GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP
Giới thiệu khái quát về doanh nghiệp
- Tên công ty: Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng
- Địa chỉ trụ sở chính: Số 8A Trần Phú, phường Máy Tơ, quận Ngô
Quyền, thành phố Hải Phòng
- Địa chỉ website: www.haiphongport.com.vn
Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng, tiền thân là Công ty TNHH MTV Cảng Hải Phòng, là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Công ty đã được cổ phần hóa và hoạt động theo hình thức Công ty Cổ phần theo Luật doanh nghiệp, với Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0200236845 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp vào ngày 01/07/2014 Từ đó, công ty đã nhận được nhiều Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sửa đổi, với lần sửa đổi gần nhất là lần thứ 9, được cấp vào ngày 01/02/2020.
Ngành nghề kinh doanh
3 Cho thuê kho bãi, văn phòng
4 Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khác liên quan đến vận tải
5 Sửa chữa máy móc thiết bị
6 Vệ sinh công nghiệp và các công trình chuyên biệt
7 Cho thuê máy móc, thiết bị và đồ dùng hữu hình khác không kèm người điều khiển
8 Đào tạo sơ cấp, trung cấp
Cơ cấu bộ máy quản lý
Dựa trên tình hình sản xuất kinh doanh và chiến lược phát triển, Cảng Hải Phòng đã tiến hành tái cấu trúc các phòng nghiệp vụ từ năm 2014 đến 2019, giảm số lượng từ 10 phòng xuống còn 6 phòng và 2 trung tâm hiện tại.
Bảng danh sách các thành viên các ban:
Ban Họ và tên Chức vụ
Hội đồng Quản trị Ông Phùng Xuân Hà Chủ tịch Ông Lương Đình Minh Thành viên Ông Nguyễn Văn Dũng Thành viên
Bà Đỗ Thị Thanh Thủy, ông Vũ Quyết Thắng, ông Nguyễn Xuân Kỳ, ông Nguyễn Tường Anh và ông Nguyễn Quang Dũng đều là các thành viên quan trọng trong tổ chức.
Ban Tổng Giám đốc gồm Ông Nguyễn Tường Anh giữ chức Tổng Giám đốc, Ông Cao Trường Ngoan là Phó Tổng Giám đốc, Ông Phạm Hồng Minh đảm nhận quyền Tổng Giám đốc, và Ông Phan Tuấn Linh là Phó Tổng Giám đốc.
Bà Đào Thị Thu Hà Trưởng ban
Thành viên Ông Lê Duy Lương Thành viên
Bà Đào Thị Phương Lan Trưởng ban Ông Nguyễn Thị Hằng Thành viên
Bà Phạm Thị Thu Hương Thành viên
Các công ty con, công ty liên kết
Vào tháng 2 năm 2016, Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng đã chuyển đổi mô hình hoạt động của 3 đơn vị trực thuộc sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, với Cảng Hải Phòng là chủ sở hữu Các đơn vị này bao gồm Công ty TNHH một thành viên Cảng Hoàng Diệu và Công ty TNHH một thành viên Trung tâm Hiện tại, Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng có tổng cộng 6 đơn vị trực thuộc.
Cảng Hải Phòng, thuộc Công ty TNHH một thành viên Đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ Cảng Hải Phòng, hiện có hai đơn vị trực thuộc là chi nhánh Cảng Tân Vũ và chi nhánh Cảng Chùa Vẽ.
1 Công ty Cổ Phần Tiếp Vận Đình Vũ
2 Công ty TNHH Tiếp vận SITC-Đình Vũ
3 Công ty cổ phần HPH Logistics
4 Công ty cổ phần Vận Tải Container Đông Đô
5 Công ty cổ phần Logistics Cảng Sài Gòn
6 Công ty cổ phần Đầu tư và thương mại hàng hải Hải Phòng
7 Công ty cổ phần đầu tư và phát triển dịch vụ Cảng Hải
8 Công ty cổ phần Vinalines Đông Bắc
Định hướng phát triển dài hạn
Vào ngày 09/10/2019, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã ký Quyết định số 1323/QĐ-TTg phê duyệt đầu tư cho Dự án bến cảng container quốc tế số 3 và số 4 tại Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng Dự án này dự kiến khởi công vào năm 2020 và hoàn thành vào năm 2025, trong đó bến số 3 sẽ được đưa vào khai thác từ năm 2022.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG HẢI PHÒNG
Đánh giá chung tình hình thực hiện sản lượng năm 2019-2020
Chỉ tiêu Ký hiệu Đơn vị Năm 2019 Năm 2020 So sánh
(%) Chênh lệch Sản lượng thông qua ∑
Năm 2019, sản lượng thông qua Cảng Hải Phòng đạt 26,918,191 TTQ/năm, vượt kế hoạch 4.89% so với mục tiêu 25,662,000 TTQ Năm 2020, sản lượng tiếp tục tăng lên 27,823,047 TTQ, vượt kế hoạch 1.17% (27,500,000 TTQ), mặc dù chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh So với năm 2019, sản lượng năm 2020 tăng 3,36%, tương đương 904,856 TTQ/năm Dù gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, Cảng Hải Phòng vẫn duy trì hoạt động sản xuất ổn định, giữ vững khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới nhờ vào sự chỉ đạo quyết liệt của Ban lãnh đạo và các giải pháp đổi mới sáng tạo, tập trung vào nhu cầu khách hàng.
Phân tích chi tiết tình hình thực hiện sản lượng theo các nội dung cụ thể
Trong bài sẽ sử dụng phương pháp phân tích là phương pháp cân đối và phân tích theo các nội dung khác nhau.
Theo số liệu của Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng đã công bố, ta có tỷ trọng các loại mặt hàng như sau:
1.2 Bảng phân tích tình hình thực hiện sản lượng theo mặt hàng: ĐVT: TTQ
Tổng sản lượng thông qua cảng biến động chủ yếu do sự thay đổi sản lượng của các mặt hàng Nhiều mặt hàng ghi nhận sự giảm, cụ thể là lương thực và TAGS giảm 48.48%, klinker, quặng, thạch cao giảm 36.96%, phân bón giảm 24.8% và máy, thiết bị giảm 26.43% Tuy nhiên, một số mặt hàng như hàng container tăng 2.48%, sắt thép tăng 19.1% và các mặt hàng khác tăng 5.11% cũng góp phần làm tăng tổng sản lượng thông qua Để hiểu rõ hơn về sự biến động này và ảnh hưởng của từng mặt hàng, cần phân tích chi tiết từng loại hàng hóa.
Theo như bảng phân tích, sản lượng container thông qua cảng năm
Năm 2019, sản lượng container thông qua cảng đạt 20,308,000 (TTQ), vượt chỉ tiêu kế hoạch 2.1% và chiếm 75.44% tổng sản lượng Tuy nhiên, năm 2020, sản lượng giảm xuống còn 20,811,639 (TTQ), không đạt chỉ tiêu kế hoạch và chỉ chiếm 74.80% tổng sản lượng Mặc dù vậy, sản lượng container vẫn tăng 2.48%, tương ứng với 503,639 (TTQ), cho thấy ảnh hưởng của hàng container đến tổng sản lượng thông qua với mức độ ảnh hưởng (MĐAH) là 1.87%.
Sản lượng container tăng lên nhờ vào nhiều nguyên nhân quan trọng Đầu tiên, mặc dù dịch COVID-19 diễn ra, doanh nghiệp vẫn tuân thủ nguyên tắc “3 tại chỗ”, giúp hoạt động tại cảng không bị gián đoạn và duy trì uy tín với khách hàng Thứ hai, vận chuyển hàng bằng container mang lại nhiều tiện ích, thu hút khách hàng lựa chọn phương thức này Thứ ba, tình trạng thiếu container rỗng đã làm tăng số lượng container luân chuyển giữa các cảng Thứ tư, mặc dù giá cước vận chuyển tăng, CTCP cảng Hải Phòng vẫn áp dụng chính sách hậu mãi hỗ trợ khách hàng, dẫn đến nhiều lựa chọn container trong vận chuyển hàng hóa Thứ năm, sự cạnh tranh về giá xếp dỡ giữa các cảng trong khu vực đã thúc đẩy doanh nghiệp đưa ra các chính sách giá hấp dẫn, thu hút thêm khách hàng Cuối cùng, mặc dù sản lượng năm 2020 tăng so với năm 2019, nhưng chưa đạt mục tiêu do sự cạnh tranh trong việc chia sẻ thị phần giữa các cảng mới trong khu vực.
Sản lượng hàng container có ảnh hưởng rõ rệt đến tổng sản lượng thông qua của cảng, với đa số tác động là tích cực.
Theo bảng phân tích, sản lượng hàng sắt thép thông qua cảng trong năm 2019 đạt 4,158,000 (TTQ), chiếm 15.45% tổng sản lượng Đến năm 2020, sản lượng tăng lên 4,952,502 (TTQ), tương đương 17.80% tổng sản lượng Sự gia tăng này phản ánh mức tăng 19.1%, tương ứng với 794,502 (TTQ) Như vậy, hàng sắt thép đã đóng góp 3% vào tổng sản lượng thông qua cảng.
Sản lượng hàng sắt thép tăng trưởng nhờ vào ba nguyên nhân chính Đầu tiên, các doanh nghiệp đã thực hiện chính sách duy trì tốc độ tăng trưởng và bảo vệ thị phần cảng biển bằng cách chiếm lĩnh thị trường, tăng khối lượng và chất lượng dịch vụ, đặc biệt trong lĩnh vực xếp dỡ và vận chuyển sắt thép siêu trường siêu trọng Thứ hai, mặc dù Trung Quốc có sản lượng thép dư thừa xuất khẩu, nhưng Nhà nước vẫn bảo trợ cho ngành sản xuất thép trong nước, hạn chế nhập khẩu và làm tăng sản lượng thép vận chuyển qua các cảng Cuối cùng, nhu cầu vật liệu xây dựng cho các bệnh viện dã chiến phục vụ điều trị COVID-19 đã dẫn đến sự gia tăng sản lượng sắt thép thông qua cảng.
Từ những nguyên nhân trên có thể thấy sản lượng sắt thép thông qua cảng đã có tác động tích cực đến tổng sản lượng thông qua cảng.
Theo bảng phân tích, sản lượng hàng lương thực thông qua cảng năm 2019 đạt 162,000 tấn, chiếm 0.60% tổng sản lượng, trong khi năm 2020 chỉ đạt 83,469 tấn, giảm xuống còn 0.30% Cảng chưa đạt chỉ tiêu sản lượng hàng lương thực và thức ăn gia súc, với tổng sản lượng giảm 48.48%, tương ứng với 78,531 tấn Sự sụt giảm này đã ảnh hưởng đến tổng sản lượng thông qua, làm MĐAH giảm 0.29%.
Sản lượng lương thực thông qua cảng giảm sút do hai nguyên nhân chính Thứ nhất, lũ lụt và hạn hán ở miền Trung và miền Bắc đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mùa vụ, khiến sản lượng thu hoạch của nông dân giảm và không thể lưu thông, xuất khẩu Thứ hai, sự cạnh tranh khốc liệt trong thị trường vận chuyển, đặc biệt là từ các nước như Indonesia, Trung Quốc và Hàn Quốc, với đội tàu lớn mạnh và chất lượng dịch vụ cao nhưng giá cước thấp hơn, đã tạo ra khó khăn cho việc vận chuyển hàng lương thực cả trong và ngoài nước.
Sự giảm nhu cầu thuê vận chuyển của doanh nghiệp đã tác động tiêu cực đến ngành logistics Thêm vào đó, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch, Việt Nam vẫn duy trì khả năng sản xuất lương thực và tự cung tự cấp, dẫn đến việc không cần nhập khẩu hàng lương thực Điều này đã làm giảm lượng hàng lương thực thông qua cảng, góp phần vào sự sụt giảm tổng sản lượng thông qua.
1.3.2.4 Hàng Klinker, thạch cao, quặng:
Theo bảng phân tích, sản lượng hàng klinker, thạch cao và quặng thông qua cảng năm 2019 đạt 662,000 (TTQ), chiếm 2.46% tổng sản lượng, nhưng giảm xuống còn 417,346 (TTQ) vào năm 2020, chỉ chiếm 1.50% Cảng không đạt chỉ tiêu sản lượng cho các mặt hàng này trong cả hai năm Đặc biệt, sản lượng hàng lương thực giảm 36.96%, tương ứng với 244,654 (TTQ), ảnh hưởng tiêu cực đến tổng sản lượng thông qua với mức giảm 0.91%.
Sản lượng hàng klinker, thạch cao và quặng giảm do một số nguyên nhân chính Thứ nhất, mặc dù Thành phố Hải Phòng đã giảm 20% phí sử dụng công trình hạ tầng, nhưng chi phí vẫn cao (khoảng 16,000đ/tấn), khiến nhiều chủ hàng chuyển tàu ra ngoài khu vực Quảng Ninh để tiết kiệm chi phí Thứ hai, việc các doanh nghiệp xếp dỡ khai thác hàng ngoài container dẫn đến cung vượt cầu, làm giá cước dịch vụ xếp dỡ giảm mạnh (giá cước tại các cảng lân cận giảm từ 25-40% so với cảng Hải Phòng), khiến khách hàng chọn cảng khác dù cảng Hải Phòng có chính sách giá tốt Những yếu tố này đã tác động tiêu cực đến tổng sản lượng thông qua cảng hàng năm.
Theo bảng phân tích, sản lượng phân bón thông qua cảng năm 2019 đạt 74,000 TTQ, chiếm 0.27% tổng sản lượng, trong khi năm 2020 chỉ đạt 55,646 TTQ, tương đương 0.20% Cảng không đạt chỉ tiêu sản lượng phân bón trong cả hai năm Đặc biệt, sản lượng hàng lương thực giảm 24.8%, tương ứng với mức giảm 18,354 TTQ, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến tổng sản lượng thông qua với MĐAH giảm 0.06%.
Sản lượng phân bón giảm chủ yếu do nhu cầu trong nước thấp, ảnh hưởng bởi lũ lụt và hạn hán, khiến sản xuất nông nghiệp chưa phục hồi hoàn toàn Tuy nhiên, mức giảm không quá cao cho thấy các khu vực sản xuất nông nghiệp đang dần hồi phục Thêm vào đó, việc vận chuyển phân bón chủ yếu bằng đường bộ từ các nhà máy tại ba miền Bắc, Trung, Nam đã làm giảm sản lượng hàng hóa thông qua, vì phương án này thường tiện lợi hơn so với vận chuyển đường biển Cuối cùng, việc luồng chưa được nạo vét kịp thời cũng ảnh hưởng đến khả năng đàm phán và thu hút khách hàng.
Như vậy, những nguyên nhân trên có tác động tiêu cực đến tổng sản lượng hàng hóa thông qua.
Theo bảng phân tích, sản lượng hàng máy móc, thiết bị thông qua cảng năm 2019 đạt 416,000 (TTQ), vượt chỉ tiêu kế hoạch 3.37% và chiếm 1.55% tổng sản lượng thông qua Tuy nhiên, năm 2020, sản lượng giảm xuống còn 306,054 (TTQ), không đạt chỉ tiêu và chỉ chiếm 1.10% tổng sản lượng Đặc biệt, sản lượng hàng lương thực giảm 26.43%, tương ứng với 109,946 (TTQ), dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến tổng sản lượng thông qua với mức giảm 0.41%.
Sản lượng máy móc và thiết bị qua cảng giảm sút do hai nguyên nhân chính Thứ nhất, quan hệ thương mại căng thẳng giữa Nhật Bản và Hàn Quốc đã ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu máy móc và công nghệ của Việt Nam, đặc biệt từ các doanh nghiệp Hàn Quốc Thứ hai, tình hình dịch bệnh COVID-19 kéo dài đã tác động tiêu cực đến ngành sản xuất máy móc, thiết bị, điện tử và điện thoại, với 25% nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc và 5,7% từ Hàn Quốc Mức suy giảm của ngành này lên tới 20% qua từng quý trong thời gian dịch bệnh, dẫn đến sụt giảm sản lượng hàng hóa.