CƠ SỞ LÝ LU Ậ N C Ủ A VI Ệ C HOÀN THI Ệ N PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Khái ni ệ m, vai trò c ủ a pháp lu ậ t v ề phòng, ch ống tham nhũng
1.1.1 Khái niệm pháp luật về phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội phổ biến, có mối liên hệ chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước Về lý thuyết, tham nhũng không thể tách rời khỏi các cơ quan quản lý và cai trị Đây được xem là căn bệnh đặc trưng của mọi quốc gia.
Khuyết tật bẩm sinh của quyền lực là một căn bệnh khó có thể tránh khỏi hoặc chữa trị triệt để trong các chế độ Hình thức, tính chất, mức độ và phương thức tham nhũng sẽ khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội.
Tham nhũng là hiện tượng không thể chối cãi, gây ra nhiều tác hại cho nhà nước và xã hội Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có định nghĩa chính thức và phổ biến về tham nhũng trên toàn cầu Thuật ngữ "tham nhũng" (corruption) có nguồn gốc từ động từ La-tinh "corruptus", mang nghĩa lạm dụng, phá hoại và vi phạm.
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI) định nghĩa tham nhũng là hành vi vi phạm của công chức trong khu vực công, bao gồm cả chính trị gia và công chức dân sự Hành vi này liên quan đến việc làm giàu không đúng đắn hoặc bất hợp pháp cho bản thân hoặc cho người thân thông qua việc lạm dụng quyền lực công đã được giao.
Ngân hàng thế giới (World Bank –WB) đưa ra định nghĩa khá giản dị,
5 ngắn gọn về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi lạm dụng quyền lực công để thu lợi ích riêng” 1
Định nghĩa về tham nhũng của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đều nổi bật nhờ sự rõ ràng, cô đọng và súc tích, đồng thời đều tập trung vào việc nhìn nhận tham nhũng trong khu vực công.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), các định nghĩa hiện tại chưa chú trọng đầy đủ đến tham nhũng trong khu vực tư nhân và tác động của việc chống tham nhũng trong khu vực này đối với cuộc chiến chống tham nhũng ở khu vực công Do đó, ADB đã đề xuất hai định nghĩa mới, dựa trên việc sửa đổi và bổ sung các định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB).
Tham nhũng được định nghĩa là sự lạm dụng quyền lực công hoặc tư để thu lợi riêng Theo định nghĩa toàn diện hơn, tham nhũng là hành động lạm dụng chức vụ nhằm làm giàu bất chính cho bản thân hoặc người thân của những nhân viên trong cả khu vực công và tư, hoặc tạo điều kiện cho người khác thực hiện hành vi tương tự Tại Việt Nam, Luật Phòng, Chống Tham Nhũng năm 2018 xác định tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì mục đích vụ lợi.
Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 3, "Người có chức vụ, quyền hạn" được định nghĩa là những cá nhân được bổ nhiệm, bầu cử, tuyển dụng, ký hợp đồng hoặc thông qua hình thức khác, có thể nhận lương hoặc không, và được giao nhiệm vụ, công vụ cụ thể với quyền hạn nhất định Đối tượng này bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, cũng như sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân.
1 World Bank 1997, Helping Countries Combat Corruption: The Role of the World Bank, Washington DC, tr.8
Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Chu Hồng Thanh và Vũ Công Giao (2013) đã biên soạn giáo trình "Lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng", xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 33.
Bài viết đề cập đến các đối tượng thuộc lực lượng Công an nhân dân, bao gồm 6 sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị; người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; và những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ với quyền hạn tương ứng.
Luật PCTN 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh tham nhũng sang khu vực tư, bao gồm cả những người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp và tổ chức Đây là một trong những điểm mới nổi bật so với Luật PCTN 2005, vốn chỉ tập trung vào tham nhũng trong khu vực công và đưa ra định nghĩa về tham nhũng cơ bản tương thích với các định nghĩa quốc tế.
Luật Phòng, Chống Tham Nhũng (PCTN) năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, phù hợp với định nghĩa của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), nhằm nhìn nhận và điều chỉnh vấn đề tham nhũng một cách toàn diện hơn Đặc biệt, luật này đã bao gồm cả khu vực ngoài nhà nước, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ trong việc ngăn chặn và xử lý tham nhũng.
Tham nhũng được định nghĩa qua nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả đều thống nhất rằng đây là sự lợi dụng quyền lực (công, công cộng, của chung) để thu lợi ích, cả vật chất lẫn phi vật chất Hai yếu tố chính của tham nhũng là quyền lực và lợi ích kinh tế.
Năm 1887, nhà sử học người Anh Lord John Acton đã chỉ ra mối liên hệ giữa quyền lực và sự tha hóa, nhấn mạnh rằng "Quyền lực dẫn tới sự tha hóa" và "Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự tha hóa tuyệt đối" Nhận định này phản ánh một thực tế rằng sự tha hóa của quyền lực không chỉ đơn thuần là vấn đề cá nhân mà còn liên quan đến cấu trúc xã hội và chính trị.
Trong tác phẩm "Hiến pháp và cuộc chiến chống tham nhũng" của Nguyễn Đăng Dung và Vũ Công Giao (2012), được xuất bản trong cuốn "Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 – Những vấn đề lý luận và thực tiễn", các tác giả đã phân tích mối liên hệ giữa hiến pháp và công cuộc chống tham nhũng tại Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sửa đổi hiến pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và bảo vệ quyền lợi của người dân.
Khái ni ệ m và các tiêu chí hoàn thi ệ n pháp lu ậ t v ề phòng, ch ố ng tham n hũng 22 1 Khái ni ệ m hoàn thi ệ n pháp lu ậ t v ề phòng, ch ống tham nhũng
Các quan hệ xã hội luôn thay đổi, yêu cầu pháp luật cũng cần điều chỉnh để phù hợp, vì vậy việc hoàn thiện pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên của mọi nhà nước Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng (PCTN), các hành vi tham nhũng ngày càng đa dạng, tinh vi và khó phát hiện, đòi hỏi pháp luật về PCTN cần thay đổi kịp thời để điều chỉnh các quan hệ phát sinh Nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về PCTN là nhu cầu thiết yếu của các quốc gia, cần đảm bảo các tiêu chuẩn và yêu cầu nhất định.
Pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) cần phải điều chỉnh hiệu quả các quan hệ liên quan đến tham nhũng trong thực tiễn Do đó, các quy phạm pháp luật về PCTN được ban hành, sửa đổi và bổ sung phải dựa trên những yêu cầu khách quan và phù hợp với tình hình thực tế.
23 với quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước và phát huy được hiệu lực, hiệu quả trong công tác PCTN
Dựa trên kết quả nghiên cứu về tình hình tham nhũng và pháp luật về phòng, chống tham nhũng (PCTN), các cơ quan chức năng đã đưa ra những dự báo về hành vi tham nhũng có thể xảy ra Điều này nhằm xác định phương hướng và giải pháp cụ thể trong việc hoàn thiện pháp luật về PCTN Cần thiết phải xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu, hủy bỏ những quy định không phù hợp, và sửa đổi các quy định chưa thực sự hiệu quả Mục tiêu là phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng, đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng đã xảy ra Chỉ khi đó, pháp luật mới có thể góp phần hiệu quả vào việc ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng.
Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) là quá trình nâng cao tính minh bạch, toàn diện và thống nhất của các quy định pháp luật, đồng thời đảm bảo sự đồng bộ và phù hợp với thực tiễn PCTN tại Việt Nam.
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là mục tiêu chung mà mọi Nhà nước hướng tới Để đánh giá và xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cần dựa vào các tiêu chuẩn lý thuyết và liên hệ với điều kiện thực tiễn ở từng giai đoạn cụ thể Qua đó, có thể rút ra kết luận và tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật.
Đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cần dựa vào các tiêu chí cơ bản như tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, hiệu quả và trình độ kỹ thuật pháp lý Đặc biệt, khi xem xét hệ thống pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN), việc áp dụng những tiêu chí này là rất quan trọng để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định pháp luật.
Pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) cần đảm bảo tính minh bạch với các quy định rõ ràng, cụ thể, tránh sự mập mờ gây khó khăn trong nhận thức và áp dụng Các văn bản pháp luật phải được công bố công khai từ giai đoạn xây dựng đến khi ban hành, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức và cá nhân nắm rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong công tác PCTN Điều này cũng giúp các cơ quan nhà nước dễ dàng rà soát, hạn chế chồng chéo và mâu thuẫn trong các quy định liên quan đến PCTN.
Pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) cần đảm bảo tính toàn diện, phản ánh mức độ đầy đủ của hệ thống quy phạm, nguyên tắc và mục đích pháp lý Các quy định pháp luật phải đáp ứng cả về hình thức lẫn nội dung, điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến PCTN, đặc biệt trong việc xác định hành vi tham nhũng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng Mọi hành vi tham nhũng xảy ra đều phải được căn cứ vào các quy định hiện hành để áp dụng và điều chỉnh một cách hiệu quả.
Thứ ba, pháp luật về PCTN phải đảm bảo tính nhất quán, tính hệ thống
Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành hoặc sửa đổi cần đảm bảo sự thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng (PCTN) Điều này nhằm tránh mâu thuẫn và chồng chéo với các văn bản pháp luật khác, nhất là những văn bản đang có hiệu lực Đồng thời, cần duy trì sự đồng nhất giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một văn bản về PCTN.
Các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng (PCTN) cần đảm bảo tính thứ bậc giữa các quy định, không được mâu thuẫn với các quy định khác trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp.
25 đạo luật, cùng với Hiến pháp, không chỉ là cơ sở pháp lý mà còn là nguồn tài liệu quan trọng để nghiên cứu và xây dựng hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng (PCTN).
Pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) cần đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác Các quy định trong lĩnh vực PCTN phải có sự liên kết chặt chẽ, không để xảy ra tình trạng thừa, thiếu hoặc sơ hở, nhằm ngăn chặn việc lợi dụng tham nhũng Hơn nữa, các giải pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng cũng cần được đồng bộ hóa để tối ưu hóa hiệu quả trong việc ngăn chặn và giảm thiểu tệ nạn tham nhũng trong thực tế.
Nếu pháp luật về PCTN thiếu sự đồng bộ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong công tác PCTN
Pháp luật về phòng, chống tham nhũng (PCTN) cần phải phù hợp với thực tiễn và dựa trên tình hình thực tế trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng Các quy định pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất nước, đồng thời là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng Hệ thống pháp luật cần được xây dựng dựa trên các quan hệ hiện có, thể chế hóa đường lối của Đảng cầm quyền, bảo đảm tính hợp lý trong việc bảo vệ lợi ích của nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Ngoài ra, các phương pháp điều chỉnh của pháp luật về PCTN cũng cần phù hợp với trình độ phát triển của quốc gia.
Pháp luật về phòng, chống tham nhũng (PCTN) cần được xây dựng dựa trên trình độ kỹ thuật pháp lý cao Hệ thống quy phạm pháp luật về PCTN phải được cấu trúc chặt chẽ, logic và khoa học, phân chia rõ ràng theo chương, mục và điều.
Các khái niệm, định nghĩa và thuật ngữ trong các văn bản quy phạm pháp luật cần phải chính xác, đơn nghĩa và rõ ràng, nhằm đảm bảo tính dễ hiểu và phù hợp với khả năng nhận thức của xã hội Mỗi văn bản quy phạm pháp luật cần có cấu trúc hợp lý, với các bộ phận và quy định có mối liên hệ chặt chẽ và thống nhất nội tại.
S ự c ầ n thi ế t và các y ế u t ố ảnh hưởng đế n vi ệ c hoàn thi ệ n pháp lu ậ t
về phòng, chống tham nhũng
1.3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng Để lý giải sự cần thiết phải HTPL về PCTN thì phải xem xét pháp luật PCTN hiện nay đạt ở mức độ nào và đã đóng góp được những gì cho công tác PCTN thông qua khả năng điều chỉnh của pháp luật đối với thực trạng tham nhũng Điều này thể hiện ở một sốđiểm sau đây:
Pháp luật hiện tại chưa đáp ứng đủ yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, khi mà tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều cấp, địa phương, ngành nghề và lĩnh vực khác nhau.
Nhà nước đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua việc ban hành, sửa đổi và bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật Sự thay đổi này, dù nhỏ hay lớn, sẽ tác động đến các quy định pháp luật hiện hành.
Để đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, các quy định về phòng, chống tham nhũng (PCTN) cần được rà soát và sửa đổi cho phù hợp Thực tế cho thấy, nhiều quy định PCTN chỉ phù hợp với thời điểm ban hành và sau một thời gian, các quy định khác đã thay đổi, dẫn đến yêu cầu điều chỉnh pháp luật về PCTN cho kịp thời.
Pháp luật là sự phản ánh đời sống thực tiễn của đất nước, và thực tiễn này luôn vận động, phát triển không ngừng Do đó, nếu không kịp thời sửa đổi, bổ sung, pháp luật về phòng, chống tham nhũng sẽ không theo kịp thực tiễn, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện chức năng phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng.
Pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) của Việt Nam vẫn còn tồn tại những khoảng cách và thiếu sự tương thích so với các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà nước này đã ký kết hoặc tham gia.
1.3.2 Các yếu tốảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng Để HTPL về PCTN cần phải nghiên cứu những yếu tốảnh hưởng đến nó Trong thực tế, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về PCTN, nhưng các yếu tốảnh hưởng lớn nhất và cơ bản nhất là: cơ chế quản lý kinh tế; cơ chế tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền; ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN; yếu tốvăn hóa, truyền thống dân tộc và hợp tác quốc tế về PCTN
1.3.2.1 Cơ chế quản lý kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế là hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước điều hành nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ xã hội, bao gồm cả tham nhũng Tại Việt Nam, cơ chế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, cho phép các quan hệ kinh tế phát triển linh hoạt qua cạnh tranh tự do, huy động tối đa nguồn lực xã hội và đáp ứng nhu cầu thị trường Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường đã dẫn đến tham nhũng, đặc biệt ở những lĩnh vực pháp luật còn sơ hở và quản lý Nhà nước yếu kém Do đó, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng, cần dự liệu các hành vi tham nhũng có thể phát sinh và xây dựng quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho quan hệ kinh tế phát triển đồng thời phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng hiệu quả.
1.3.2.2 Cơ chế tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
Tham nhũng là việc lạm dụng quyền lực nhà nước vì lợi ích cá nhân, và cách tổ chức quyền lực nhà nước ảnh hưởng lớn đến tình trạng này Các quốc gia theo mô hình phân quyền, với quyền lực được chia sẻ và kiểm soát lẫn nhau, thường giảm thiểu tình trạng lạm quyền, từ đó hạn chế tham nhũng Ngược lại, ở những quốc gia tập quyền, khi quyền lực tập trung vào một nhánh, nguy cơ lạm quyền và tham nhũng gia tăng Do đó, cần thiết kế hệ thống quy định kiểm soát quyền lực phù hợp để hạn chế tham nhũng và đảm bảo phát hiện, xử lý hiệu quả các hành vi tham nhũng.
Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, với mô hình quyền lực nhà nước thống nhất, phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tập trung vào nhân dân Mô hình này đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện một cách dân chủ và hiệu quả, tạo sức mạnh tổng hợp và đồng thuận trong chính sách cũng như biện pháp chống tham nhũng Tuy nhiên, sự tập trung quyền lực cũng gây ra khó khăn trong việc kiểm soát và phát hiện hành vi lợi dụng quyền lực để tham nhũng, khiến cho việc xử lý trở nên phức tạp và không kịp thời.
Để phòng chống tham nhũng (PCTN) hiệu quả trong bối cảnh tổ chức quyền lực nhà nước tập trung, cần có quyết tâm cao và biện pháp kiểm soát quyền lực mạnh mẽ nhằm phát hiện và xử lý lạm dụng quyền lực Quá trình hoàn thiện pháp luật về PCTN cần chú trọng đến việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả và tổ chức các cơ quan đủ năng lực để phát hiện, xử lý hành vi lạm quyền Mọi nhánh quyền lực nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lực đều phải hoạt động công khai, minh bạch, trừ những vấn đề mật quốc gia, để nhân dân và các cơ quan khác có thể giám sát việc thực hiện quyền lực Đồng thời, cần thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quyền lực để phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng quyền lực cho lợi ích cá nhân, từ đó hạn chế tham nhũng và xử lý các hành vi tham nhũng hiệu quả.
1.3.2.3 Chếđộ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền
Trong xã hội hiện đại, mặc dù Nhà nước là cơ quan quản lý, nhưng việc xác định chủ trương, đường lối và quyết định nhân sự cao cấp trong các cơ quan nhà nước phụ thuộc nhiều vào chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền Cơ chế của đảng cầm quyền liên kết chặt chẽ với cách thức vận hành quyền lực nhà nước Mặc dù không trực tiếp quyết định về quản lý nhà nước, đảng cầm quyền thông qua quyền lực chính trị của mình đã chi phối quyền lực nhà nước Qua vai trò lãnh đạo, các thành viên trong đảng cầm quyền thực hiện quyền lực nhà nước một cách gián tiếp, với tính khả thi cao, nhưng cũng không thể tránh khỏi việc lợi dụng quyền lực.
Đảng cầm quyền đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) bằng cách can thiệp vào quá trình thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng Sự quyết tâm và các biện pháp mạnh mẽ từ Đảng là điều kiện cần thiết để nhà nước minh bạch hoạt động và xây dựng cơ chế phòng ngừa hiệu quả Việc xử lý nghiêm minh các vụ việc tham nhũng, không phân biệt vị trí, là cách duy nhất để ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng Ngược lại, nếu Đảng đồng lõa hoặc thờ ơ, tham nhũng sẽ ngày càng trầm trọng hơn Ý chí của Đảng sẽ được thể chế hóa thành pháp luật và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về PCTN Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua các chính sách nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết và chính sách mạnh mẽ trong PCTN, khuyến khích sự tham gia của các cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Luật PCTN và các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, cùng với hệ thống cơ quan chuyên trách PCTN được hình thành, đã thu được kết quả khả quan trong công tác PCTN Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, không tích cực trong đấu tranh PCTN, thậm chí tham gia vào các hoạt động tham nhũng.
Trong quá trình lãnh đạo, một số cấp ủy Đảng chưa chú trọng đúng mức đến công tác phòng chống tham nhũng (PCTN) và thiếu quyết liệt trong việc xử lý các hành vi tham nhũng Kết quả PCTN chưa đạt được toàn diện, một số mặt công tác vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến tình hình tham nhũng có chuyển biến nhưng còn chậm.
1.3.2.4 Ý thức pháp luật của các chủ thể có th m quyền xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng Ý thức pháp luật có 3 nội dung là: sự hiểu biết về pháp luật; thái độ đối với pháp luật và khả năng thực hiện và áp dụng pháp luật Thông qua ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền áp đặt hay tác động đến quá trình xây dựng, HTPL về PCTN hay nói cách khác, cho ra đời những quy định về PCTN thể hiện được những tư tưởng, quan điểm của họ Nếu các chủ thể đó đại diện cho giai cấp tiến bộ thì sẽ có những quy định về PCTN nhằm bảo đảm lợi ích chung cho xã hội mà trước hết là lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong xã hội Ngược lại, nếu các chủ thể đó có tư tưởng lạc hậu, cá nhân chủnghĩa, cộng với thói tham lam, ích kỷ, thì sự tác động của họ vào các quy định của pháp luật về PCTN sẽ có xu hướng thiên lệch để bảo vệ những lợi ích riêng của họ, khi đó, pháp luật PCTN khó có thể trừng phạt thích đáng đối với những k tham nhũng. Ở nước ta, ý thức pháp luật thống trị là ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Cùng với sự phát triển của xã hội Việt Nam, ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ trở thành một hệ thống tư tưởng và quan điểm pháp luật chung thống nhất của toàn xã hội Nhờ vậy mà các quy định của pháp luật về PCTN hướng đến bảo vệ những lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan Các quy định của pháp luật về PCTN đều hướng tới mục tiêu tích cực đó là phòng ngừa, ngăn chặn việc nẩy sinh các hành vi tham nhũng trong xã hội, đồng thời, phát hiện và xử lý kịp thời tham nhũng Ý thức pháp luật là “điều kiện quan trọng để hình thành,