NH Ữ NG V ẤN ĐỀ LÝ LUẬ N V Ề MANG THAI H Ộ
Khái niệ m chung v ề mang thai h ộ
1.1.1 Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ”
Trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành, khái niệm “mang thai hộ” ở Việt Nam thường bị hiểu nhầm và đồng nhất với “đẻ thuê” Nhiều người hiểu rằng “mang thai hộ” chỉ đơn giản là việc một người phụ nữ mang thai và sinh con cho người khác mà không có sự can thiệp của các biện pháp hỗ trợ sinh sản, dẫn đến việc trẻ sinh ra mang gen của người chồng và người phụ nữ không phải là vợ Cách hiểu này không chỉ sai lệch mà còn đi ngược lại với các giá trị văn hóa và đạo đức của xã hội.
“Mang thai hộ” dưới góc nhận đị nh c ủa các chuyên gia
Theo ThS.BS Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và Sức khỏe sinh sản, Đại học Quốc gia TPHCM, mang thai hộ là giải pháp cho những phụ nữ không thể mang thai do vấn đề về tử cung Kỹ thuật này đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng vẫn gây tranh cãi giữa các trường phái tư tưởng và văn hóa khác nhau.
Theo Tiến sĩ Luật học Nguyễn Văn Cừ, Phó giáo sư Trường Đại học
Luật Hà Nội, trong bài viết “Pháp luật về mang thai hộở Việt Nam” đăng trên
Theo Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016, số 6, "mang thai hộ" được định nghĩa là một phương pháp hỗ trợ sinh sản dành cho những người vợ không thể mang thai tự nhiên, ngay cả khi đã áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản Phương pháp này bao gồm việc lấy noãn từ người vợ và tinh trùng từ người chồng để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy phôi vào tử cung của một người phụ nữ tự nguyện mang thai, nhằm giúp họ có thể sinh con.
Vì vậy, người mang thai hộ không có liên quan về di truyền với đứa trẻ mà mình nuôi dưỡng trong cơ thểvà sinh ra đứa trẻđó”.[26, tr.11]
Trong bài viết “Một số vấn đề về thực hiện quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam” trên tạp chí Nghề luật, ThS Trần Đức Thắng đã nêu rõ rằng mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự được hình thành dựa trên cơ sở tự nguyện.
Thỏa thuận mang thai hộ là một hợp đồng giữa cặp vợ chồng và người mang thai hộ, tạo ra quyền lợi và nghĩa vụ cho tất cả các bên liên quan.
“Mang thai hộ” dưới góc độ pháp lý
Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra khái niệm: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”.
Khi pháp luật công nhận mang thai hộ, khái niệm này được phân định rõ ràng với “đẻ thuê” và “đẻ mướn” Mang thai hộ yêu cầu sử dụng trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng trong cặp vợ chồng hiếm muộn, sau khi thụ tinh ống nghiệm (TTTON) thành phôi, phôi sẽ được cấy vào tử cung của người mang thai hộ Điều này khác biệt hoàn toàn với “đẻ thuê”, nơi người đẻ thuê giao phối trực tiếp với người chồng mà không áp dụng bất kỳ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nào Sự phân biệt này là yếu tố then chốt giữa hai khái niệm.
Khái niệm “mang thai hộ” được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, khái niệm này được định nghĩa rõ ràng và dễ hiểu Điều này không chỉ giúp người đọc dễ tiếp cận mà còn thể hiện rõ ràng các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động mang thai hộ, đảm bảo tính chuyên môn và sự hợp pháp trong quá trình thực hiện.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là khi một người phụ nữ tự nguyện mang thai cho cặp vợ chồng vô sinh mà không vì lý do vật chất hay tiền bạc.
Phương pháp mang thai hộ sử dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON), trong đó noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng được kết hợp để tạo phôi Sau đó, phôi này sẽ được cấy vào tử cung của người phụ nữ mang thai hộ, giúp cô ấy mang thai và sinh con.
Cặp vợ chồng hiếm muộn là đối tượng duy nhất được phép nhờ mang thai hộ, với mục đích nhân đạo nhằm giúp những người phụ nữ không thể sinh con Trong khi phụ nữ độc thân có thể xin tinh trùng và thụ tinh trong ống nghiệm để có con, pháp luật không công nhận việc họ nhờ mang thai hộ nếu không có khả năng mang thai và sinh con.
1.1.2 Phân loại các hình thứ c mang thai h ộ
Hội thảo Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) diễn ra tại Hà Lan vào năm 2012 đã đưa ra những kết luận quan trọng về các thiết chế toàn cầu liên quan đến hoạt động.
Mang thai hộ hiện được phân loại thành bốn nhóm: nhóm nước chưa có quy định, nhóm nước phản đối, nhóm nước cho phép vì mục đích nhân đạo, và nhóm nước chấp thuận thương mại hóa Trong số các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ, có hai nhóm chính: mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, tại khoản 23 Điều 3, có hai hình thức mang thai hộ được phân loại là “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và “mang thai hộ vì mục đích thương mại” Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ công nhận hình thức mang thai hộ dưới góc độ nhân đạo, không thừa nhận mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Mang thai hộ vì mục đích thương mại là hình thức mà một người phụ nữ đồng ý mang thai và sinh con cho bên thuê, sau đó trao đứa trẻ lại cho bên nhờ Trong quá trình này, người phụ nữ sẽ nhận được một khoản tiền hoặc các lợi ích khác theo thỏa thuận giữa hai bên.
C ở s ở lý luận và thự c ti ễn đố i v ới lĩnh vự c mang thai h ộ
Mang thai hộ chủ yếu dựa trên kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) thông thường, không quá phức tạp về mặt kỹ thuật Người vợ trong cặp vợ chồng có nhu cầu sẽ được kích thích buồng trứng, theo dõi và chọc hút noãn Noãn sau đó được thụ tinh với tinh trùng của người chồng để tạo phôi Phôi có thể được chuyển vào tử cung của người mang thai hộ đã được chuẩn bị hoặc đông lạnh để sử dụng sau này Để thực hiện TTTON, người chồng cần có đủ tinh trùng và người vợ phải có dự trữ buồng trứng đủ.
Năm 2011, Trung tâm nghiên cứu về di truyền và sức khỏe sinh sản (khoa Y Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) được thành lập, đưa Việt Nam trở thành một trong bốn trung tâm đào tạo hỗ trợ sinh sản lớn nhất châu Á, bên cạnh Singapore, Ấn Độ và Trung Quốc Mỗi năm, trung tâm này tiếp nhận và đào tạo nhiều bác sĩ nước ngoài Hiện tại, cả nước có 21 cơ sở đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo quy định của Bộ.
Y tế đã công nhận 05 cơ sở trên toàn quốc được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bao gồm Bệnh viện Hùng Vương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Mỹ Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế Chi phí cho một ca TTTON ở Việt Nam chỉ khoảng 2.000-3.000 USD, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực (8.000-12.000 USD) và chỉ bằng 1/4 hoặc 1/3 so với chi phí ở Mỹ.
Mang thai hộ là một phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, sử dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đòi hỏi công nghệ cao Tại Việt Nam, nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản và bệnh viện phụ sản đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật này với chi phí hợp lý Mặc dù cơ sở vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo hàng năm đã sẵn sàng, việc mang thai hộ vẫn gặp khó khăn về mặt quan niệm xã hội và các thủ tục pháp lý liên quan đến quyền lợi của các bên.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã thiết lập một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh cho việc mang thai hộ, bao gồm các quy định từ Điều 93 đến Điều 100 Những điều này xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Luật cũng quy định các điều kiện, thỏa thuận, quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ cũng như bên nhờ mang thai hộ Hơn nữa, luật còn đưa ra hướng giải quyết tranh chấp liên quan đến sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ, đồng thời xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này.
Việt Nam là một trong những quốc gia ở Đông Nam Á có Nghị định riêng về sinh con theo phương pháp khoa học, cụ thể là Nghị định số 10/2015/NĐ-CP Nghị định này tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc tư vấn, khám và điều trị của các cán bộ y tế, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ đơn thân muốn mang thai Ngoài ra, các quy định về mang thai hộ đảm bảo giải quyết hậu quả pháp lý, bảo vệ quyền lợi của trẻ em sinh ra từ mang thai hộ cũng như quyền lợi của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ Nghị định đã bao quát hầu hết các vấn đề liên quan đến hỗ trợ sinh sản và phù hợp với các bằng chứng khoa học cũng như pháp luật trong nước và quốc tế.
Nhu cầu mang thai hộ ngày càng phổ biến, tuy nhiên, việc pháp luật Việt Nam cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại đã dẫn đến tình trạng nhiều người tìm đến dịch vụ chui hoặc ra nước ngoài Việc này không chỉ tốn kém mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi quyền lợi của người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ và đứa trẻ không được đảm bảo Hơn nữa, khi xảy ra tranh chấp trong các dịch vụ chui, các cơ quan nhà nước gặp khó khăn trong việc can thiệp do thiếu cơ sở pháp lý, vì những hợp đồng này không hợp pháp.
Vô sinh do các tật bẩm sinh ở tử cung hoặc bệnh lý khác ngày càng trở nên phổ biến, khiến nhiều cặp vợ chồng không thể mang thai mặc dù có đủ tinh trùng và noãn Trong trường hợp này, nhu cầu mang thai hộ trở nên cần thiết để họ có thể có con từ chính tinh trùng và noãn của mình Việc cho phép mang thai hộ không chỉ đáp ứng nhu cầu chính đáng của các cặp vợ chồng mà còn là một giải pháp nhân văn, giúp họ thực hiện quyền làm cha, mẹ.
Nếu không có quy định pháp luật rõ ràng, nhu cầu có con có thể dẫn đến việc thực hiện mang thai hộ, cả trong và ngoài nước, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng Tình trạng đẻ thuê vì mục đích thương mại xuất hiện, đồng thời không đảm bảo an toàn sức khỏe và tính mạng cho cả đứa trẻ lẫn người mang thai hộ Quyền lợi của người mang thai hộ và đứa trẻ cũng không được bảo vệ, dẫn đến phát sinh tranh chấp do thiếu quy định pháp lý chặt chẽ.
Do vậy, việc pháp luật cần ghi nhận, hợp pháp hoá mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hết sức cần thiết.
Ý nghĩa củ a ho ạt độ ng mang thai h ộ vì mục đích nhân đạ o
1.3.1 Mang thai h ộ vì mục đích nhân đạo giúp đả m b ả o quy ền con ngườ i
Công nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn, đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người và bảo vệ quyền dân sự cơ bản Điều này đảm bảo cho mọi người có quyền được sống chất lượng, quyền hôn nhân và theo đuổi hạnh phúc.
Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân bao gồm nhiều quyền liên quan chặt chẽ với nhau, đặc biệt là quyền được hỗ trợ bảo vệ gia đình và quyền của các bà mẹ cùng trẻ em Những quyền này đảm bảo sự chăm sóc đặc biệt cho mẹ và con, đồng thời phản ánh nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình trong việc bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, liên quan đến lĩnh vực y tế.
“Giúp đỡcác bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình” (khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014).
Việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không chỉ mang tính nhân văn sâu sắc mà còn thể hiện quyền bình đẳng và hạnh phúc cho những người không thể có con Điều này đặc biệt quan trọng đối với các cặp vợ chồng hiếm muộn và vô sinh, giúp họ có cơ hội xây dựng gia đình.
1.3.2 Mang thai h ộ vì mục đích nhân đạ o ma ng giá trị nhân văn sâu sắ c
Mang thai hộ mang trong mình bản chất nhân văn sâu sắc, khi một người phụ nữ giúp đỡ người phụ nữ khác sinh ra những đứa trẻ Dù yếu tố huyết thống không thay đổi, hành động này được xem là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện sự nhân đạo Pháp luật công nhận mang thai hộ với mục đích nhân đạo, nhằm tạo cơ hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, đặc biệt là những người vợ không thể mang thai.
1.3.3 Mang thai h ộ vì mục đích nhân đạo là kế t qu ả ứ ng d ụng thành công thành tự u khoa h ọ c k ỹ thu ậ t th ụ tinh trong ố ng nghi ệ m c ủa lĩnh vự c y h ọ c Đứng dưới góc độ y tế có thể thấy rằng, phương pháp mang thai hộ là giải pháp tốt cho những trường hợp vô sinh mà người phụ nữ không thể chữa trị để tự mang thai Và trong trường hợp này, đứa bé ra đời từ mang thai hộ mang gien di truyền của người phụ nữ có trứng thụ tinh chứ không phải của người mang thai Nếu hiểu khái niệm huyết thống đồng nhất với khái niệm gien di truyền (ADN) thì quan hệ huyết thống là quan hệ giữa người phụ nữ có trứng và đứa trẻ Nếu chúng ta chấp nhận việc nuôi trẻ bằng sữa của người phụ nữ khác khi người mẹ của đứa trẻ không có khả năng nuôi con bằng sữa của chính mình thì chúng ta cũng nên chấp nhận việc mang thai hộ Hai hiện tượng này gần như đồng nhất với nhau, chỉ khác ở thời điểm là trước và sau khi sinh
Cấm mang thai hộ tại Việt Nam có thể tạo ra sự phân biệt giàu nghèo, khi các cặp cha mẹ có điều kiện kinh tế dễ dàng sang nước ngoài thực hiện phương pháp này Hơn nữa, việc quy định mang thai hộ trong luật pháp sẽ bảo vệ an toàn và quyền lợi cho các bên tham gia, đồng thời hạn chế tình trạng bóc lột phụ nữ nghèo tại các quốc gia đang phát triển.
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP được ban hành vào năm 2014 đã thiết lập cơ chế kiểm tra sự đồng thuận của người mang thai hộ, đảm bảo rằng họ không chịu sức ép tâm lý, kinh tế hay từ gia đình Đồng thời, người mang thai hộ cần nhận thức rõ ràng về các hậu quả có thể xảy ra khi rời bỏ đứa trẻ sau khi sinh, cũng như những tác động đến sức khỏe cá nhân và đời sống riêng tư trong tương lai Hơn nữa, sự đồng thuận của chồng của người mang thai hộ cũng là yếu tố quan trọng trong quá trình này.
1.3.4 Mang thai h ộ vì mục đích nhân dạo giúp duy trì nòi giố ng
Duy trì nòi giống là quy luật tự nhiên của loài người, cần thiết cho sự phát triển xã hội Theo Ăngghen, con người tự tái sản xuất thông qua mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, tạo thành gia đình Nếu không có quá trình sản xuất và tái sản xuất, xã hội sẽ không tồn tại Mang thai hộ giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn duy trì nòi giống và đáp ứng nhu cầu có con cùng huyết thống Yếu tố huyết thống không chỉ xác định quan hệ gia đình mà còn liên quan đến nguồn gốc, văn hóa và truyền thống Do đó, các cặp vợ chồng hiếm muộn luôn khao khát có con mang dòng máu của mình, và mang thai hộ trở thành giải pháp khi người vợ không thể mang thai Điều này đảm bảo chức năng cơ bản của gia đình trong việc duy trì nòi giống.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở
Th ự c tr ạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vự c mang thai h ộ
2.1.1 Quy định pháp luật trong lĩnh vự c mang thai h ộ c ủ a m ộ t s ố qu ố c gia trên thế gi ớ i
Ca mang thai hộ đầu tiên trên thế giới diễn ra vào năm 1979 tại Hoa Kỳ, khi bác sĩ Richard M Levin hỗ trợ một cặp vợ chồng mà người vợ không thể sinh con Với mong muốn có một đứa con, bác sĩ đã đề xuất nhờ một phụ nữ khác mang thai thông qua thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng của người chồng Tuy nhiên, ông đã gặp phải nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến mang thai hộ và phải hợp tác với các luật sư trong suốt chín tháng để nghiên cứu luật pháp của bang và quốc gia Ông cũng tham khảo ý kiến của các chức sắc tôn giáo và nhà đạo đức học để đảm bảo rằng thỏa thuận không vi phạm giá trị đạo đức của cộng đồng.
Vào đầu năm 1980, một "hợp đồng" hay "biên bản ghi nhớ" đã được soạn thảo cẩn thận, đảm bảo quyền lợi cho cặp vợ chồng vô sinh, người mẹ mang thai hộ và đứa trẻ Người mẹ mang thai hộ đã được tư vấn kỹ lưỡng về y tế và pháp lý trước khi tiến hành thụ tinh nhân tạo phôi thai bằng tinh trùng của người chồng và noãn của người vợ Chín tháng sau, tại Louisville, người mẹ mang thai hộ sinh hạ một bé trai và sau đó đã chính thức chấm dứt quyền làm mẹ để trao con cho người bố sinh học Sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý, cặp vợ chồng đã được toàn quyền chăm sóc và nuôi dạy đứa trẻ Đây là trường hợp mang thai hộ hợp pháp đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ghi nhận của các quốc gia về vấn đề này dưới góc độ luật pháp.
Theo khảo sát năm 2013 của Liên đoàn Sinh sản Thế giới về mang thai hộ tại 105 quốc gia, có 62 quốc gia đã phản hồi Trong số đó, 19 quốc gia có quy định rõ ràng về mang thai hộ, 24 quốc gia theo đạo Hồi và Thiên chúa giáo nghiêm cấm hình thức này, và 14 quốc gia không có quy định cụ thể nhưng cho phép thực hiện dựa trên các luật liên quan.
2.1.1.1 Các quốc gia chưa hợp pháp hóa mang thai hộ a Một số nước ở châu Âu
Tại Pháp và Italy, phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng đồng tính nữ bị cấm sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (TTTON) và mang thai hộ, do ảnh hưởng mạnh mẽ của giáo hội Công giáo Họ tin rằng trẻ em phải được sinh ra một cách tự nhiên, coi đó là món quà của Thượng đế, và việc tạo ra trẻ em bằng công nghệ đi ngược lại với quan điểm của giáo hội Luật đạo đức sinh học (số 94-653) của Pháp năm 1994 cấm mọi hình thức mang thai hộ, bao gồm cả các thỏa thuận thương mại và phi thương mại, coi đó là bất hợp pháp.
Tại Quebec, Canada, tất cả các thỏa thuận "mang thai hộ" đều bị cấm theo Bộ luật Dân sự Quebec Cụ thể, Điều 541 của bộ luật này quy định rằng mọi hợp đồng liên quan đến việc một người phụ nữ cam kết sinh sản hoặc mang thai cho người khác đều không có giá trị pháp lý Điều này áp dụng cho cả các hợp đồng thương mại lẫn nhân đạo.
Các bang như Arizona, Indiana, Michigan, Uhtar và North Dakota hoàn toàn cấm việc "mang thai hộ" Tại Michigan, tất cả các thỏa thuận "đẻ thuê" mang tính thương mại đều bị nghiêm cấm, và việc tham gia vào những thỏa thuận này có thể bị coi là trọng tội, với mức phạt lên đến 50.000 USD và án tù tối đa năm năm Luật pháp tại bang này không cho phép thực thi việc mang thai hộ.
Trung Quốc vẫn duy trì cấu trúc gia đình truyền thống, trong đó phụ nữ thường kết hôn và sinh con một cách tự nhiên Do đó, việc mang thai thông qua kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đối với phụ nữ đơn thân không được khuyến khích Phụ nữ độc thân, dù mang thai tự nhiên hay bằng phương pháp TTTON, đều không được cấp giấy khai sinh cho con, dẫn đến việc trẻ em không có hộ khẩu.
Hukou là giấy phép cư trú địa phương cần thiết để người dân tham gia các dịch vụ xã hội như giáo dục công cộng, chăm sóc sức khỏe và hộ chiếu Tuy nhiên, nếu vi phạm "Chính sách một con" của Trung Quốc, họ phải trả một khoản phí gọi là "phí bảo trì xã hội" để được hưởng các quyền lợi này.
Nhật Bản, một quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, vẫn chưa có luật điều chỉnh công nghệ sinh sản Hiện tại, dự thảo luật đang được thảo luận với nhiều vấn đề gây tranh cãi như đẻ thuê và việc cho nhận tinh trùng, noãn từ người hiến tặng Quan niệm truyền thống về gia đình huyết thống của người Nhật khiến việc cho nhận noãn và tinh trùng trở thành vấn đề nhạy cảm, vì nó vi phạm mô hình gia đình truyền thống Do chưa có quy định rõ ràng, một trường hợp đặc biệt đã xảy ra khi một người mẹ đơn thân không thể mang thai đã sử dụng noãn của mình và nhờ mang thai hộ, dẫn đến việc đứa trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm có hai người mẹ.
Bản đã phán quyết phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ hợp pháp của đứa trẻ, song
Bộ luật dân sự Nhật Bản hiện chưa quy định rõ ràng về quyền lợi của phụ nữ độc thân và con cái họ, dẫn đến tình trạng pháp lý không được đảm bảo Điều này gây khó khăn trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ, đồng thời ảnh hưởng đến quyền thừa kế của trẻ trong trường hợp không có di chúc.
2.1.2.1.Các quốc gia hợp pháp hóa mang thai hộ
Trên toàn thế giới, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ, bao gồm Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan, Hungary, Canada, Australia, Nam Phi, Brazil, Hy Lạp, Estonia, Ecuador, Hong Kong, Ấn Độ, Iran, Nga, El Salvador, Ukraine và Pháp Tại Mỹ, một số bang như Arkansas, California, Illinois, New Hampshire, Texas, Utah, Virginia, Kentucky và Washington cũng cho phép mang thai hộ.
Alaska, Lowa, Nevada cho phép ngay cả khi thỏa thuận mang thai hộvì mục đích kinh tế a Một sốnước ởchâu Âu
Tại Anh, mang thai hộ và quảng cáo tìm người mang thai hộ được phép theo Luật thụ tinh nhân tạo năm 1994, cho phép chuyển quyền làm cha mẹ từ người đẻ thuê sang người thuê đẻ, với quan hệ cha mẹ được xác lập qua quyết định của tòa án sau khi trẻ ra đời Người mẹ đẻ thuê có 6 tuần để phản đối Tuy nhiên, Luật Hình sự Anh cấm việc trả tiền cho người môi giới Tại Ukraine, từ năm 2002, mang thai hộ đã hoàn toàn hợp pháp, được quy định bởi Bộ luật Gia đình và Lệnh 771 của Bộ Y tế Các cặp vợ chồng hiếm muộn có thể lựa chọn mang thai hộ, hiến trứng hoặc tinh trùng mà không cần sự cho phép từ cơ quan quản lý, nhưng phải có sự đồng ý bằng văn bản của tất cả các bên liên quan trong thỏa thuận mang thai hộ.
Mang thai hộ không mang lại quyền lợi cho người mang thai đối với đứa trẻ sinh ra, mà đứa trẻ sẽ được coi là con của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ về mặt pháp lý Tên của người mang thai hộ sẽ không được ghi trong giấy khai sinh, và họ cũng không có quyền giữ đứa trẻ sau khi sinh Dù có chương trình quyên góp diễn ra và không có mối quan hệ sinh học giữa đứa trẻ và cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, tên của cặp vợ chồng này vẫn sẽ được ghi trong giấy khai sinh.
Theo Bộ Luật Gia Đình của Ukraine, phương pháp mang thai hộ được áp dụng cho cả phụ nữ độc thân thông qua thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người hiến tặng Tại Australia, Đạo luật mang thai hộ năm 2010 quy định rằng việc mang thai hộ được công nhận khi có thỏa thuận giữa người mang thai hộ và người nhờ mang thai, trong đó đứa trẻ sẽ thuộc quyền nuôi dưỡng của người nhờ mang thai Luật cũng xác định rằng người phụ nữ mang thai hộ và chồng của cô sẽ là bố mẹ hợp pháp của đứa trẻ từ khi bắt đầu mang thai cho đến khi chuyển giao Nếu có tranh chấp về quyền nuôi dưỡng sau khi đứa trẻ ra đời, quyền giám hộ sẽ được Tòa vị thành niên giải quyết theo lợi ích tốt nhất của trẻ.
Mặc dù "mang thai hộ" vẫn gây tranh cãi và bị cấm ở nhiều quốc gia, nhưng tại Ấn Độ, lĩnh vực này đã phát triển mạnh mẽ sau khi Tòa án tối cao hợp pháp hóa Năm 2010, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua dự luật điều chỉnh công nghệ sinh sản hỗ trợ, theo đó quy định rằng độ tuổi của người mang thai hộ phải từ 21 đến 35, nhằm hạn chế tình trạng mang thai hộ ở độ tuổi vị thành niên hoặc trên 40.
Th ự c tr ạ ng th ự c hi ện pháp luật và nguyên nhân dẫn đế n th ự c tr ạ ng trong lĩnh vự c mang thai h ộ 46 1 Th ự c tr ạ ng th ự c hi ện pháp luật và nguyên nhân dẫn đế n th ự c tr ạ ng
2.2.1 Th ự c tr ạ ng th ự c hi ện pháp luật và nguyên nhân dẫn đế n th ự c tr ạ ng mang thai h ộ ở Vi ệt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, pháp luật Việt Nam cấm mang thai hộ, nhưng nhiều cặp vợ chồng vẫn tìm đến dịch vụ mang thai chui Chị Thủy, 32 tuổi, quê Quảng Bình, làm công nhân tại TP HCM, đã phải xa con gái để kiếm sống và giấu gia đình về việc mang thai hộ Chị mong muốn hoàn thành 9 tháng mang thai để giao con cho cha mẹ ruột và nhận 400 triệu đồng nếu sinh con trai, 350 triệu đồng nếu là con gái Trong khi đó, chị Yến từ Bến Tre, cũng có chồng và con trai 3 tuổi, đang phải chịu đựng cuộc sống khó khăn do chồng chỉ lo nhậu nhẹt.
Sau khi ly dị chồng, chị Yến phải gửi con về quê cho người thân nuôi và lên TP HCM làm công nhân may giày Mỗi tháng, tiền lương chỉ đủ sống, khiến chị phải vay mượn khi con ốm Để có thêm thu nhập, chị đã nhận lời làm mẹ thuê cho một cặp vợ chồng vô sinh và hiện đang mang thai được 6 tháng Khi nghe tin mẹ mất, chị rất đau lòng nhưng không thể về chịu tang vì sợ ảnh hưởng đến thai nhi Vợ chồng người thuê cấm chị khóc, khiến chị phải lén lút khóc trong phòng trọ Chị tâm sự rằng nếu biết trước sẽ không nhận làm việc này và sau khi sinh, chị sẽ ngay lập tức về quê để tạ lỗi với mẹ và quyết không rời xa con nữa.
Trong khi pháp luật Việt Nam cấm mang thai hộ, Thái Lan đã hợp pháp hóa hoạt động này, trở thành lựa chọn hàng đầu cho nhiều cặp vợ chồng Việt Nam có điều kiện kinh tế Một cặp vợ chồng từ TP HCM đã thỏa thuận trong hợp đồng yêu cầu sinh con trai, do đã có hai bé gái Sau khi lấy tinh trùng của chồng, họ được tiếp xúc với luật sư và người mang thai hộ để thống nhất các điều khoản tài chính, xét nghiệm và giới tính Một tháng sau khi bé trai ra đời, gia đình vui mừng khi nhận đứa trẻ giống hệt cha và mang nhiều nét của mẹ Hiện tại, bé đã hơn 1 tuổi, lanh lợi và hiếu động, nhưng nếu không được tiết lộ, không ai biết bé là sản phẩm của dịch vụ mang thai hộ.
Tuy nhiên, mang thai là một quá trình hết sức phức tạp và phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan nên không phải trường hợp nào cũng thành công
Vợ chồng chị L ở quận 7, TP HCM đã thực hiện đầy đủ các thủ tục như xét nghiệm, lấy trứng và tinh trùng, sau đó tìm người mang thai hộ Tất cả các ràng buộc đã được ký kết trong hợp đồng Tuy nhiên, khi người mang thai hộ đến tháng thứ 4, họ phát hiện thai nhi bị dị tật, dẫn đến việc bệnh viện phải tiến hành bỏ thai nhi bằng phương pháp sinh non Đây là trường hợp bất khả kháng, vì vậy gia đình chị L phải bồi thường cho người mang thai hộ 1/3 số tiền theo hợp đồng Gần một năm trôi qua, mỗi lần nhớ lại sự việc, chị L vẫn cảm thấy ân hận và quyết định từ bỏ ý định thuê người mang thai hộ.
Tình trạng mang thai chui ở Việt Nam gia tăng do tỷ lệ vô sinh, hiếm muộn ngày càng trẻ và nhu cầu làm cha, mẹ của các cặp vợ chồng này ngày càng cao Mặc dù pháp luật hiện cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức, thực tế vẫn ghi nhận tình trạng này diễn ra Nhà nước cần áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lý để bảo vệ quyền lợi của trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ Do đó, cần có những điều chỉnh hợp lý trong pháp luật để giảm thiểu tác động tiêu cực của mang thai hộ, đồng thời tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng không thể có con thực hiện quyền làm cha mẹ.
2.2.2 Th ự c tr ạ ng th ự c hi ện pháp luật và nguyên nhân dẫn đế n th ự c tr ạ ng mang thai h ộ ở Vi ệ t Nam khi Lu ật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hi ệ u l ự c cho đế n nay
2.2.2.1 Thực trạng mang thai hộở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực cho đến nay a Khó khăn từ bước chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định các mẫu biên bản, đơn cam kết, thỏa thuận và báo cáo liên quan đến thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bao gồm 07 mẫu đơn cho các cơ sở y tế và cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ Theo khoản 1 Điều 14 của nghị định, cặp vợ chồng vô sinh cần nộp hồ sơ đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để đề nghị thực hiện quy trình này.
“kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” lại bao gồm 12 loại giấy tờ (theo mẫu) sau:
Để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cần chuẩn bị các tài liệu sau: đơn đề nghị, bản cam kết tự nguyện, bản cam đoan của người mang thai hộ về việc chưa từng mang thai hộ, xác nhận tình trạng chưa có con chung từ Ủy ban nhân dân cấp xã, và xác nhận từ cơ sở y tế về tình trạng sức khỏe của người vợ Ngoài ra, cần có xác nhận khả năng mang thai của người mang thai hộ, chứng minh mối quan hệ thân thích giữa các bên, xác nhận đồng ý của chồng người mang thai hộ, cùng với các bản xác nhận tư vấn y tế, tâm lý và pháp luật Cuối cùng, cần có bản thỏa thuận giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ.
Sau khi chuẩn bị hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, việc xin xác nhận hành chính cho các giấy tờ trong bộ hồ sơ lại gặp nhiều khó khăn Bà Phan Thị Yến, y tá trưởng Trung tâm hỗ trợ sinh sản Quốc gia, cho biết hai bên nhờ mang thai hộ phải hoàn tất 13 cam kết, trong đó nhiều cam kết cần sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và luật sư tư vấn Thủ tục hành chính hiện nay là khó khăn lớn nhất; nhiều trường hợp đã có chỉ định từ trung tâm nhưng chính quyền địa phương lại không xác nhận do thiếu hướng dẫn Một số trường hợp khác, mặc dù đã có xác nhận nhưng vẫn bị từ chối vì lý do chồng có thể đã có con ngoài luồng.
Nội là nơi thông tin vềcho phép mang thai rất nhiều nhưng chính quyền cũng không xác nhận hoặc xác nhận chung chung” [10]
Việc xin xác nhận tư vấn y tế, pháp lý và tâm lý là một thách thức lớn đối với các cặp vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ BS Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và sức khỏe sinh sản (CGRH) thuộc khoa Y, Đại học Quốc gia TPHCM, đã chỉ ra rằng những khó khăn này cần được giải quyết để đảm bảo quyền lợi và sức khỏe cho tất cả các bên liên quan.
Để thực hiện một ca mang thai hộ hoàn chỉnh, người có nhu cầu cần được tư vấn và xác nhận 5 chữ ký quan trọng Đầu tiên, cần có chữ ký của trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm xác nhận người phụ nữ không có khả năng mang thai Thứ hai, là chữ ký của luật sư tư vấn để vợ chồng hiểu rõ về luật pháp liên quan Thứ ba, chữ ký của chuyên gia tâm lý để tư vấn về các vấn đề tâm lý cho cặp đôi Thứ tư, cần có chữ ký của chuyên gia xã hội học để giải thích những thuận lợi và phức tạp trong mối quan hệ gia đình huyết thống Cuối cùng, cơ sở y tế sẽ kiểm tra tính hợp lệ của các chữ ký trước khi tiến hành kỹ thuật thụ tinh.
Mang thai hộ là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, vì vậy pháp luật quy định rất chặt chẽ về hồ sơ liên quan Hồ sơ cần phải đầy đủ và cam kết giữa hai bên phải tuân thủ đúng quy định pháp luật Nếu một trong các cam kết bị thiếu, hồ sơ sẽ bị bác bỏ, khiến cặp vợ chồng hiếm muộn không thể thực hiện ước mơ có con dù đã tìm được người đồng ý và đủ điều kiện Khó khăn lớn nhất đến từ việc không đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định.
Pháp luật quy định rằng vợ chồng nhờ mang thai hộ phải không có con chung Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều cặp vợ chồng đã có con nhưng đứa trẻ mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh lý khác, khiến chúng không thể phát triển bình thường Đây là một tình huống phổ biến, gây trăn trở cho nhiều cặp vợ chồng, như trường hợp của chị Thy Hồng ở quận Bình.