SƠ LƯỢ C V Ề KHÁI NI Ệ M VÀ L Ị CH S Ử HÌNH THÀNH C Ủ A
Định nghĩa
Luật “hồi tỵ” (迴避 hoặc 回避) là quy định pháp lý ở Việt Nam thời quân chủ nhằm hạn chế việc những người có quan hệ gần gũi, đặc biệt trong gia đình, làm việc trong cùng một cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan liên quan Mục tiêu của luật này là ngăn chặn tình trạng bao che, nâng đỡ người thân và lạm dụng quyền lực, từ đó ảnh hưởng đến quản lý địa phương Quy định này cũng được áp dụng trong các kỳ thi tuyển dụng quan lại của triều đình Nho giáo, nhằm loại bỏ hiện tượng kéo bè kết phái và tạo ra môi trường lý tưởng cho tham nhũng.
Nam bắt đầu xuất hiện từđời Hồng Đức (1460 – 1497), học tập những quy định tương tự từ Trung Hoa vốn đã có từ triều đại nhà Tùy
Luật hồi tỵ dưới triều Nguyễn quy định rằng trong một nha môn hoặc một hạt, các thành viên trong gia đình như cha con, anh em không được đảm nhiệm cùng một công việc Nếu chính phủ không biết và bổ nhiệm, các bên liên quan phải tự khai báo để đổi một người đi nơi khác Đặc biệt, trong các kỳ thi tuyển viên chức, nếu có người thân tham gia, họ phải khai báo và xin hồi tỵ, không được nhận làm khảo quan.
1 Nguyễn Sĩ Giác (dịch) (1962), Đại Nam điển lệ toát yếu, Đại học Luật khoa Sài Gòn Xem chú thích Điều 97 “Hồi tỵ”.
Lịch sử hình thành và phát triển
Luật hồi tỵ ra đời do hai nguyên nhân chính: Thứ nhất, sự phát triển của bộ máy nhà nước quan liêu yêu cầu nâng cao hiệu quả và chống tham nhũng; thứ hai, sự hình thành các mối quan hệ xã hội quan trọng như gia đình, dòng tộc và quê hương, gợi ý một cách tiếp cận trong phòng chống tham nhũng bằng cách phân lập và cách ly những mối quan hệ này khỏi các quan hệ công.
1.2.1.1 Sự hình thành và xu thế phát triển của bộ máy nhà nước quan liêu ở Việt Nam
Bộ máy hành chính quan liêu của Việt Nam đã được hình thành và phát triển qua các triều đại quân chủ, phản ánh sự tiến bộ của đất nước Nhu cầu mở rộng và tăng cường khả năng quản lý của triều đình trung ương đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố quyền lực của quân vương, nhằm kiểm soát hiệu quả đất nước.
Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam trong thời kỳ nhà Triệu (khoảng thế kỷ II TCN trở về trước) vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có sự thống nhất giữa các học giả Tuy nhiên, có một số vấn đề đã đạt được sự đồng thuận trong các cuộc thảo luận học thuật, như sự hiện diện của chế độ công xã nông thôn trong thời kỳ Hùng Vương, với các "bộ" do "Lạc tướng" lãnh đạo và một "Hùng Vương" đứng đầu liên minh các bộ lạc Để đối phó với nhu cầu liên kết quần chúng nhằm trị thủy và chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài, cấu trúc sơ khai của một bộ máy nhà nước đã bắt đầu hình thành.
Nguyễn Minh Tuấn (2007) đã trình bày trong bài viết "Nhà nước Văn Lang – Nhà nước siêu làng" trên Tạp chí Khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên san Kinh tế - Luật, rằng Nhà nước Văn Lang là một hình mẫu đặc biệt của nhà nước siêu làng Bài viết có thể được truy cập tại địa chỉ http://tuanhsl.blogspot.com/2007/11/ti-sao-ni-nh-nc-vn-lang-l-nh-nc-siu-lng.html, với ngày truy cập là 29/4/2020.
Bộ máy nhà nước Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng từ thời kỳ Triệu Đà cai trị Sự chấp nhận hay không của nhà Triệu được xem là một phần quan trọng trong lịch sử triều đại quân chủ Việt Nam.
Nam là một thế lực phương Bắc xâm lược, gây tranh cãi trong giới sử học, nhưng việc thiết lập quận huyện của nước Nam Việt trên vùng đất Văn Lang đã cho người Việt trải nghiệm mô hình nhà nước trung ương – địa phương Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất, đặc biệt sau nhà Triệu, đã chứng kiến sự du nhập quan trọng của Nho giáo vào Việt Nam Một số nhân vật người Hán như Tích Quang, Nhâm Diêm và Sĩ Nhiệp đã đóng vai trò then chốt trong việc phát triển Nho giáo tại nước ta Bộ máy nhà nước Việt Nam tiếp tục phát triển dựa trên nền tảng văn hóa Nho giáo cho đến khi Bảo Đại thoái vị năm 1945, đánh dấu sự chấm dứt của nền quân chủ Việt Nam.
Bắt đầu từ năm 938, khi nước ta giành độc lập, tổ chức nhà nước còn khá đơn giản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi nhận rằng "Tiền Ngô [Vương] nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi", mà còn thể hiện quy mô của bậc đế vương qua việc đặt trăm quan và chế định triều nghi phẩm phục Trong giai đoạn đầu dựng nước, quốc hiệu chưa được xác định, và đất nước vẫn được gọi là Tĩnh Hải Quân, theo cách gọi khi còn dưới sự đô hộ của nhà Đường.
Cổ Loa, mặc dù Ngô Quyền đã xưng vương, nhưng bộ máy nhà nước vẫn học theo cấu trúc cũ với chức thứ sử đứng đầu 8 châu Việc di dời kinh đô về Hoa Lư không chỉ phản ánh nhu cầu phòng thủ quân sự mà còn thể hiện tâm lý địa phương chủ nghĩa, không chỉ trong Hoàng tộc và triều đình mà còn ở các tập đoàn quyền lực khác tại phủ Đô Hộ cũ.
3 Sử thần triều Lê (1998), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Tập 1), NXB Khoa học xã hội, tr.205
4 Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, tr.111
Tài liệu "Bài sử khác cho Việt Nam" của Tạ Chí Đại Trường (2009) cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử Việt Nam Ấn phẩm điện tử này có thể được truy cập tại https://nhatbook.com/wp-content/uploads/2018/12/Bai-Su-khac-cho-Viet-Nam_-Ta-chi-Dai-Truong.pdf, và đã được xem vào ngày 29/4/2020 Nội dung của tài liệu không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn về bối cảnh lịch sử mà còn mở rộng kiến thức về các sự kiện và nhân vật quan trọng trong quá trình hình thành đất nước.
Thời kỳ sau nhà Ngô được biết đến với tên gọi “loạn 12 sứ quân”, trong đó 6 sứ quân chiếm ưu thế, đặc biệt kể từ khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn qua đời vào năm 944.
Năm 965, Đinh Bộ Lĩnh đã chấm dứt thời kỳ loạn lạc và thành lập nhà Đinh, chuyển đô về Hoa Lư để tăng cường phòng thủ Tài liệu lịch sử ghi chép về bộ máy nhà nước thời kỳ này không quá chi tiết, nhưng Đại Việt sử ký toàn thư đã tóm tắt rằng vào năm thứ 2 của thời Thái Bình (971), các sự kiện quan trọng đã diễn ra.
Khai Bảo năm thứ 4) bắt đầu quy định ấp bậc văn võ, tăng đạo” và “[Thái Bình] năm thứ
Vào mùa xuân năm Tống Khai Bảo thứ 7, quy định về quân đội được thiết lập với cấu trúc gồm mười đạo, mỗi đạo có mười quân, và mỗi quân được chia thành các đơn vị nhỏ hơn Mặc dù bộ máy nhà nước phát triển hơn so với nhà Ngô, sự thay đổi chủ yếu nằm ở việc chia lại hành chính để quản lý hiệu quả hơn Nhà Đinh kiểm soát toàn bộ Đại Cồ Việt, nhưng mức độ quản lý ở các vùng khác nhau, với những vùng xa kinh đô duy trì mối quan hệ lỏng lẻo với trung ương Sau khi Đinh Tiên Hoàng qua đời, nhà Tiền Lê thành lập và không có nhiều thay đổi, chỉ điều chỉnh các đơn vị hành chính thành lộ, phủ, châu Một điểm đáng chú ý trong thời kỳ Tiền Lê là việc phân phong vương và chia đất cho các hoàng tử, dẫn đến sự phân tán quyền lực thay vì tập trung.
Bộ máy nhà nước Ngô – Đinh – Tiền Lê có hai đặc điểm chính: cơ cấu tổ chức đơn giản với mối quan hệ trung ương và địa phương yếu, dẫn đến hiện tượng cát cứ phổ biến; và ưu tiên phát triển quân sự để phòng thủ trước nguy cơ xâm lược và đối phó với các lực lượng địa phương PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn nhận định rằng trong giai đoạn đầu của nhà nước phong kiến, chính quyền phải giải quyết mối quan hệ giữa phân tán và tập quyền, khi mà tính tự trị địa phương rất cao trong bối cảnh cai trị phong kiến phương Bắc.
6 M ộ t chi ti ết đáng chú ý là thự c t ế, Đinh Bộ Lĩnh đã bắt đầ u ch ố ng l ạ i nhà Ngô t ừ năm 951 Xem
Sử thần triều Lê (1998), Đạ i Vi ệ t s ử ký toàn thư (T ậ p 1), NXB Khoa học xã hội, tr.207
7 Sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 1), NXB Khoa học xã hội, tr.208-209
Trong bối cảnh bùng phát và nguy cơ phân tán quyền lực, tình trạng này đã tạo ra nhiều bất lợi cho chính quyền trung ương Các triều đại quân chủ Việt Nam sau này đều nỗ lực để khắc phục vấn đề này, nhằm củng cố quyền lực và ổn định đất nước.
Nhà Lý đánh dấu bước phát triển lớn đầu tiên của nhà nước Việt Nam khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La Các triều vua nhà Lý đã thực hiện nhiều cải cách hành chính quan trọng, như phân định hệ thống cơ quan trung ương và chia đất nước thành các đơn vị hành chính nhỏ với 4 cấp, hình thành hệ thống quan liêu Khoa cử được áp dụng từ thời Lý Nhân Tông, bên cạnh các phương pháp tuyển cử truyền thống Nhà Lý cũng thiết lập chế độ hộ tịch và chính sách “ngụ binh ư nông”, cho thấy sự quản lý nhà nước đã phát triển vượt bậc so với các triều đại trước Các cải cách khác bao gồm phát triển bộ máy trung ương, hệ thống đường sá và bộ luật thành văn đầu tiên - “Hình thư”, khẳng định tính tổ chức và tập quyền của nhà nước PGS.TS Trần Thị Vinh nhận định rằng nền hành chính thời Lý do Lý Thái Tổ xây dựng đã đặt nền tảng cho sự phát triển sau này Nhà Trần tiếp tục phát triển với bộ phận trung khu tại trung ương và cải tiến tại địa phương, cho thấy sự tiến bộ trong cơ cấu và cơ chế bộ máy nhà nước thời Trần.