Đại cương về sơ sinh nhẹ cân
- Một số đặc điểm của sơ sinh nhẹ cân sau:
+ Trẻ đẻ sống (Từ tuần thai thứ 22 và đẻ có dấu hiệu sống: nhịp thở, nhịp tim, cử động).
- Cách tính: Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân được tính theo công thức:
Tổng số sơ sinh nhẹ cân - x 100(%) Tổng số sơ sinh sống
1.1.2 Phân loại sơ sinh nhẹ cân: Theo WHO phân loại trọng lượng trẻ sơ sinh nhẹ cân lúc đẻ như sau:
Trẻ thấp cân được định nghĩa là những bé có trọng lượng khi mới sinh từ 2000 gram đến 2499 gram Trong khi đó, trẻ rất thấp cân là những bé có trọng lượng từ 1500 gram đến 1999 gram Đặc biệt, trẻ rất rất thấp cân có trọng lượng lúc mới sinh dưới 1000 gram.
+ Trẻ cực kỳ thấp cân: có trọng lượng lúc mới đẻ dưới 1000 gram.
1.1.3 Một số yếu tố liên quan tới sơ sinh nhẹ cân
Yếu tố dinh dưỡng bà mẹ
Dinh dưỡng của bà mẹ trong thời kỳ mang thai đóng vai trò quyết định đến sức khỏe và sự phát triển của thai nhi Chế độ ăn uống không đầy đủ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của bào thai, dẫn đến trẻ sinh ra có trọng lượng thấp Do đó, bà mẹ cần tăng cường khẩu phần ăn và đảm bảo dinh dưỡng cân đối để cung cấp đủ năng lượng và các chất cần thiết cho sự phát triển của thai nhi cũng như cho việc tạo sữa sau này.
Tình trạng thiếu dinh dưỡng ở phụ nữ, đặc biệt là mẹ bầu, thường được nhận diện qua thiếu cân và chiều cao thấp, là hệ quả của việc thiếu năng lượng kéo dài từ khi sinh ra đến tuổi trưởng thành Do đó, can thiệp dinh dưỡng cho lứa tuổi vị thành niên, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và phụ nữ mang thai là rất quan trọng, giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm tỷ lệ trẻ nhẹ cân.
Tăng cân của mẹ trong thai kỳ rất quan trọng cho sự phát triển của thai nhi, đặc biệt là ở những bà mẹ có cân nặng thấp trước khi mang thai Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị phụ nữ ở các nước đang phát triển nên tăng ít nhất 1 kg mỗi tháng trong 6 tháng cuối thai kỳ, với tổng mức tăng tối thiểu là 6 kg trong suốt thời gian mang thai Nếu mẹ không đạt được mức tăng này, sự phát triển của thai nhi có thể bị ảnh hưởng Mức tăng cân lý tưởng nên đạt từ 10-12 kg, giúp đảm bảo thai nhi phát triển khỏe mạnh và mẹ tích lũy đủ mỡ để tạo sữa sau sinh.
Bệnh tật của bà mẹ trong thời kỳ mang thai
Sinh đẻ là chức năng tự nhiên của phụ nữ và thường không gây hại cho sức khỏe Tuy nhiên, nếu phụ nữ thuộc nhóm nguy cơ cao, cần cân nhắc kỹ lưỡng khi mang thai để bảo vệ cả mẹ và thai nhi.
Tình trạng sức khỏe của người mẹ trong thai kỳ có thể ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thai nhi Nếu người mẹ có sức khỏe yếu, thai nhi có thể bị ảnh hưởng đến sự phát triển, đồng thời mẹ cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình chuyển dạ, vì điều này đòi hỏi nhiều sức lực.
Tình trạng bệnh lý trong thai kỳ có thể dẫn đến giảm năng lượng cung cấp cho mẹ và thai nhi, gây ra thai suy yếu Sự trao đổi chất của người mẹ cần duy trì hoặc tăng lên để bảo vệ cơ thể, nhưng điều này có thể làm giảm năng lượng cho thai Giảm lưu lượng máu đến tử cung, bánh rau và màng ối có thể dẫn đến thiếu oxy và chất dinh dưỡng, gây trẻ nhẹ cân Các triệu chứng bệnh lý như tiền sản giật, sản giật và thiếu máu cản trở sự phát triển của thai, có thể dẫn đến sinh non và chậm phát triển trong tử cung.
Nghiên cứu của Trương Ngô Ngọc Lan chỉ ra rằng, bà mẹ sinh con từ lần thứ ba trở đi có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 19 lần so với những bà mẹ sinh con lần đầu hoặc lần thứ hai Nếu con lần này có giới tính giống con trước, khả năng sinh con nhẹ cân tăng gấp 5,01 lần so với khi con có giới tính khác Ngoài ra, bà mẹ gặp nhiều triệu chứng nghén trong thai kỳ có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 8,78 lần so với những bà mẹ không nghén hoặc nghén ít Cuối cùng, bà mẹ mắc bệnh trong 6 tháng cuối thai kỳ có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 4,7 lần so với những bà mẹ không mắc bệnh trong thời gian này.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Bình chỉ ra rằng một số yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh non ở bà mẹ trong thời kỳ mang thai bao gồm: ối vỡ non (44,9%), mẹ sốt trong vòng 3 ngày trước hoặc sau sinh (23,6%), mẹ trên 35 tuổi (15,7%) và mẹ bị tiền sản giật (12,4%).
Nghiên cứu của Ngô Thị Quỳnh Lan chỉ ra rằng viêm nha chu là yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến sinh non và sinh nhẹ cân, với tỉ số chênh OR đã hiệu chỉnh là 1,97 (KTC 95%: 1,01 – 3,84) Ngoài ra, tăng trọng của mẹ trong thai kỳ cũng là yếu tố nguy cơ, đặc biệt khi tăng trọng dưới 6 kg.
(OR = 22,42, KTC 95%: 7,4 – 67,92), tăng trọng 6 – 9 kg (OR = 4,1, KTC 95%: 2,05 – 8,21) [11]
Tiên lượng sinh non dựa trên tiền sử sản khoa đã được áp dụng từ lâu nhằm can thiệp kịp thời cho các thai kỳ tiếp theo, như khâu vòm cổ tử cung hoặc tiêm progesterone cho những thai nhi có nguy cơ cao Tuy nhiên, tỷ lệ sinh non vẫn không giảm trong 30 năm qua do chưa có phương pháp phát hiện sớm hiệu quả trong thăm khám sản khoa Các nhà khoa học đang nỗ lực tìm kiếm các biện pháp phát hiện sớm sinh non để giảm nguy cơ cho mẹ và thai nhi Các yếu tố tiên lượng bao gồm siêu âm đo chiều dài cổ tử cung, hình thái thai nhi, và tiền sử sinh nở, kết hợp với các yếu tố cá nhân của mẹ như chiều cao và cân nặng.
Khoảng cách giữa các lần sinh
Khi khoảng cách giữa hai lần sinh quá gần, phụ nữ đối mặt với nhiều nguy cơ cho cả bản thân và thai nhi Đối với thai phụ sinh mổ, các nguy cơ có thể bao gồm chửa vết mổ, rau cài răng lược và vỡ tử cung Đối với thai nhi, nguy cơ cao sinh non, nhẹ cân và chậm phát triển trong tử cung là những mối lo ngại chính.
Tuổi tác của người mẹ có ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe thai nhi, khi mẹ càng lớn tuổi, cơ thể càng suy yếu và lưu thông máu kém, dẫn đến việc cung cấp dinh dưỡng cho thai nhi bị hạn chế, gây chậm phát triển trong tử cung Ngoài ra, các bà mẹ lớn tuổi thường phải đối mặt với áp lực tâm lý và gánh nặng công việc nặng nề hơn so với những bà mẹ trẻ Việc mang thai lần đầu sau 35 tuổi cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, bao gồm nguy cơ dị tật bẩm sinh và chậm phát triển trí tuệ ở trẻ, những vấn đề này có thể không được phát hiện ngay sau khi sinh mà có thể xuất hiện sau vài năm.
Lao động nặng trong thời gian mang thai có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng cho thai nhi, bao gồm sẩy thai và sinh non Các điều kiện làm việc khắc nghiệt, như chấn động mạnh và tiếp xúc với môi trường độc hại, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự phát triển của thai nhi Do đó, việc đảm bảo môi trường sống và điều kiện lao động an toàn cho phụ nữ mang thai là rất quan trọng để giảm thiểu nguy cơ sinh non và trẻ nhẹ cân.
Nghiên cứu của Bansal.P và cộng sự chỉ ra rằng phụ nữ làm công việc nhẹ nhàng và thao tác với dụng cụ dưới 5kg có khả năng thụ thai và sinh con tốt nhất Ngược lại, tiếp xúc với thuốc trừ sâu làm giảm thời gian mang thai và tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân, với tỷ lệ giảm lần lượt là 2,16 lần và 2,42 lần so với những bà mẹ không tiếp xúc.
Thực trạng sơ sinh nhẹ cân trên thế giới và Việt Nam
1.2.1 Tình hình sơ sinh nhẹ cân trên thế giới
Cân nặng khi sinh thấp, được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa là dưới 2500g, là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng trên toàn cầu, liên quan đến nhiều hậu quả ngắn hạn và dài hạn Khoảng 15% đến 20% tổng số ca sinh hàng năm, tương đương hơn 20 triệu ca, là trẻ sơ sinh nhẹ cân WHO đặt mục tiêu giảm 30% số trẻ sơ sinh có cân nặng thấp dưới 2500g vào năm 2025.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, gần 22 triệu trẻ sơ sinh, tương đương khoảng 16% tổng số trẻ sơ sinh trên toàn cầu, bị nhẹ cân Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân (SSNC) có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực và trong từng quốc gia Phần lớn trẻ SSNC tập trung ở các nước có thu nhập trung bình và thấp Cụ thể, năm 2013, tỷ lệ SSNC ở khu vực Nam Á đạt 28%, trong khi châu Phi cận Sahara là 13% và các nước khác là 9%.
Tại Mỹ Latinh và một số quốc gia có thu nhập cao như Tây Ban Nha (8%), Hoa Kỳ (8%), Vương quốc Anh (7%) và Bắc Ireland (5%), tỷ lệ trẻ em không có cha mẹ (SSNC) đang gia tăng Sự chênh lệch tỷ lệ SSNC giữa các vùng kinh tế trong cùng một quốc gia cũng rất rõ rệt Các khu vực có điều kiện kinh tế xã hội tốt hơn thường có khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế đầy đủ, dẫn đến tỷ lệ SSNC thấp hơn Ngược lại, tại Ấn Độ, tỷ lệ trẻ em SSNC ở khu vực thu nhập cao là 10%, trong khi ở khu vực thu nhập thấp nhất, tỷ lệ này có thể lên tới 56%.
Nghiên cứu của Rajat Das Gupta về tình trạng cân nặng khi sinh thấp ở Afghanistan năm 2015 cho thấy 15,5% trong số 2773 trẻ sơ sinh có cân nặng sơ sinh thấp, trong đó 58,3% là nữ Đáng chú ý, 70,5% các em có mẹ không được học hành chính thức, 63,4% sống ở khu vực thành thị và 59,7% đến từ miền Trung Afghanistan.
Nghiên cứu của tác giả Mahumud RA về sức khỏe và nhân khẩu tại các nước đang phát triển trong giai đoạn 2010-2013 cho thấy tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân đạt 15,9% Các yếu tố liên quan đáng kể đến nguy cơ sinh con nhẹ cân bao gồm: tuổi mẹ từ 35 đến 49 tuổi, chăm sóc tiền sản không đầy đủ, mù chữ, trì hoãn thụ thai, chỉ số khối cơ thể thấp và thuộc tầng kinh tế xã hội kém nhất.
Nghiên cứu của Oladeinde HB tại Thành phố Bénin, Nigeria cho thấy tỷ lệ sinh trẻ sơ sinh nhẹ cân là 6,3%, chịu ảnh hưởng đáng kể bởi các yếu tố như tuổi mẹ (p = 0,039), tuổi thai (p = 0,009), chiều cao của mẹ (p = 0,001) và tình trạng hôn nhân (p = 0,015) Đặc biệt, thiếu máu ở người mẹ được xác định là một yếu tố nguy cơ quan trọng dẫn đến việc sinh ra trẻ sơ sinh nhẹ cân.
Nghiên cứu của Eyasu Alem Lake về cân nặng sơ sinh thấp tại Bệnh viện Đại học Wolaita Sodo, Nam Ethiopia năm 2018 cho thấy trong số 304 cặp mẹ - con mới sinh, tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng thấp chiếm 15,8%, tương đương 48 trẻ Độ tuổi trung bình của các bà mẹ tham gia nghiên cứu là 25 ± 5 tuổi, trong khoảng từ 12 đến 35 tuổi Trọng lượng trung bình của trẻ sơ sinh là 2971 ± 0,783 gram, với khoảng dao động từ 1600 gram đến 4800 gram.
Theo phân tích khảo sát Sức khỏe và Dân số 2010-2014 của Chhorvann Chemat, tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân tại Campuchia trong giai đoạn này đạt khoảng 7,0% Các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến cân nặng sơ sinh bao gồm việc mẹ không được giáo dục so với mẹ có trình độ học vấn trung học trở lên, cũng như số lần khám thai dưới 4 lần trong thời kỳ mang thai Đặc biệt, trẻ sinh ra đầu tiên có nguy cơ bị cân nặng sơ sinh thấp cao hơn so với trẻ sinh ra lần thứ hai.
Nghiên cứu của Issara Siramaneerat chỉ ra rằng tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân ở Indonesia là 10,2% Phân tích logistic đa biến cho thấy các yếu tố rủi ro như tuổi của mẹ, trình độ giáo dục, thiếu chăm sóc trước sinh và biến chứng thai kỳ có mối liên hệ đáng kể với cân nặng khi sinh thấp.
Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân ở khu vực Kambata - Tembaro, miền nam Ethiopia năm 2018 đạt 18%, có mối liên hệ đáng kể với tình trạng thất nghiệp của mẹ, nơi ở nông thôn, mang thai ngoài ý muốn, không tham gia khám thai, và số lần sinh nhiều hơn ba lần, cũng như khoảng cách giữa các lần sinh nhỏ hơn hoặc bằng hai Theo ước tính toàn cầu năm 2015, tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân là 14,6%, với khoảng 20,5 triệu trẻ sơ sinh nhẹ cân, trong đó 91% đến từ các nước thu nhập thấp và trung bình, chủ yếu tập trung ở miền nam châu Á (48%) và châu Phi cận Sahara (24%).
Nghiên cứu của He Z và Bishwajit chỉ ra rằng tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân ở Burkina Faso, Ghana, Ma-la-uy, Sê-nê-gan và U-crai-na lần lượt là 13,4%, 10,2%, 12,1%, 15,7% và 10% Kết quả cho thấy rằng, so với phụ nữ có trọng lượng bình thường, các bà mẹ thiếu cân có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao hơn ở tất cả các quốc gia, ngoại trừ Ghana.
Nghiên cứu của Prerna Bansal tại Bharatpur, Nepal cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân là 23,6% trong số 220 ca sinh Tương tự, nghiên cứu của Muhammad Waseem Khan chỉ ra rằng tỷ lệ sơ sinh nhẹ cân ở một số quốc gia như Ấn Độ là 28%, Bangladesh 22%, Ê-díp-tô 20%, Nigeria 27%, Mauritania 34%, Nepal 21% và Pakistan 32% Những số liệu này nhấn mạnh mối liên hệ giữa tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân và các yếu tố rủi ro văn hóa xã hội cũng như tình trạng sức khỏe của bà mẹ.
1.2.2 Tình hình sơ sinh nhẹ cân ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng được thu thập thông qua hệ thống báo cáo định kỳ và các nghiên cứu khác nhau Tỷ lệ này có sự biến động theo thời gian và phụ thuộc vào nguồn thông tin.
Cân nặng lúc sinh là chỉ số quan trọng phản ánh sức khỏe và dinh dưỡng của người mẹ, ảnh hưởng đến sự sống sót và phát triển lâu dài của trẻ sơ sinh Trẻ sơ sinh nhẹ cân (dưới 2.500 gam) có nguy cơ cao về sức khỏe, dễ mắc bệnh, và thường có hệ miễn dịch yếu, dẫn đến nguy cơ suy dinh dưỡng và các bệnh mãn tính như tiểu đường và bệnh tim mạch sau này Ngoài ra, trẻ sinh nhẹ cân thường có chỉ số thông minh thấp và khả năng nhận thức kém, ảnh hưởng đến cơ hội học tập và việc làm sau này Tại các nước đang phát triển, bao gồm Việt Nam, tình trạng nhẹ cân ở trẻ sơ sinh chủ yếu do sức khỏe và dinh dưỡng kém của bà mẹ, với ba yếu tố chính là dinh dưỡng kém trước khi mang thai, chiều cao của mẹ và chế độ dinh dưỡng trong thai kỳ Tăng cân chậm trong thời kỳ mang thai là nguyên nhân chính dẫn đến sự kém phát triển của bào thai, trong khi các bệnh như tiêu chảy và sốt rét có thể làm giảm đáng kể sự phát triển của bào thai nếu mẹ mắc bệnh trong thai kỳ.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2011, 93,2% trẻ em được cân khi sinh ra, trong khi 5,1% trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2.500 gam Sự khác biệt về tỷ lệ này rõ rệt giữa các vùng và trình độ học vấn của mẹ, mặc dù tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân không có sự chênh lệch lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Thực trạng hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh của cán bộ Y tế hiện nay
Nguồn nhân lực y tế, cùng với cơ sở hạ tầng và trang thiết bị, đóng vai trò quan trọng trong chăm sóc sơ sinh Số lượng và phân bố cán bộ y tế, cũng như kiến thức và thực hành của họ, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sơ sinh Theo quy định của Bộ Y tế, để nâng cao chất lượng dịch vụ, bệnh viện huyện cần có bác sĩ chuyên khoa sản/phụ khoa, nhi khoa, nữ hộ sinh trung cấp hoặc y sĩ chuyên ngành nhi và sản, cùng với các nhân viên chuyên sâu khác.
Theo báo cáo hộ sinh Việt Nam năm 2016, nhiều bệnh viện huyện đang thiếu bác sĩ, đặc biệt là chuyên gia về sơ sinh, gây khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ sơ sinh chất lượng Ngoài ra, chất lượng làm việc của nhân viên y tế cũng thấp do thiếu đào tạo, phụ cấp không đủ và tình trạng công việc tạm thời Nhiều nhân viên y tế không được đào tạo lại sau khi tốt nghiệp, dẫn đến hạn chế về kiến thức và kỹ năng trong chăm sóc sức khỏe sinh sản Mặc dù có các dự án can thiệp nhằm nâng cao năng lực cho nhân viên y tế, nhưng tài liệu đào tạo thường thiếu chuẩn chung và tính thực tiễn Kinh nghiệm từ Việt Nam và thế giới cho thấy rằng để nâng cao hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe sinh sản, cần đồng thời cải thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế.
Nghiên cứu toàn cầu cho thấy, trong các nước phát triển, kiến thức và kỹ năng chăm sóc sơ sinh (CSSS) của cán bộ y tế (CBYT) rất cao, dẫn đến tỷ lệ tử vong và mắc bệnh ở trẻ sơ sinh giảm mạnh, chỉ còn 2-3 trẻ/1000 trẻ đẻ sống Tỷ lệ CBYT có kiến thức và kỹ năng tốt trong CSSS đạt từ 90-100% Ngược lại, ở các nước đang phát triển tại châu Á và châu Phi, kiến thức và kỹ năng CSSS còn hạn chế, với tỷ lệ cán bộ có kỹ năng tốt chỉ đạt 10-50% Tại tuyến xã phường, tỷ lệ này thấp nhất, chỉ từ 5-20%, trong khi ở tuyến huyện, tỷ lệ cán bộ có kỹ năng CSSS dao động từ 20-60%.
Nghiên cứu của Tạ Như Đính tại hai bệnh viện huyện tỉnh Đắk Lắk cho thấy chỉ có 18/29 nội dung chăm sóc sơ sinh được thực hiện theo Hướng dẫn Quốc gia Kiến thức của cán bộ y tế về thực hành chăm sóc sơ sinh còn hạn chế, với 63,8% có kiến thức ở mức trung bình, 23,7% khá và 12,5% kém Tỷ lệ cán bộ y tế có kiến thức về CSSS ở mức khá chỉ chiếm 23,2%, trong khi 54,7% ở mức trung bình và 22,1% dưới trung bình Mặc dù cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế cho CSSS tại hai bệnh viện là khá tốt, tình trạng thiếu thuốc thiết yếu cho CSSS lại khá phổ biến, chỉ có 7/12 loại thuốc đủ tại cả hai bệnh viện.
Nghiên cứu của Lương Ngọc Trương tại 3 bệnh viện huyện và 60 cán bộ y tế ở 32 xã cho thấy chỉ 50% cán bộ y tế nắm vững kiến thức về chăm sóc sơ sinh Đặc biệt, chỉ có 20% cán bộ y tế tuyến huyện có thể kể ra các nội dung quan trọng trong chăm sóc sơ sinh như chăm sóc mắt, cân trẻ, tiêm Vitamin K1, tiêm phòng lao và viêm gan.
Nghiên cứu của Phạm Thúy Quỳnh cho thấy quy trình chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau sinh được thực hiện khá tốt, với điểm trung bình đạt 94,03±5,42 Có 54 trường hợp đạt 100 điểm, trong khi điểm thấp nhất là 71; 84,8% nhân viên y tế đạt trên 90 điểm Tuy nhiên, vẫn còn 2,4% quy trình đạt dưới 80 điểm, cho thấy cần cải thiện hơn nữa trong việc tư vấn và hỗ trợ cho việc cho con bú.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà trên 236 cán bộ y tế tại các trạm y tế xã ở tỉnh Hòa Bình cho thấy tuổi trung bình của cán bộ y tế là 41 tuổi, với tỷ lệ nam giới chỉ chiếm 23,3% Dân tộc Mường chiếm tỷ lệ cao nhất (42,8%), tiếp theo là dân tộc Thái (20,8%) và dân tộc Kinh (31,8%) Chỉ có 37/58 trạm y tế có bác sĩ làm việc, trong khi điều dưỡng và nữ hộ sinh chiếm 31,8% tổng số cán bộ Tỷ lệ cán bộ chuyên trách đạt 32,5% (74/236), bao gồm nữ hộ sinh và Y sĩ Sản Nhi Kết quả cho thấy 77,4% cán bộ được đào tạo về chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước sinh, với nội dung tư vấn cho phụ nữ mang thai và theo dõi thai nhi đạt tỷ lệ cao nhất (82,8%), trong khi phát hiện và xử trí sản giật là nội dung được đào tạo ít nhất (62,6%).
Ngành Y tế Việt Nam xác định rằng trong những năm tới, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSS) sẽ được ưu tiên nhằm nâng cao sức khỏe và giảm tỷ lệ bệnh tật, tử vong ở trẻ sơ sinh Để đạt được mục tiêu này, cần nâng cao năng lực thực hành cho nhân viên cung cấp dịch vụ CSSS, đồng thời khắc phục những hạn chế hiện có Việc kết hợp đào tạo chuyên môn với cung cấp thiết bị và thuốc thiết yếu, cũng như cải thiện đồng bộ chất lượng dịch vụ CSSS là rất quan trọng Tăng cường giám sát hỗ trợ, đặc biệt sau đào tạo, sẽ giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ cung cấp dịch vụ, nhất là ở vùng miền núi khó khăn Ngoài ra, cần xây dựng mô hình can thiệp cung cấp dịch vụ chăm sóc sơ sinh cơ bản và toàn diện, từ đó nhân rộng ra các địa phương trong cả nước, đồng thời đảm bảo tính tiếp cận văn hóa trong cung cấp dịch vụ chăm sóc sơ sinh phù hợp với nhu cầu thực tế của từng vùng.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Sản, khoa Nhi thuộc Bệnh viện Đa khoa Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Khoa Sản của bệnh viện đa khoa Mộc Châu hoạt động độc lập với trang thiết bị hiện đại, phục vụ cho công tác Sản khoa Hàng năm, khoa tiếp nhận gần 1300 bệnh nhân và khoảng 2000 sản phụ đến sinh đẻ Đội ngũ y bác sĩ được đào tạo chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân trong huyện Tuy nhiên, do vị trí địa lý và sự đa dạng về dân tộc, nhiều xã biên giới và vùng sâu còn gặp khó khăn về kinh tế và dân trí, ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Khoa Nhi mới được thành lập với nguồn nhân lực và thiết bị đầy đủ, đã triển khai nhiều kỹ thuật mới và cấp cứu thành công nhiều trường hợp bệnh nhi nặng, góp phần giảm áp lực cho tuyến trên Dù chỉ có 10 cán bộ y tế trẻ, nhiệt huyết và năng động, cùng với cơ sở vật chất còn hạn chế, Khoa Nhi vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và chăm sóc sức khỏe cho nhiều bệnh nhi tại bệnh viện.
+ Các bà mẹ của trẻ sơ sinh
+ Cán bộ Y tế: bao gồm Bác sỹ, Điều dưỡng và Nữ hộ sinh đang công tác tại khoa Sản và khoa Nhi.
- Những trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh phát hiện ngay sau sinh
- Những sản phụ không đồng ý tham gia nghiên cứu
- Những sản phụ mắc các bệnh tâm thần
- Các cán bộ Y tế vắng mặt trong thời gian trên 3 tháng
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 đến 31 tháng 12 năm 2019.
Phương pháp nghiên cứu
Là một nghiên cứu dịch tễ học mô tả qua một cuộc điều tra cắt ngang có phân tích nhằm:
1 Xác định tỉ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân và một số yếu tố liên quan tại khoa Sản bệnh viện đa khoa Mộc Châu năm 2019.
2 Mô tả hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân của cán bộ Y tế tại khoa Sản, Nhi bệnh viện đa khoa Mộc Châu năm 2019.
2.2.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu a/ Cỡ mẫu:
- Cỡ mẫu xác định tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân: p q n = Z 2 (1- α /2)
Với độ tin cậy 95%, ta có Z(1 – α / 2) = 1,96 ε: Sai số cho phép, ε = 0,2 p: Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân 8,5% theo nghiên cứu trước [16]
Tính được n= 1034 cặp mẹ con Thực tế nghiên cứu 1064 cặp mẹ con
Mẫu nghiên cứu được chọn để phỏng vấn cán bộ y tế về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân bao gồm 30 bác sĩ, nữ hộ sinh và điều dưỡng thuộc khoa Sản và khoa Nhi của Bệnh viện Đa khoa Mộc Châu Phương pháp chọn mẫu sẽ được áp dụng để đảm bảo tính đại diện và độ tin cậy của thông tin thu thập được.
- Chọn địa bàn nghiên cứu: chủ đích chọn khoa Sản và khoa Nhi Bệnh viện đa khoa Mộc Châu của huyện Mộc Châu.
Để xác định tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân, cần chọn đối tượng là tất cả trẻ được sinh ra trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2019 đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn chọn mẫu và đủ cỡ mẫu đã được tính toán.
- Chọn đối tượng phỏng vấn 1 số yếu tố liên quan tới trẻ sơ sinh nhẹ cân: Chọn toàn bộ những Sản phụ có con được chọn vào nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn toàn bộ cán bộ y tế của khoa Sản và khoa Nhi tại bệnh viện đa khoa Mộc Châu để tìm hiểu về các hoạt động chăm sóc dinh dưỡng dành cho trẻ sơ sinh nhẹ cân.
2.2.3 Biến số trong nghiên cứu
+ Thực trạng trẻ sơ sinh
- Phân loại mức độ nhẹ cân
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân nhẹ cân theo giới
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân theo số con của bà mẹ
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân theo tuổi bà mẹ
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân theo nghề nghiệp, dân tộc bà mẹ
- Mối liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với trình độ học vấn và dân tộc của bà mẹ
- Liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với tuổi khi sinh con và điều kiện kinh tế của bà mẹ.
- Liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với BMI của bà mẹ trước mang thai và tăng cân khi mang thai.
- Liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với tiền sử nhiễm độc thai nghén,
Sản giật và mắc các bệnh phụ khoa của bà mẹ.
- Liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với bà mẹ có thai ngoài ý muốn và tiền sử đẻ con dưới 2500 gr
- Liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với chăm sóc y tế cho bà mẹ trong thời kỳ mang thai
- Liên quan giữa trẻ sơ sinh nhẹ cân với chế độ dinh dưỡng và lao động trong thời kỳ mang thai của bà mẹ
+ Hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân của cán bộ Y tế
- Đặc điểm về nhóm tuổi và trình độ học vấn của cán bộ Y tế
- Tỷ lệ CBYT biết những nguyên tắc chăm sóc trẻ sơ sinh nhẹ cân
- Tỷ lệ CBYT biết nguy cơ thường gặp ở trẻ sơ sinh nhẹ cân
- Kiến thức và thực hành của CBYT về các biện pháp phòng hạ đường huyết cho trẻ sơ sinh nhẹ cân
- Kiến thức và thực hành của CBYT về vệ sinh bình đựng sữa cho trẻ sơ sinh nhẹ cân
- Những hỗ trợ về dinh dưỡng của CBYT khi trẻ có dấu hiệu bỏ bú/không chịu ăn
- Kiến thức và thực hành của CBYT về biện pháp đảm bảo thân nhiệt cho trẻ sơ sinh nhẹ cân
- Tỷ lệ CBYT biết dấu hiệu trẻ bị nhiễm khuẩn
- Kiến thức và thực hành của CBYT về phòng chống nhiễm khuẩn khi tiếp xúc với trẻ sơ sinh nhẹ cân
- Tỷ lệ CBYT theo dõi các dấu hiệu lâm sàng của trẻ
- Những nội dung CBYT thường thực hiện trong quá trình chăm sóc trẻ
2.2.4 Các bước tiến hành nghiên cứu
2.2.4.1 Xây dựng phiếu phỏng vấn
Phiếu phỏng vấn bà mẹ (phụ lục 1) được thiết kế nhằm xác định các yếu tố liên quan đến trẻ sơ sinh nhẹ cân, bao gồm tiền sử bệnh tật, tiền sử sản phụ khoa, chế độ dinh dưỡng và lao động trong thời kỳ mang thai Quá trình xây dựng phiếu đã tham khảo các nghiên cứu trước đây và nhận được ý kiến chỉnh sửa từ các chuyên gia trong lĩnh vực Dinh dưỡng, Sản khoa và Dịch tễ học để hoàn thiện trước khi tiến hành điều tra chính thức.
Phiếu phỏng vấn cán bộ Y tế (Phụ lục 2) được thiết kế nhằm mục tiêu nghiên cứu các hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân Bộ câu hỏi này đã trải qua nhiều lần góp ý và chỉnh sửa để đảm bảo tính hoàn chỉnh trước khi tiến hành điều tra chính thức.
2.2.4.2.Chuẩn bị địa bàn nghiên cứu
Sau khi nhận được sự đồng ý từ Ban giám đốc bệnh viện đa khoa Mộc Châu, học viên đã tiến hành triển khai kế hoạch nghiên cứu cùng với trưởng khoa, bác sĩ, nữ hộ sinh và điều dưỡng của khoa Sản và khoa Nhi để thống nhất và phối hợp thực hiện.
2.2.4.3 Tập huấn cho cán bộ điều tra
Nội dung tập huấn bao gồm thông báo về mục đích nghiên cứu, đối tượng tham gia, các tiêu chí lựa chọn và loại trừ Bên cạnh đó, tập huấn còn cung cấp phương pháp thu thập và ghi chép dữ liệu, các kỹ thuật phỏng vấn, cũng như cách cân trẻ Đồng thời, các điều tra viên sẽ được hướng dẫn cách xử lý tình huống gặp phải trong quá trình điều tra và thu thập thông tin một cách chính xác và khách quan.
2.2.5 Một số kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
2.2.5.1 Kỹ thuật cân trẻ sơ sinh
Cân trẻ sơ sinh được tiến hành trong vòng 24 giờ đầu sau sinh, do nữ hộ sinh thực hiện Việc cân sử dụng cân SECA lòng máng với độ chính xác 0,05 kg, được ghi theo đơn vị gam Trước khi đo, cần kiểm tra và điều chỉnh vị trí đặt cân để đảm bảo kết quả chính xác.
- Cân được đặt trên mặt phẳng và ổn định
- Đây là một dụng cụ cân đo đòi hỏi độ chính xác nên không được làm rơi, rung hoặc xóc mạnh cân
- Đảm bảo nguyên tắc khi cân: Tháo bỏ khăn và tã quấn em bé, bé nằm giữa bàn cân.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ để khám phá những yếu tố liên quan đến trẻ sơ sinh nhẹ cân thông qua bộ phiếu điều tra thiết kế sẵn Các điều tra viên, bao gồm học viên và Nữ hộ sinh của khoa Sản, đã được đào tạo kỹ lưỡng và phiếu điều tra đã được thử nghiệm trước khi triển khai nghiên cứu Trong quá trình phỏng vấn, các điều tra viên đã hỏi từng câu hỏi để bà mẹ tự trả lời theo cách hiểu của mình mà không gợi ý Đối với những bà mẹ không nói được tiếng Kinh, chúng tôi đã sử dụng chồng của họ làm phiên dịch Nếu không có phiên dịch, chúng tôi đã loại bỏ đối tượng đó khỏi nghiên cứu.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp các cán bộ Y tế về các hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ em, đồng thời thực hiện quan sát tại cơ sở làm việc thông qua bộ phiếu điều tra đã được thiết kế sẵn (phụ lục 2).
Cán bộ Y tế được thông tin chi tiết về lợi ích và mục đích của việc tham gia nghiên cứu, cũng như quy trình thực hiện và quyền tự quyết định tham gia mà không bị ép buộc liên quan đến điều trị tại bệnh viện Đồng thời, các điều tra viên không được phép gợi ý cho người được phỏng vấn.
2.2.6.Các tiêu chuẩn sử dụng trong nghiên cứu
- Đánh giá mức độ trẻ sơ sinh nhẹ cân theo qui định của Tổ chức Y tế thế giới
Mức độ nhẹ cân Viết tắt Cân nặng
Trẻ sinh nhẹ cân LBW 1500 - 2499 gram
Trẻ rất nhẹ cân VLBW 1000 - 1499 gram
Trẻ quá nhẹ cân ELBW 750 - 999 gram
Trẻ nhẹ cân quá mức ILBW < 750 gram
Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ, tiêu chí đánh giá hộ gia đình nghèo và hộ cận nghèo được ban hành, áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020.
1 Hộ nghèo a) Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 trở xuống;
Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng mỗi tháng và thiếu hụt ít nhất 03 chỉ số đo lường mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản Đối với khu vực thành thị, hộ gia đình cần đáp ứng ít nhất một trong hai tiêu chí đã nêu.
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
Thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng dao động từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng, đồng thời gặp phải tình trạng thiếu hụt ở ít nhất 03 chỉ số liên quan đến việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
2 Hộ cận nghèo a) Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đến 1000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. b) Khu vực thành thị: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
2.2.7 Các biện pháp hạn chế sai số
Mô tả hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân của cán bộ Y tế tại khoa Sản,
Bảng 3.14 Đặc điểm về nhóm tuổi và trình độ học vấn của cán bộ Y tế
Theo bảng 3.14, cán bộ y tế dưới 30 tuổi chiếm 43,3%, trong khi đó, độ tuổi từ 30 trở lên chiếm 56,7% Đáng chú ý, 60% cán bộ y tế có trình độ đại học và sau đại học, trong khi 16,7% có trình độ trung cấp và 23,3% có trình độ cao đẳng.
Bảng 3.15 Tỷ lệ CBYT biết những nguyên tắc chăm sóc trẻ sơ sinh nhẹ cân (n0)
Nguyên tắc chăm sóc trẻ sơ sinh nhẹ cân
Bác sĩ (n=7) Điều dưỡng, Nữ hộ sinh (n#)
Tìm hiểu về những nguyên tắc chăm sóc trẻ sơ sinh nhẹ cân của cán bộ
Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 63,3% cán bộ y tế nắm vững kiến thức về cách chăm sóc trẻ sơ sinh nhẹ cân, trong khi đó, tỷ lệ hiểu biết về phòng chống suy hô hấp đạt 93,3%, phòng chống hạ thân nhiệt là 83,3% và phòng chống nhiễm khuẩn là 90%.
Bảng 3.16 Tỷ lệ CBYT biết nguy cơ thường gặp ở trẻ sơ sinh nhẹ cân
Hạ canxi máu, hạ đường huyết 7 7/7 15 65,2 22 73,3
Kết quả từ bảng 3.16 cho thấy rằng cán bộ y tế nhận thức rõ về các nguy cơ phổ biến ở trẻ sơ sinh nhẹ cân Cụ thể, 63,3% cán bộ biết đến nguy cơ ngạt và suy hô hấp, 73,3% nhận diện nguy cơ nhiễm khuẩn, hạ canxi máu, hạ đường huyết và vàng da Ngoài ra, 66,7% cán bộ nhận thức được nguy cơ hạ thân nhiệt, trong khi nguy cơ chảy máu được nhận diện bởi 6,7% cán bộ y tế.
Bảng 3.17 Kiến thức và thực hành của CBYT về các biện pháp phòng hạ đường huyết cho trẻ sơ sinh nhẹ cân (n0)
Các biện pháp phòng hạ đường huyết
Cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh 26 86,7 27 90,0
Cho trẻ ăn từ 2-3h/lần 18 60,0 20 66,7
Dùng thìa/đặt sonde khi không bú được 27 90,0 26 86,7
Số lượng thức ăn tăng dần 19 63,3 19 63,3
Kết quả từ bảng 3.17 cho thấy rằng 90% cán bộ y tế hiểu rõ tầm quan trọng của việc đặt sonde cho trẻ sơ sinh nhẹ cân khi trẻ không bú được, hoặc khuyên bà mẹ cho trẻ bú ngay sau sinh Hơn 60% cán bộ y tế cũng thực hành cho trẻ ăn từ 2-3 giờ/lần, hoặc tăng dần lượng thức ăn cho trẻ.
Bảng 3.18 Kiến thức và thực hành của CBYT về vệ sinh bình đựng sữa cho trẻ sơ sinh nhẹ cân (n0)
Vệ sinh bình đựng sữa
Luộc bình trong 5 phút, núm trong 3 phút 23 76,7 29 96,7 Để bình sau luộc khô tự nhiên 9 30,0 11 36,7 Để bình sau luộc trong tủ sấy 11 36,7 6 20,0
Bảo quản bình có sữa trong máy chuyên dụng 8 26,7 8 26,7
Kết quả bảng 3.18 cho thấy 76,7% cán bộ Y tế biết rằng bình đựng sữa cho trẻ cần được luộc trong 5 phút, trong khi núm cần luộc trong 3 phút, thấp hơn so với thực hành thực tế là 96,7% Tuy nhiên, các kiến thức khác như để bình sau khi luộc khô tự nhiên, để bình khô trong tủ sấy, và bảo quản bình có sữa trong máy chuyên dụng chỉ đạt tỷ lệ dưới 30%.
Bảng 3.19 Những hỗ trợ về dinh dưỡng của CBYT khi trẻ có dấu hiệu bỏ bú/không chịu ăn (n0)
Nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch
Nuôi dưỡng bằng ống thông rốn
Nuôi dưỡng bằng sonde dạ dày
Kết quả từ bảng 3.19 cho thấy, tỷ lệ cán bộ y tế hỗ trợ dinh dưỡng cho trẻ khi có dấu hiệu bỏ bú hoặc không chịu ăn là 40% đối với nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch, 30% với nuôi dưỡng bằng ống thông rốn, và 93,3% khi sử dụng sonde dạ dày.
Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ CBYT có kiến thức và thực hành phòng chống suy hô hấp cho trẻ sơ sinh nhẹ cân (n0)
Biểu đồ cho thấy rằng kiến thức của cán bộ y tế về việc hút đờm rãi và cung cấp oxy cho trẻ sơ sinh nhẹ cân nhằm phòng chống suy hô hấp còn thấp hơn so với thực hành Trong khi đó, việc theo dõi dấu hiệu sinh tồn từ 1 đến 3 giờ/lần và kích thích khi trẻ có cơn ngừng thở lại được thực hiện với tần suất cao hơn so với mức độ kiến thức hiện có.
Bảng 3.20 Kiến thức và thực hành của CBYT về biện pháp đảm bảo thân
% nhiệt cho trẻ sơ sinh nhẹ cân (n0)
Biện pháp đảm bảo thân nhiệt
SL % SL % Đặt trẻ trong lồng ấp 20 66,7 20 66,7
Nằm phòng ấm 28-30 độ 23 76,7 25 83,3 Đo nhiệt độ 1-3h/lần 19 63,3 19 63,3
Cho trẻ mặc nhiều quần áo 2 6,7 1 3,3
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ cán bộ y tế có kiến thức về nghiệm pháp Kangaroo đạt 83,3%, cao hơn so với tỷ lệ thực hành là 73,3% Trong khi đó, tỷ lệ cán bộ y tế biết về việc cho trẻ nằm trong phòng ấm từ 28 – 30 độ là 76,7%, nhưng tỷ lệ thực hành lại cao hơn, đạt 83,3% Đặc biệt, dưới 70% cán bộ y tế có kiến thức và thực hành cho trẻ nằm trong lồng ấp.
Bảng 3.21 Tỷ lệ CBYT biết dấu hiệu trẻ bị nhiễm khuẩn (n0)
Bác sĩ (n=7) Điều dưỡng, Nữ hộ sinh (n#)
Da tái, nổi vân tím 6 6/7 14 60,9 20 66,7
Hạ nhiệt độ/sốt, nhịp tim không ổn định
Vàng da, gan lách to 2 2/7 5 21,7 7 23,3
Giảm/tăng trương lực cơ 1 1/7 8 34,8 9 30,0
Thóp lồi, lõm bất thường 2 2/7 6 26,1 8 26,7
Kết quả từ bảng 3.21 cho thấy rằng 66,7% cán bộ y tế nhận biết được dấu hiệu trẻ bị nhiễm khuẩn da tái và nổi vân tím, cùng với việc nhận diện các triệu chứng như hạ nhiệt độ/sốt và nhịp tim không ổn định.
Theo thống kê, 93,3% trường hợp ghi nhận có dấu hiệu bú mút kém, trong khi 46,7% bệnh nhân gặp phải tình trạng có cơn ngừng thở Ngoài ra, 76,7% trường hợp cho thấy bụng chướng và nôn trớ, 23,3% có biểu hiện vàng da và gan lách to Tình trạng giảm hoặc tăng trương lực cơ được ghi nhận ở 30% bệnh nhân, và 26,7% có thóp lồi hoặc lõm bất thường.
Bảng 3.22 Kiến thức và thực hành của CBYT về phòng chống nhiễm khuẩn khi tiếp xúc với trẻ sơ sinh nhẹ cân (n0)
Phòng chống nhiễm khuẩn cho trẻ khi tiếp xúc
Rửa tay trước khi chăm sóc, điều trị 28 93,3 28 93,3 Rửa tay sau khi chăm sóc, điều trị 18 60,0 16 53,3
Sử dụng găng tay khi tiếp xúc với trẻ 11 36,7 13 43,3
Sử dụng gang tay khi tiếp xúc với bệnh phẩm 10 33,3 13 43,3
Kết quả từ bảng 3.22 chỉ ra rằng hơn 90% cán bộ y tế nhận thức được tầm quan trọng của việc rửa tay trước khi chăm sóc trẻ sơ sinh nhẹ cân Hơn 30% cán bộ y tế có kiến thức về việc rửa tay sau khi chăm sóc và điều trị, trong khi trên 40% thực hành rửa tay sau khi tiếp xúc với bệnh phẩm và sử dụng găng tay.
Bảng 3.23 Tỷ lệ CBYT theo dõi các dấu hiệu lâm sàng của trẻ (n0)
Theo dõi dấu hiệu lâm sàng Thường xuyên
Da tái, nổi vân tím 26(86,7) 1(3,3) 3(10,0) 0(0,0)
Hạ nhiệt độ/sốt, nhịp tim không ổn định 12(40,0) 0(0,0) 18(60,0) 0(0,0)
Bụng chướng, nôn trớ 15(50,0) 0(0,0) 15(50,0) 0(0,0) Vàng da, gan lách to 5(16,7) 0(0,0) 23(76,7) 2(6,7) Giảm/tăng trương lực cơ 11(36,7) 0(0,0) 18(60,0) 1(3,3) Thóp lồi, lõm bất thường 7(23,3) 0(0,0) 22(73,3) 1(3,3)
Kết quả từ bảng 3.23 cho thấy rằng có 86,7% trường hợp da tái, nổi vân tím và cơn ngừng thở được cán bộ y tế theo dõi thường xuyên, không có trường hợp nào được theo dõi thỉnh thoảng hoặc 1 ngày/lần Đối với dấu hiệu thóp lồi, lõm bất thường, 73,3% được theo dõi 3 giờ/lần Ngoài ra, 60% trường hợp có dấu hiệu bú mút kém được theo dõi thường xuyên, trong khi 40% được theo dõi 3 giờ/lần.
Bảng 3.24 Những nội dung CBYT thường thực hiện trong quá trình chăm sóc trẻ (n0)
Nội dung thực hiện trong quá trình chăm sóc trẻ
Hướng dẫn người nhà chăm sóc trẻ
Theo kết quả từ bảng 3.24, cán bộ y tế thực hiện y lệnh thuốc trong quá trình chăm sóc trẻ đạt tỷ lệ 100% Bên cạnh đó, việc theo dõi biến chứng cũng được thực hiện với tỷ lệ 96,7%, trong khi hướng dẫn người nhà chăm sóc trẻ đạt 80%.
Biểu đồ 3.4 Những kỹ thuật CBYT thực hiện khi trẻ có dấu hiệu của suy hô hấp (n0)
Kết quả khảo sát cho thấy, 86,7% cán bộ y tế thực hiện kỹ thuật hút đờm dãi cho trẻ khi có dấu hiệu suy hô hấp, 76,7% cung cấp oxy cho trẻ, và 86,7% áp dụng kỹ thuật thở C-PAP.