TỔNG QUAN
Gi ả i ph ẫ u mô h ọ c, sinh lý h ọc da ngườ i
Da là một trong những cơ quan lớn, chiếm tới khoảng 6% trọng lượng cơ thể Một người trưởng thành nặng 60kg thì trọng lượng của da khoảng 4kg
Nếu tính cả hạ bì và mô mỡ trọng lượng da khoảng 15kg Da người lớn có độ dày từ 1,5 – 4mm; diện tích 1,5m 2 – 1,8m 2 – 2m 2
Da bao bọc toàn bộ diện tích bề mặt cơ thể và được cấu tạo từ ba lớp chính: lớp biểu bì ở trên cùng, lớp chân bì ở giữa, và lớp hạ bì ở dưới Lớp hạ bì thường chuyển thành mô mỡ dưới da và liên kết lỏng lẻo với các màng cơ và xương bên dưới Ngoài ra, da còn tiếp nối với niêm mạc của môi, mũi, mi mắt, âm hộ, bao quy đầu và hậu môn Da cũng chứa các thành phần phụ như lông, tuyến và móng.
1.1.1 Gi ả i ph ẫ u mô h ọ c da ngườ i [1, 3, 25]
Da người có ba lớp: thượng bì, trung bì và hạ bì
Thượng bì là một biểu mô vảy có nhiều lớp, dày khoảng 0,1mm, ở lòng bàn tay, bàn chân khoảng 0,8 – 1,4mm
Tế bào chính của thượng bì là tế bào sừng (keratinocyte), chịu trách nhiệm sản xuất chất sừng (protein keratin) Thượng bì được chia thành 4 lớp từ dưới lên, bao gồm lớp đáy, lớp gai, lớp hạt và lớp sừng Đặc biệt, lòng bàn tay và bàn chân có 5 lớp với sự hiện diện của lớp sáng Lớp đáy (stratum basale), còn gọi là lớp cơ bản hay lớp sinh sản (basal cells), là lớp đầu tiên trong cấu trúc này.
Lớp sâu nhất của thượng bì là một lớp tế bào hình trụ nằm ngay trên màng đáy, với nhân hình bầu dục ở giữa Nguyên sinh chất của tế bào này ưa kiềm và chứa các hạt melanin.
Trong lớp biểu bì, xen kẽ giữa các tế bào cơ bản là các tế bào sắc tố (melanocyte) có màu sáng và có tua Tế bào sắc tố này chiếm khoảng 5 – 10% tổng số tế bào đáy và có vai trò quan trọng trong việc sản xuất sắc tố, góp phần vào màu sắc của da.
Trong lớp đáy của biểu mô, tế bào Meckel được phát hiện, có liên quan mật thiết đến các sợi tận cùng của thần kinh da và đóng vai trò quan trọng trong cảm giác Các tế bào đáy được kết nối với nhau qua các cầu nối gian bào (desmosome) và liên kết chắc chắn với màng đáy thông qua nửa cầu nối gian bào (hemidesmosome).
Lớp đáy sản xuất tế bào mới thay thế tế bào cũ, góp phần vào sự đổi mới của thường bì Thời gian để tế bào đáy biệt hóa thành tế bào sừng thường mất khoảng 4 tuần, nhưng ở một số bệnh nhân mắc bệnh như vảy nên và vảy phấn, quá trình này diễn ra nhanh hơn, chỉ khoảng 3 tuần Lớp gai (stratum spinosum) cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.
Lớp gai, hay còn gọi là lớp nhày hoặc lớp Malpighi, là lớp tế bào hình đa diện, được hình thành từ sự di chuyển của các tế bào Nguyên sinh chất trong lớp này bắt màu toan, trong khi nhân tế bào có hình bầu dục với hốc sáng Các tế bào gai nằm sát nhau và được nối với nhau bằng cầu nối gian bào, tạo nên sự vững chắc cho thượng bì Điều này giúp da không bị ngấm nước từ môi trường bên ngoài, ngăn chặn sự thoát nước từ cơ thể, đồng thời chống lại các tác nhân gây hại từ môi trường như sinh học, cơ học, lý học và hóa học.
Lớp tế bào hạt (granular cells) gồm bốn hàng tế bào dẹt hơn tế bào gai
Nhân tế bào trở nên sáng hơn và có dấu hiệu thoái hóa, với hình dạng dẹt do sự phân hủy của các men thủy phân Chất nhiễm sắc bị vón cục, trong khi nhân sáng chứa nhiều hạt Nguyên sinh chất giàu hạt keratohyalin, được hình thành từ mỡ và sợi tơ keratin (tonofibril) Các cầu nối gian bào giữa các tế bào lớp hạt ngắn hơn và lớn hơn so với cầu nối ở lớp gai.
Lớp hạt là lớp tế bào thượng bì cuối cùng còn nhân và cầu nối d) Lớp sáng (stratum lucidum)
Lớp sáng, nằm giữa lớp hạt và lớp sừng, bao gồm 2-3 hàng tế bào dẹt song song với bề mặt da Tại lớp này, các tế bào không có nhân và nguyên sinh chất, chỉ chứa sợi Đặc biệt, lớp sáng chỉ xuất hiện ở lòng bàn tay và bàn chân.
V NU e) Lớp sừng (stratum corneum)
Lớp tế bào sừng (hory cells) là lớp ngoài cùng của thượng bì, dày khoảng 1 micromet, và là kết quả của sự biệt hóa các tế bào thượng bì Tế bào sừng là những tế bào dẹt không có nhân, chứa đầy mảnh sừng và mỡ, tạo nên một màng bảo vệ cơ thể khỏi nước và tác động của môi trường, đồng thời ngăn chặn mất nước từ bên trong Độ dày của lớp sừng thay đổi tùy thuộc vào vùng da; ví dụ, ở lòng bàn tay và bàn chân, lớp sừng dày hơn so với các vùng da khác Các tế bào sừng phía ngoài thường tách rời và bong ra liên tục, tạo thành những vảy nhỏ như phấn, kết hợp với mồ hôi và chất bã để hình thành ghét.
Trung bì bao gồm các lớp, trong đó lớp trung bì nông (papillary dermis) đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng da Lớp này có các gai nhô lên, được gọi là nhú bì hay gai bì (papille), thâm nhập vào thượng bì để cung cấp chất dinh dưỡng và hỗ trợ cấu trúc da.
Các gai da được hình thành từ tổ chức liên kết non, chứa nhiều mao mạch, với chiều cao và kích thước nhú bì khác nhau tùy theo vùng da Ở lòng bàn tay và bàn chân, các nhú bì có thể cao tới 0,2mm, trong khi ở da mặt, lớp nhú bì rất mỏng Trung bì chính thức, hay còn gọi là trung bì sâu (reticular dermis), là lớp da nằm sâu hơn.
Trung bì chính thức gồm có:
Sợi keo, hay còn gọi là sợi hồ (collagen fiber), là những sợi thẳng, không phân nhánh và có chiều dài vài micron Chúng được cấu tạo từ các chuỗi polypeptid, tạo nên một cấu trúc vững chắc và quan trọng trong cơ thể.
Sợi keo, chủ yếu chứa glycin và argenin, gồm 20 loại acid amin khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cho da vững chắc trước các tác động từ môi trường Chúng tập trung chủ yếu ở trung bì sâu, với một lượng nhỏ hơn ở nhú bì, nang lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi và quanh mạch máu Sợi keo có thể bị phá hủy bởi men collagenase do vi khuẩn tiết ra, nhưng sẽ được thay thế bằng các sợi mới, giúp duy trì độ đàn hồi và sức khỏe của làn da.
Sợi chun, hay còn gọi là sợi đàn hồi, là những sợi mảnh và nhẵn, có cấu trúc phân nhánh lượn sóng Chúng được chiết xuất từ sợi keo và có khả năng bắt màu đặc biệt: chuyển sang màu đen khi nhuộm bạc và màu nâu khi nhuộm accin.
Sợi lưới: tạo thành mạng lưới mỏng bao quanh mạch máu, tuyến mồ hôi, cấu trúc giống sợi keo
Sợi liên võng (reticulum fiber): là dạng đặc biệt của sợi tạo keo, tập trung ở trung bì nông, phần phụ của da, mạch máu
Các chất cơ bản là một màng nhày gồm tryptophan; tyrosin; mucopolysaccharid; hyaluronic
Các tế bào xơ hình thoi hoặc hình amíp, có nhân to hình bầu dục, chứa nhiều hạt ty lạp thể, có tác dụng làm da lên sẹo
Tổ chức bào hình thoi hoặc hình sao, nó có thể biến thành thực bào, đại thực bào
Dưỡng bào (mastocyte) tham gia quá trình chuyển hóa heparin, histamin, acid hyaluronic
Mạch máu, trung bì chỉ có những mạch máu nhỏ tập trung ở gai bì và quanh các tuyến
Thần kinh: Ở da có hai loại thần kinh:
Thần kinh não tủy có vỏmyêlin, có nhánh đi riêng.
Thần kinh giao cảm không có vỏ myêlin chạy trong các bao mạch máu
T ổ ng quan tài li ệ u v ề xơ cứ ng bì khu trú
Một dạng bệnh với triệu chứng dày da được nhắc tới lần đầu tiên từ rất sớm, từ năm 400 trước công nguyên bởi Hippocrates Thuật ngữ
Scleroderma, tên gọi xuất phát từ tiếng Hy Lạp với "sklero" có nghĩa là cứng và "derma" nghĩa là da, là một bệnh lý đặc trưng bởi triệu chứng dày lên của da.
Bệnh xơ cứng bì (sclérodermie) được đặt tên bởi bác sĩ người Pháp Gintrac vào năm 1847, nhưng Thomas Addison là người đầu tiên mô tả chi tiết bệnh xơ cứng bì khu trú (morphea) vào năm 1854, coi đây là hội chứng có biểu hiện sẹo của Alibert Năm 1924, Matsui đã mô tả hình ảnh mô bệnh học điển hình của xơ cứng bì, bao gồm sự gia tăng collagen và dày thành mạch máu trong da Đến năm 1930, O’Leary và Nomland đã chỉ ra các điểm khác nhau giữa xơ cứng bì khu trú và xơ cứng bì toàn thể.
Mặc dù xơ cứng bì khu trú (Morphea) đã được xác định là một vấn đề rõ ràng, nhưng nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ của bệnh này vẫn còn hạn chế Một trong những nghiên cứu quan trọng nhất về xơ cứng bì khu trú tại Mỹ là nghiên cứu được thực hiện ở Olmsted, Minnesota.
Từ năm 1960 đến 1993, tỷ lệ mắc bệnh đạt 27 người trên 1 triệu dân mỗi năm, với xu hướng gia tăng theo thời gian Nghiên cứu cho thấy, 56% bệnh nhân gặp phải tổn thương da dạng mảng bám, 20% dạng dải, 13% dạng kết hợp, và 11% có tổn thương sâu.
Tỷ lệ mắc bệnh XCBKT tăng theo độ tuổi, với 500 ca trên một triệu dân ở độ tuổi 18 và 2200 ca trên một triệu dân ở độ tuổi 80 Bệnh này phổ biến hơn ở phụ nữ với tỷ lệ mắc khoảng 2,6/1 so với nam giới, ngoại trừ dạng dải của XCBKT, nơi tỷ lệ mắc ở cả hai giới là tương đương.
Nghiên cứu tại Olmsted cho thấy tỷ lệ sống sót của bệnh nhân mắc XCBKT không khác biệt đáng kể so với tỷ lệ sống chung của dân số, cho thấy đây không phải là một bệnh nguy hiểm tới tính mạng Tuy nhiên, 11% bệnh nhân gặp phải tình trạng tàn tật ở nhiều mức độ, điều này đặc biệt đáng lo ngại vì tình trạng tàn tật chủ yếu xảy ra ở dạng dải của XCBKT, và dạng này thường khởi phát sớm hơn.
18 tuổi (ở khoảng hai phần ba bệnh nhân) [10]
Căn nguyên và cơ chế bệnh sinh của XC KT vẫn chưa được làm rõ Nghiên cứu về xơ cứng bì hệ thống đã chỉ ra rằng cơ chế bệnh sinh của XC KT có thể liên quan đến những nguyên nhân tương đồng giữa hai rối loạn này.
Trong trường hợp tổn thương da đơn độc, không có kết quả mô bệnh học nào có thể phân biệt rõ ràng giữa XC KT và XC HT Hơn nữa, sự tiến triển của tổn thương da trong cả hai bệnh này diễn ra khá tương đồng, dẫn đến quan điểm của một số tác giả cho rằng chúng có chung một số đặc điểm về bệnh sinh và mô bệnh học.
Hiện nay, cơ chế bệnh sinh của XCBKT được hiểu qua ba yếu tố chính có mối liên hệ chặt chẽ: tổn thương mạch máu, sự kích hoạt tế bào lympho T và sự thay đổi trong quá trình sản sinh mô liên kết.
1.2.3.1 Cơ chế tổn thương mạch máu
Một đặc điểm nổi bật trong mô bệnh học của XCBKT là sự giảm sút số lượng mao mạch Nghiên cứu cho thấy tổn thương mạch máu xuất hiện sớm và có thể là nguyên nhân chính gây ra triệu chứng bệnh Sinh thiết tổn thương cho thấy sự giảm mao mạch ở da, bất thường trong cấu trúc thành mạch, tổn thương tế bào nội mô, viêm quanh mạch, và tăng cường hoạt động của nguyên bào sợi Điều này gợi ý rằng rối loạn chức năng mạch máu đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của XCBKT.
Các mạch máu bị tổn thương là các mao mạch và tiểu động mạch có đường kính từ 50-500 micron Một giả thiết cho rằng, cơ chế bệnh sinh của
XC KT gây tổn thương lớp nội mạc mạch máu trong giai đoạn viêm, dẫn đến việc kích thích sản xuất cytokine, từ đó làm tăng biểu lộ các phân tử kết dính mạch máu như ICAM-1, VCAM-1 và E-selectin Ban đầu, tổn thương thể hiện qua sự dính các phân tử và tình trạng sưng phù ở lớp tế bào nội mô, tiếp theo là sự dày lên của lớp đáy, kèm theo viêm quanh mạch và tăng hoạt động của nguyên bào sợi.
1.2.3.2 Cơ chế kích hoạt tế bào lympho T và Cơ chế làm thay đổi sản sinh của mô liên kết
Khi tế bào lympho T được kích hoạt, chúng tiết ra nhiều Cytokin, ảnh hưởng đến quá trình sản sinh collagen loại I, II, III từ các nguyên bào sợi Nghiên cứu của Leroy cho thấy khi tách các nguyên bào sợi từ mô bệnh nhân, có sự gia tăng đáng kể về collagen và một số protein liên kết khác, tình trạng này kéo dài trong nhiều tuần Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra mối liên hệ quan trọng giữa tế bào lympho T và sự sản sinh collagen trong cơ thể.
Các dữ liệu hiện có cho thấy rằng sự gia tăng bất thường hoạt động của các nguyên bào sợi có thể được điều hòa bởi các tế bào xung quanh.
Hiện nay dữ liệu từ các nghiên cứu [7, 13, 21, 48] đều cho thấy tế bào
Tế bào T trợ giúp loại 2 (Th2) tiết ra các cytokine như interleukin (IL)-4, góp phần tăng cường sản xuất collagen từ các nguyên bào sợi.
13, TGF-β, trong khi tế bào T trợ giúp tuýp 1 tiết ra các TGF-α và TGF-γ có tác dụng ức chế nguyên bào sợi
1.2.4 Đặc điể m lâm sàng c ủ a xơ cứ ng bì khu trú 1.2.4.1 Phân loại [4]
Hiện nay, chưa có sự thống nhất trong phân loại XCBKT Các phân loại được sử dụng chủ yếu bao gồm:
Peterson và cộng sự đã chia XC KT thành 5 nhóm Phân loại này đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi
Bảng 1.1 Phân loại theo Peterson và cộng sự năm 1995
Thể lâm sàng Mô tả
- Teo da của Pasini và Pierini
- Dạng dải (thương tổn ở chi và thân mình)
- Dạng teo nửa mặt tiến triển (hội chứng Parry- Romberg)
Dạng toàn thể Dạng lan tỏa
- Viêm cân tăng bạch cầu ái toan
- Dạng xơ cứng toàn bộở trẻ nhỏ
Trong hội nghị Padua (Italy) năm 2004, theo Laxer và Zulian XC KT được chia làm 4 nhóm [25, 43]
Bảng 1.2 Phân loại xơ cứng bì khu trú theo Laxer và Zulian
Thể lâm sàng Lâm sàng
Nông Một hoặc nhiều tổn thương hình tròn/oval giới hạn ở thượng bì và trung bì
Một hoặc nhiều tổn thương hình tròn hoặc oval tổn thương bao gồm cả mô dưới da, cân hoặc cơ.
Thân mình/chi Tổn thương tiên phát ởmô dưới da, có/ không có tổn thương da, trung bì, cân hoặc cơ. Đầu
Vết chém, teo nửa mặt tiến triển, tổn thương dạng dải ở mặt (có thể tổn thương ngay sát trên xương)
≥ 4 mảng tại ít nhất 2 vị trí của 7 vùng giải phẫu
Dạng xơ cứng toàn bộ
Tổn thương dạng mảng xuất hiện trên hầu hết các vùng của cơ thể, ngoại trừ ngón tay và ngón chân Những tổn thương này có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến da, mô dưới da, cơ và xương, nhưng không ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng.
Dạng hỗn hợp Phối hợp các týp ở trên: ví dụ: dải- mảng
1.2.4.2 Tiến triển tổn thương da [25]
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ U
Th ờ i gian nghiên c ứ u
Địa điể m nghiên c ứ u
Bệnh viện Da liễu Trung ương.
Phương pháp nghiên cứ u
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng số liệu hồi cứu
2.4.3 Các bướ c ti ế n hành nghiên c ứ u 2.4.3.1 Xây dựng bệnh án nghiên cứu: xem phần phụ lục
Hồ sơ cần đầy đủ các tiêu chuẩn về hành chính, lâm sàng và cận lâm sàng.
+ Hành chính: tuổi, giới, nghệ nghiệp, nơi ở, tuổi khởi phát, thời gian mắc bệnh
Trong quá trình khám lâm sàng, cần chú ý đến các dấu hiệu và triệu chứng trong tiền sử cũng như hiện tại, bao gồm triệu chứng toàn thân như sốt, gầy sút và mệt mỏi Bên cạnh đó, triệu chứng cơ năng như ngứa, đau cũng cần được ghi nhận, cùng với những biểu hiện trên da và các cơ quan khác.
+ Cận lâm sàng: Bệnh nhân XC KT đến khám được làm xét nghiệm:
- Sinh thiết da, nhuộm HE (theo quy trình của ệnh viện Da liễu Trung Ương)
- Sinh hóa máu: theo thường quy của ệnh viện Da liễu Trung Ương
- Công thức máu: số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, chỉ số hemoglobin
- Tổng phân tích nước tiểu để xác định chỉ số protein niệu, hồng cầu niệu, bạch cầu niệu, trụ niệu
- HBsAg, anti-HCV với những bệnh nhân có tăng enzym gan.
- XQ, siêu âm nếu nghi ngờ tổn thương xương và nội tạng.
- Xét nghiệm ANA bằng phương pháp Hep-2: theo thường quy của ệnh viện Da liễu Trung Ương
- Xét nghiệm ANA, ds DNA và anti Topo-I bằng phương pháp ELISA: Theo thường quy của ệnh viện Da liễu Trung Ương
Sử dụng bảng kiểm, máy móc: máy siêu âm, xét nghiệm huyết học, sinh hóa…
Cách thu thập thông tin: thực hiện theo quy trình sau:
Chọn mẫu bao gồm tất cả các bệnh án được chẩn đoán là bệnh xơ cứng bì khi ra viện, đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng với tổn thương da điển hình và các tiêu chuẩn cận lâm sàng như bằng chứng từ giải phẫu bệnh, miễn dịch học, huyết học và hóa sinh.
Bệnh án nghiên cứu bao gồm các thông tin quan trọng được thu thập theo mẫu bệnh án thống nhất, bao gồm tên, tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tiền sử bệnh, cùng với các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng.
Lấy số liệu từ các xét nghiệm đã thực hiện
+ Điền các thông tin trên vào bảng kiểm (bệnh án nghiên cứu)
2.4.4 X ử lý và phân tích s ố li ệ u
Dữ liệu được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 23.0, với các thống kê bao gồm tần số và tỷ lệ được tính toán cho các biến số và chỉ số quan tâm.
V ấn đề đạo đứ c trong nghiên c ứ u
Đề tài phải được thông qua Bệnh viện Da liễu Trung Ương.
Luôn bảo vệ đối tượng nghiên cứu: đặt quyền lợi, sự an toàn và bảo mật cho đối tượng nghiên cứu lên hàng đầu
Mục đích và lợi ích của nghiên cứu sẽ được giải thích rõ ràng cho tất cả bệnh nhân tham gia Thông tin thu thập từ nghiên cứu sẽ được bảo mật và chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu theo quy định của pháp luật.
Chỉ tiến hành nghiên cứu trên đối tượng nghiên cứu khi đã được sự chấp thuận của đối tượng nghiên cứu.
H ạ n ch ế c ủa đề tài
- Thời gian nghiên cứu ngắn nên không theo dõi được lâu dài diễn biến của bệnh và sự tái phát bệnh
K Ế T QU Ả
Đặc điể m lâm sàng c ủ a b ệnh nhân xơ cứ ng bì khu trú
3.1.1 Phân b ố xơ cứ ng bì khu trú theo nhóm tu ố i
Bảng 3.1 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nhóm tuối (n0)
% 55,00 14,00 3,00 15,00 7,00 3,00 100 ệnh XC KTgặp ở nhiều nhóm tuổi khác nhau, trong đó tỷ lệ mắc cao ở nhóm ≤19 tuổi (55,00%) ệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 4 tuổi và cao tuổi nhất là 75tuổi
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 25,21 ± 17,68
3.1.2 Phân b ố xơ cứ ng bì khu trú theo gi ớ i
Hình 3.1 Phân bốxơ cứng bì khu trú theo giới (n0) ệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, chiếm 82,00%
3.1.3 Phân b ố xơ cứ ng bì khu trú theo nơi ở
Hình 3.2 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nơi ở (n0)
Trong 100 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân ở thành phố là lớn nhất (50,00%), sau đó đến nông thôn (41,00%) và miền núi là ít nhất (9,00%)
3.1.4 Phân b ố xơ cứ ng bì khu trú theo ngh ề nghi ệ p
Hình 3.3 Phân bốxơ cứng bì khu trú theo nghề nghiệp (n0)
Tỷ lệ XCBKT cao nhất được ghi nhận ở học sinh - sinh viên với 57,00%, tiếp theo là người lao động tự do chiếm 16,00%, và nội trợ đạt 11,00% Trong khi đó, tỷ lệ nông dân và công nhân lần lượt là 6,00% và 4,00%.
Thành thị Nông thôn Miền núi
Cán bộ HS-SV Công nhân Nông dân Nội trợ Khác
3.1.5 Phân b ố b ệ nh theo ti ề n s ử b ệ nh c ủa đối tượ ng nghiên c ứ u 3.1.5.1 Phân bốxơ cứng bì khu trú theo thời gian mắc bệnh
Dưới dây là biểu đồ thể hiện tỷ lệ và thời gian bị bệnh của bệnh nhân tính đến thời điểm làm nghiên cứu
Bảng 3.2 Phân bốxơ cứng bì khu trú theo thời gian bị bệnh (n0)
Thời gian bệnh ≥ 5 năm < 5 năm Tổng
Qua biểu đồ ta thấy, đa số các bệnh nhân bị bệnh dưới 5 năm (71,00%)
Tỉ lệ bệnh nhân bị bệnh ≥5 năm chiếm 29,00%
3.1.5.2 Thời gian từ khi bắt đầu có triệu chứng đến khi chẩn đoán bệnh
Hình 3.4 Thời gian chẩn đoán bệnh (n0)
Thời gian chẩn đoán bệnh, từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên đến khi có chẩn đoán chính xác, thường kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm, chiếm tỷ lệ cao lên tới 57%.
Theo thống kê, 20% trẻ em dưới 18 tuổi được chẩn đoán bệnh trong vòng 6 tháng, trong khi tỷ lệ này ở người lớn chỉ đạt 12% Đáng chú ý, 33% người lớn có thời gian chẩn đoán bệnh kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm.
Nhìn chung, tỉ lệ bệnh nhân có thời gian chẩn đoán bệnh sau 1 năm thấp (11,00%) trong đó người lớn là 4,00% và trẻ em là 7,00%.
3.1.5.3 Tiền sử gia đìnhở bệnh nhân xơ cứng bì khu trú
Bảng 3.3 Tiền sửgia đình ở bệnh nhân xơ cứng bì khu trú (n0)
Gia đình có người mắc bệnh tự miễn Số bệnh nhân %
Tỉ lệ bệnh nhân có người trong gia đình cũng bị bệnh chiếm 3,00%
3.1.6 Tác nhân kích thích b ệ nh
Bảng 3.4 Tác nhân kích thích bệnh (n0)
Tác nhân kích thích bệnh Số bệnh nhân %
Tỉ lệ bệnh nhân XCBKT có yếu tố kích thích bệnh chiếm 8,00%
3.1.7 Tri ệ u ch ứ ng toàn thân
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% bệnh nhân đều không có triệu chứng toàn thân nào như sốt, sút cân hay mệt mỏi
3.1.8 Tri ệ u ch ứng cơ năng
Bảng 3.5 Triệu chứng cơ năng của xơ cứng bì khu trú (n0)
TC cơ năng Ngứa Đau Dát Không có Tổng
Tỷ lệ bệnh nhân có ngứa tại vị trí tổn thương chiếm 10,00%, đau 1,00%, và hầu hết không có triệu chứng cơ năng
3.1.9 T ổn thương da 3.1.9.1 Tổn thương ban đầu
Bảng 3.6 Tổn thương ban đầu (n0)
Vị trí Đầu mặt cổ Thân Cánh tay
Ngón tay Chân Bàn chân Tổng
Vị trí tổn thương ban đầu ở bệnh nhân XC KT thường xuất hiện trên toàn bộ cơ thể, với tỉ lệ cao nhất ở chân (27,00%), tiếp theo là thân (25,00%), cánh tay (23,00%) và đầu mặt cổ (21,00%) Tổn thương ít gặp hơn ở bàn tay (3,00%) và ngón tay (1,00%).
Bảng 3.7 Biểu hiện lâm sàng (n0)
Biểu hiện xơ cứng da được chia làm 3 mức độ: da dày, giảm cử động và không véo được
Hầu hết tổn thương trên da ở mức da dày, biểu hiện lâm sàng chủ yếu ở vùng chân (38 BN) và thân mình (33 BN), bệnh ít biểu hiện ở vùng bàn chân
(6 BN) và bàn tay, ngón tay (11 BN)
Tại vùng bàn tay và chân, tỷ lệ tổn thương da cho thấy sự tương đồng đáng kể, với 45,45% bệnh nhân ở vùng bàn tay gặp tình trạng dày da và 54,55% có giảm cử động Tương tự, vùng chân ghi nhận 44,74% bệnh nhân bị dày da và 42,11% có dấu hiệu giảm cử động.
Mức độ xơ cứng nặng nhất là không véo được, trong đấy, vị trí chân có
5 bệnh nhân và hầu như không biểu hiện ở vùng bàn tay
Hình 3.5 Phân loại tổn thương (n0)
Hình 3.5 cho thấy dạng mảng là dạng thường gặp nhất chiếm 53,00%
Dạng dải và dạng lan tỏa chiếm tỷ lệ thấp hơn (27,00% & 16,00%)
Có 4,00% bệnh nhân có tổn thương dạng sâu và không có bệnh nhân nào tổn thương dạng bọng nước
Dạng dải Dạng mảng Dạng lan tỏa Dạng sâu Dạng bọng nước Dạng tổn thương
3.1.9.4 Biểu hiện của bệnh trên da
Hình 3.6 Biểu hiện trên da (n0)
Tổn thương phổ biến nhất liên quan đến rối loạn sắc tố, chiếm 89%, tiếp theo là teo da với tỷ lệ 70%, và xơ cứng đạt 67% Các dạng tổn thương ít gặp hơn bao gồm viêm đỏ (14%) và giãn mạch (4%).
3.1.10 T ổn thương cơ quan khác
Bảng3.8 Tỉ lệ bệnh nhân có tổn thương các cơ quan ngoài da (n0)
Biến dạng khớp 8 (8,00%) 92 100 Ảnh hưởng tăng trưởng cơ xương 7 (7,00%) 93 100
Viêm đỏ Giãn mạch Xơ cứng Teo da Rối loạn sắc tố
Trong nghiên cứu XCBKT, 100% bệnh nhân không gặp phải tổn thương ở tim, phổi, hệ tiêu hóa và thận Tỷ lệ bệnh nhân có biến dạng khớp là 8,00%, trong khi 7,00% bệnh nhân bị ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ xương Ngoài ra, có 1,00% bệnh nhân mắc bệnh tự miễn khác.
Mô t ả đặc điể m c ậ n lâm sàng c ủa xơ cứ ng bì khu trú
Bảng 3.9 Tỷ lệ bệnh nhân có thay đổi về huyết học (n0)
Tăng bạch cầu Tăng bạch cầu ái toan Thiếu máu Giảm tiểu cầu Tăng máu lắng 1h
Các rối loạn huyết học thường gặp là tăng bạch cầu ái toan (11,00%), tăng tốc độ máu lắng (9,00%)
Bảng 3.10 Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn tự kháng thể
Dương tính Âm Tính Tổng
Kháng thểkháng nhân dương tính ở 14 bệnh nhân (43,75%), ds DNA dương tính ở 48,72% bệnh nhân, Anti Topo-I chỉdương tính ở 3,51% bênh nhân @
Hình 3.7 Rối loạn tự kháng thể ở dạng dải
Tỷ lệ bệnh nhân dương tính với kháng thể ANA đạt 22,22%, kháng thể dsDNA là 25,93% và kháng thể anti Topo-I là 3,70% Trong khi đó, tỷ lệ bệnh nhân âm tính với các kháng thể này lần lượt là 14,81% cho ANA, 14,81% cho dsDNA và 66,67% cho anti Topo-I Đáng chú ý, có một tỷ lệ cao bệnh nhân không thực hiện các xét nghiệm này.
Hình 3.8 Rối loạn tự kháng thể ở dạng mảng
Dương tính Âm tính Không làm
Dương tính Âm tính Không làm
Tỷ lệ các bệnh nhân dạng dải dương tính với ANA, dsDNA, và Anti Topo-I lần lượt là 9,43%, 11,32% và 1,89% Tỷ lệ âm tính lần lượt là:
Hình 3.9 Rối loạn tự kháng thểở dạng lan tỏa
Tỷ lệ cao các bệnh nhân dạng lan tỏa dương tính với dsDNA (37,50%) tiếp theo là ANA (18,75%), không có bệnh nhân nào dương tính với Anti Topo-I
Các tự kháng thể chủ yếu xuất hiện dưới dạng dải và dạng mảng, trong khi dạng lan tỏa ít gặp hơn Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận trường hợp bệnh nhân nào có tổn thương dạng bọng nước và dạng sâu đi kèm với sự hiện diện của các tự kháng thể.
Trong 100 bệnh nhân mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tất cảđều có tổn thương dạng xơ cứng bì trên giải phẫu bệnh
Dương tính Âm tính Không làm
Đặc điể m lâm sàng
1.1 Đặc điểm về tuổi và giới
Theo nghiên cứu của chúng tôi, bệnh XC KT có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, với bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 4 và lớn tuổi nhất là 75, tuổi trung bình là 25,21 ± 17,68 Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Ths SNT Phạm ích Ngọc, trong đó tuổi trung bình là 22,2 Sự khác biệt này có thể do kích thước mẫu nghiên cứu, với 100 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi so với 57 bệnh nhân trong nghiên cứu của Ths Ngọc.
Tỷ lệ mắc ở nhóm ≤19 tuổi tương đối cao 55%), điều này phù hợp với y văn thế giới cho rằng XC KT gặp chủ yếu ở trẻ em
Giống như nhiều bệnh lý mô liên kết khác, bệnh XC KT chủ yếu ảnh hưởng đến nữ giới, với tỷ lệ nữ chiếm 82% và nam giới 18%, tương ứng tỷ lệ 4,56:1 Tỷ lệ này tương tự như trong nghiên cứu của Phạm ích Ngọc (5,5) và Toledano (4,78), nhưng cao hơn so với nghiên cứu ở trẻ em của Christen-Zaech (2,42) và Zulian (2,4), cũng như nghiên cứu trên bệnh nhân XC KT dạng dải (2,2) Sự khác biệt này có thể do tỷ lệ nam mắc bệnh thường cao hơn (42,3%) trong nghiên cứu của Uziel và cộng sự, đặc biệt ở thể dải, dạng bệnh thường gặp ở trẻ em.
1 2 Phân bố bệnh theo nghề nghiệp và địa dư
Trong nghiên cứu với 100 bệnh nhân, các ngành nghề đa dạng đã được ghi nhận Tỉ lệ mắc cao nhất thuộc về học sinh - sinh viên với 57,00%, tiếp theo là nghề tự do với 16,00% Nhóm nội trợ chiếm 11,00%, trong khi nông dân và cán bộ có tỷ lệ bằng nhau là 6,00% Nhóm công nhân có tỷ lệ thấp nhất, chỉ đạt 4,00%.
Về địa dư chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân ở thành phố chiếm tỉ lệ cao nhất (50,00%), tiếp theo là nông thôn (41,00%) và miền núi (9,00%)
Tỷ lệ mắc bệnh cao ở học sinh và sinh viên, trong khi thấp hơn ở nhóm cán bộ và công nhân, có thể được lý giải bởi sự phân bố độ tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi.
Trong đó nhóm bệnh nhân dưới tuổi (độ tuổi đang đi học) chiếm tỷ lệ
Tỷ lệ mắc bệnh V NU cao, đạt 49,00%, với nhóm lao động tự do và nội trợ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với nông dân và công nhân Điều này phản ánh sự khác biệt trong nhận thức về bệnh tật và ý thức chăm sóc sức khỏe Người dân thành phố thường có nhiều điều kiện và thời gian hơn để khám và điều trị tại bệnh viện tuyến trung ương, trong khi bệnh XC KT thường không có biểu hiện nguy hiểm đến tính mạng Do đó, nhiều bệnh nhân ở khu vực xa xôi, những người không có thời gian và điều kiện, thường tự chữa bệnh mà không đi khám.
1 3 Thời gian ch ẩn đoán bệnh của bệnh nhân xơ cứng bì khu trú
Tổn thương hoạt tính sớm của XC KT thường biểu hiện qua dát đỏ, bờ viêm đỏ hoặc tím hoa cà, cùng với da cứng hoặc phù nề Sau đó, bệnh nhân sẽ thấy các tổn thương phá hủy như dày da, teo da, và thay đổi sắc tố Những dấu hiệu sớm này thường bị bỏ qua, dẫn đến thời gian từ khi khởi phát đến khi chẩn đoán kéo dài Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 57% bệnh nhân được chẩn đoán sau 6 tháng khởi phát và 11% sau 1 năm Việc chẩn đoán muộn làm trì hoãn điều trị, khi các tổn thương đã xuất hiện Do đó, cần tăng cường tuyên truyền giáo dục sức khỏe để giúp bệnh nhân sớm phát hiện và điều trị bệnh.
Nghiên cứu của Johnson cho thấy trẻ em được chẩn đoán bệnh sớm hơn người lớn, với 20% trẻ em được chẩn đoán trong vòng 6 tháng từ khi bệnh khởi phát, trong khi chỉ có 12% người trưởng thành được chẩn đoán trong khoảng thời gian tương tự Sự khác biệt này có thể xuất phát từ nhận thức và sự quan tâm cao hơn của gia đình đối với sức khỏe của trẻ em mắc bệnh.
Trong nghiên cứu với 100 bệnh nhân, có 29% số bệnh nhân đã mắc bệnh trên 5 năm Tỷ lệ cao này giải thích sự xuất hiện của các tổn thương teo da và cứng da, cho thấy đây là những tổn thương tiến triển lâu năm.
1 4 Yếu tố kích thích bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ yếu tố kích thích được ghi nhận là 8,00% ở bệnh nhân, chủ yếu do chấn thương Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Phạm Ích Ngọc, với tỷ lệ 7%, nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Christen-Zaech trên 136 bệnh nhân.
Theo nghiên cứu của Zulian trên 750 trường hợp, có 13,8% bệnh nhân liên quan đến yếu tố kích thích, trong khi đó XC KT cho thấy tỷ lệ này là 13,2% Điều này cho thấy yếu tố kích thích đóng vai trò quan trọng trong sự khởi phát bệnh, phù hợp với các tài liệu y khoa quốc tế.
Tiền sử gia đình bệnh nhân XC KT cho thấy có 3,00% trường hợp có tiền sử mắc bệnh tự miễn Các bệnh tự miễn phổ biến bao gồm XC HT, lupus ban đỏ hệ thống và XCBKT Một nghiên cứu của Vanchesswanran và cộng sự ghi nhận 12,7% trong số 47 bệnh nhân XC KT có tiền sử gia đình mắc bệnh tự miễn Tương tự, nghiên cứu của Zulian và cộng sự trên 750 trẻ em mắc XC KT cho thấy 12,1% bệnh nhân có tiền sử gia đình bị bệnh tự miễn, với viêm khớp dạng thấp và XC HT là những bệnh thường gặp nhất.
XC HT trong gia đình của 5 bệnh nhân XC KT với tỷ lệ 2,6% [18]
Tiền sử bị xơ cứng bì (XC KT) đã được ghi nhận trong hai thế hệ của một gia đình và ở mối quan hệ cha con Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện hai chị em gái trong cùng một gia đình đều mắc bệnh XC KT Ngoài ra, lupus ban đỏ hệ thống cũng đã được phát hiện ở các thành viên trong gia đình bệnh nhân XC KT, thậm chí có trường hợp kết hợp giữa XC KT và lupus ban đỏ Trong nghiên cứu của chúng tôi, có một bệnh nhân XC KT có chị gái bị lupus ban đỏ.
Nhiều nghiên cứu, bao gồm cả nghiên cứu của Leitenberger, đã báo cáo về sự xuất hiện bệnh lý tự miễn ở bệnh nhân XC KT với tỷ lệ khá cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ các bệnh lý tự miễn thường gặp là viêm tuyến giáp Hashimoto, bạch biến và đái tháo đường không phụ thuộc insulin, với 1 trường hợp bạch biến (1,00%) Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Phạm ích Ngọc (5,3%) nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Weibel và cộng sự (28) trên 34 bệnh nhân.
V NU nhân XC KT thấy 9,00% trường hợp có bạch biến hay Christen-Zaech [44] ghi nhận xuất hiện bệnh tự miễn thứ 2 gặp ở 9,6% bệnh nhân XC KT.
Tiền sử bản thân hay gia đình bị các bệnh tự miễn giúp củng cố giả thiết bệnh tự miễn trong cơ chế bệnh sinh của XC KT.
1.6.1 Tổn thương ban đầu Đa số các bệnh nhân có biểu hiện ban đầu ở vùng chân (27,00%) và thân (25,00%) hay vùng cánh tay (23,00%) Điều này cũng phù hợp với những yếu tố kích thích bệnh như chấn thương, côn trùng đốt
1.6.2 Phân loại theo thể lâm sàng