 để kiểm định các giả thuyết về mối quan hệ giữa các nhân tố liên quan.
Phân tích và bàn luận kết quả
Phân tích hồi quy giai đoạn 1
Các nghiên cứu trước đây và cơ sở lý thuyết
Phân tích hồi quy giai đoạn 2 Đo lường hành vi quản trị lợi nhuận theo mô hình Modified Jones
Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu nhân tố
Kiểm định các giả thuyết về mối quan hệ giữa các nhân tố và hành vi quản trị lợi nhuận
Phân tích, bàn luận kết quả, trên cơ sở đó đưa ra một số góp ý cho các đối tượng liên quan
Kiểm định T-test kiểm định giả thuyết H1 về việc áp dụng thông tư 200/2014/TT-BTC đặc điểm công ty và hành vi quản trị lợi nhuận
Bước 3: Dựa trên các kết quả nghiên cứu từ bước 2, tác giả tiến hành phân tích và thảo luận về những kết quả này, đồng thời đưa ra một số kiến nghị cho các đối tượng sử dụng thông tin và các cơ quan liên quan.
Mô hình hồi quy
3.3.1 Mô hình đo lường hành vi quản trị lợi nhuận – Mô hình Modified Jones – Mô hình hồi quy giai đoạn 1
Theo mô hình Modified Jones của Dechow và các cộng sự (1995):
Biến kế toán dồn tích điều chỉnh phản ánh hành vi quản trị lợi nhuận, không thể đo lường trực tiếp mà cần thông qua việc đánh giá biến kế toán dồn tích không điều chỉnh Đây là phần chênh lệch giữa tổng biến kế toán dồn tích và biến kế toán dồn tích không điều chỉnh.
𝐷𝐴 𝑖𝑡 = 𝑇𝐴 𝑖𝑡 − 𝑁𝐷𝐴 𝑖𝑡 (1) Chia cả hai vế phương trình (*) cho 𝐴 𝑖𝑡−1 , ta có:
𝐷𝐴 𝑖𝑡 = Biến kế toán dồn tích điều chỉnh công ty i trong năm 𝑡
𝑁𝐷𝐴 𝑖𝑡 = Biến kế toán dồn tích không điều chỉnh công ty i trong năm 𝑡
𝑇𝐴 𝑖𝑡 = Tổng biến kế toán dồn tích công ty i trong năm 𝑡
A it−1 = Tổng tài sản công ty i cuối năm t − 1
- Biến kế toán dồn tích không điều chỉnh trong năm sự kiện được đo lường với công thức sau:
∆𝑅𝐸𝑉 𝑖𝑡 = Doanh thu thuần năm 𝑡 trừ doanh thu thuần năm 𝑡 − 1, được chuẩn hóa bởi tổng tài sản cuối năm 𝑡 − 1 của công ty i
∆𝑅𝐸𝐶 𝑖𝑡 = Nợ phải thu thuần năm 𝑡 trừ nợ phải thu thuần năm 𝑡 − 1, được chuẩn hóa bởi tổng tài sản cuối năm 𝑡 − 1 của công ty i
𝑃𝑃𝐸 𝑖𝑡 = Nguyên giá tài sản cố định công ty i trong năm 𝑡 được chuẩn hóa bởi tổng tài sản cuối năm 𝑡 − 1
𝛼 1 , 𝛼 2 , 𝛼 3 = Các hệ số cho biết mức độ tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc và được ước tính bằng cách sử dụng mô hình sau:
𝑎 1 , 𝑎 2 , 𝑎 3 = Ước lượng của các hệ số 𝛼 1 , 𝛼 2 , 𝛼 3
Như vậy, theo mô hình Modified Jones, để đo lường hành vi quản trị lợi nhuận, tác giả thực hiện các bước như sau:
Bước 1: Tính tổng biến kế toán dồn tích là chênh lệch giữa lợi nhuận sau thuế và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
TA = Lợi nhuận sau thuế - Dòng tiền từ HĐKD
Bước 3: Hồi quy phương trình (3) và tính được các hệ số 𝑎 1 , 𝑎, 𝑎 3 là các ước lượng của các hệ số 𝛼 1 , 𝛼 2 , 𝛼 3 trong phương trình (2)
Bước 4: Thay các hệ số 𝛼 1 , 𝛼 2 , 𝛼 3 vào phương trình (2), tính được 𝑁𝐷𝐴 𝑖𝑡
𝐴 𝑖𝑡−1 tính được ở bước 4 vào phương trình (1*) để tính 𝐴 𝐷𝐴 𝑖𝑡
Biến kế toán dồn tích có điều chỉnh bằng 0 cho thấy công ty không thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận, trong khi khác 0 cho thấy có hành vi này Nếu biến này có giá trị âm, công ty thực hiện quản trị giảm lợi nhuận; nếu có giá trị dương, công ty thực hiện quản trị tăng lợi nhuận Để đại diện cho hành vi quản trị lợi nhuận, biến kế toán dồn tích có điều chỉnh sẽ được lấy trị tuyệt đối, vì cả hai hành vi quản trị tăng và giảm lợi nhuận đều phản ánh quản trị lợi nhuận, và nghiên cứu chỉ tập trung vào độ lớn của hành vi này.
3.3.2 Mô hình nghiên cứu các nhân tố - Mô hình hồi quy giai đoạn 2
Tác giả sẽ nghiên cứu mối quan hệ giữa hành vi quản trị lợi nhuận năm 2015 và các yếu tố thị trường, bao gồm quy mô công ty, thời gian hoạt động, thời gian niêm yết, loại công ty kiểm toán và tính trì hoãn của báo cáo tài chính Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng mô hình hồi quy các nhân tố liên quan.
DA: Hành vi quản trị lợi nhuận của công ty năm 2015 SIZE: Quy mô công ty
TIME_A: Thời gian hoạt động của công ty TIME_L: Thời gian niêm yết của công ty AUDIT: Loại công ty kiểm toán
DELAY: Tính trì hoãn của báo cáo tài chính ε : sai số Thông tin về các biến độc lập được thể hiện chi tiết trong bảng sau:
Bảng 3.1 Mô tả các biến độc lập
STT Tên biến Ký hiệu Đo lường Kỳ vọng
1 Quy mô công ty SIZE Logarit của tổng tài sản +
2 Thời gian hoạt động của công ty TIME_A Số năm tính từ ngày thành lập công ty -
3 Thời gian niêm yết của công ty TIME_L Số năm tính từ ngày niêm yết -
4 Loại công ty kiểm toán AUDIT
Nhận giá trị “1” nếu thuộc Big 4, còn lại nhận giá trị “0”
Số ngày tính từ ngày kết thúc niên độ đến ngày ký BCKT
Chọn mẫu và thu thập dữ liệu
3.4.1.1 Vài nét về Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, dựa trên việc chuyển đổi Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội, đã được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và chính thức hoạt động từ ngày 08/03/2005 Vào ngày 24/06/2009, HNX chính thức ra mắt với mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, trong đó Nhà nước, đại diện là Bộ Tài chính, là chủ sở hữu.
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều hành thị trường giao dịch chứng khoán, bao gồm tổ chức đấu giá cổ phần, đấu thầu trái phiếu Chính phủ và huy động vốn cho ngân sách Nhà nước Đồng thời, Sở cũng vận hành ba thị trường giao dịch thứ cấp, bao gồm thị trường cổ phiếu niêm yết, thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt và thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM), tất cả trên nền tảng công nghệ hiện đại.
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội nhằm tổ chức và vận hành một thị trường giao dịch chứng khoán minh bạch, công bằng và hiệu quả Mục tiêu của Sở là phát triển hạ tầng cơ sở và các sản phẩm mới để phục vụ thị trường, đồng thời tăng cường thu hút đầu tư trong và ngoài nước Sở giao dịch cũng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế, đảm bảo lợi ích cao nhất cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia thị trường.
Kể từ khi thành lập, thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết tại HNX đã trải qua nhiều thăng trầm và biến động, đồng hành cùng sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam Từ chỉ 9 doanh nghiệp niêm yết vào năm 2005, đến giữa năm 2016, HNX đã thu hút 377 doanh nghiệp niêm yết Những con số này cho thấy HNX đã trở thành một địa chỉ tin cậy cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn.
Do đặc thù riêng biệt của các công ty tài chính, chúng sẽ bị loại trong quá trình chọn mẫu nghiên cứu Dữ liệu được sử dụng là báo cáo tài chính của các công ty niêm yết nhằm đo lường hành vi quản trị lợi nhuận trong hai năm 2014 và 2015 theo mô hình Modifide Jones (1995) Việc thu thập số liệu từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên trong hai năm này là cần thiết; do đó, những công ty niêm yết có dữ liệu không đầy đủ sẽ bị loại khỏi mẫu Cuối cùng, tác giả chỉ lựa chọn các công ty phi tài chính niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, đảm bảo có thể thu thập đầy đủ số liệu trong hai năm 2014 và 2015.
3.4.1.3 Kích thước mẫu Đối với phân tích hồi quy đa biến, cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công thức là 50 + 8*m (m: số biến độc lập) (Tabachnick và Fidell,
Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng mô hình đo lường Modifide Jones (1995) với ba biến độc lập, do đó kích thước mẫu tối thiểu cần thiết là n = 74 Mô hình nghiên cứu này sẽ giúp xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
5 nhân tố tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận, nên kích thước mẫu tối thiểu tương ứng là n = 90 Như vậy, kích thước mẫu tối thiểu sẽ là n = 90
Tính đến tháng 6 năm 2016, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã niêm yết tổng cộng 377 công ty, trong đó có 22 công ty hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính và bảo hiểm Trong số 355 công ty không thuộc nhóm ngành này, tác giả gặp khó khăn trong việc thu thập dữ liệu của 49 công ty Cuối cùng, tác giả đã chọn 153 công ty từ 306 công ty còn lại để làm mẫu nghiên cứu, đảm bảo thỏa mãn kích thước mẫu tối thiểu.
Dữ liệu sẽ được thu thập từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại Việt Nam trong các năm 2014-2015, bao gồm lợi nhuận sau thuế, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, doanh thu thuần, tổng tài sản, nợ phải thu thuần và nguyên giá tài sản cố định Mục tiêu là tính giá trị cho các biến trong mô hình đo lường hành vi quản trị lợi nhuận Ngoài ra, thông tin từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên năm 2015 sẽ được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố như công ty kiểm toán, thời gian hoạt động và niêm yết của công ty, quy mô công ty và tính trì hoãn của báo cáo tài chính với hành vi quản trị lợi nhuận.
Phân tích dữ liệu
Dữ liệu thu thập sẽ được mã hóa và nhập vào phần mềm Eview6 để xử lý thống kê Tác giả sử dụng hồi quy cho từng năm trong mô hình đo lường hành vi quản trị lợi nhuận và thực hiện hồi quy dữ liệu cho năm 2015, thiết kế dữ liệu theo dạng dữ liệu chéo nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến hành vi quản trị lợi nhuận.
3.5.1 Phân tích thống kê mô tả:
Thống kê mô tả được áp dụng để thể hiện các đặc điểm cơ bản của dữ liệu thông qua các chỉ số như số trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung sử dụng thống kê mô tả cho các biến trong mô hình nghiên cứu các nhân tố, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quát về thực trạng quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết.
3.5.2 Phân tích tương quan và phân tích hồi quy
Trước khi thực hiện phân tích hồi quy, tác giả đã tiến hành phân tích tương quan để khảo sát mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập Mặc dù kết quả không xác định được mối quan hệ nhân quả, nhưng nó cung cấp nền tảng cho phân tích hồi quy Sự tương quan cao giữa các biến cho thấy có thể tồn tại mối quan hệ tiềm ẩn Ngoài ra, phân tích tương quan còn giúp phát hiện các vi phạm giả định của hồi quy tuyến tính, như hiện tượng đa cộng tuyến khi các biến độc lập có tương quan mạnh với nhau.
Tác giả đã thực hiện phân tích hồi quy bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) và kiểm định các giả định của mô hình hồi quy, bao gồm tính tuyến tính giữa các biến, sai số ngẫu nhiên với giá trị trung bình bằng 0, phương sai không đổi, không có tự tương quan và không có đa cộng tuyến, cùng với phân phối chuẩn của sai số Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, giả định về phương sai không đổi đã bị vi phạm Để khắc phục hiện tượng này, tác giả đã áp dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS) có trọng số và tiến hành kiểm định lại để xác định xem vấn đề phương sai thay đổi đã được giải quyết hay chưa.
Cụ thể, tác giả sẽ tiến hành phân tích tương quan và phân tích hồi quy qua các bước sau:
Bước 1: Tiến hành phân tích tương quan
Bước 2: Tiến hành hồi quy theo mô hình OLS
Bước 3: Xem xét giá trị trung bình của các sai số thông qua việc thống kê mô tả phần dư
Bước 4: Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư kiểm định
Jarque_Bera với giả thiết H0 cho rằng phần dư có phân phối chuẩn
Bước 5: Thực hiện kiểm định Breusch-Godfrey để xác định hiện tượng tự tương quan, với giả thuyết H0 cho rằng mô hình hồi quy không có hiện tượng tự tương quan.
Bước 6: Thực hiện kiểm định Breush-Pagan để xác định hiện tượng phương sai thay đổi, với giả thiết H0 cho rằng mô hình hồi quy không có hiện tượng phương sai thay đổi.
Bước 7: Để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, cần phân tích ma trận tương quan và hệ số khếch đại phương sai (VIF) Nếu hệ số tương quan giữa các biến vượt quá 0.8, điều này cho thấy các biến có mối tương quan cao Ngoài ra, nếu hệ số VIF lớn hơn 10, mô hình sẽ gặp phải hiện tượng đa cộng tuyến.
Bước 8: Thực hiện hồi quy bằng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS) có trọng số nhằm khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi.
Bước 9: Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi trong hàm hồi quy bằng phương pháp FGLS nhằm xác định xem hiện tượng này đã được khắc phục hay chưa Sử dụng kiểm định Breusch-Pagan với giả thuyết H0 cho rằng không có hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy.
Dựa trên lý thuyết về hành vi quản trị lợi nhuận và tổng quan nghiên cứu, tác giả phát triển các giả thuyết từ nghiên cứu trước đó và trình bày phương pháp nghiên cứu để kiểm định các giả thuyết này.
Trong chương 3, tác giả đã đề xuất 6 giả thuyết cần kiểm định, bao gồm 1 giả thuyết về mức độ quản trị lợi nhuận khi thay đổi chế độ kế toán và 5 giả thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa hành vi quản trị lợi nhuận với các yếu tố như quy mô công ty, thời gian hoạt động, thời gian niêm yết, loại công ty kiểm toán và tính trì hoãn của báo cáo tài chính Tác giả cũng trình bày mô hình đo lường hành vi quản trị lợi nhuận, mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, cùng với phương pháp chọn mẫu, thu thập và phân tích dữ liệu Nghiên cứu sẽ áp dụng dữ liệu chéo, sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phân tích hồi quy để đưa ra kết quả nghiên cứu.