Tổng quan về nợ xấu của ngân hàng thương mại
Khái niệm về nợ xấu
Hiện nay, có nhiều cách nhìn nhận về nợ xấu trên toàn cầu Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) định nghĩa nợ xấu là các khoản cho vay không thể thu hồi hoặc có khả năng không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.
Theo Phòng thống kê Liên hiệp quốc, nợ xấu được xác định khi đã quá hạn trả lãi và gốc trên 90 ngày, hoặc các khoản chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận, hay các khoản thanh toán quá hạn 90 ngày với nghi ngờ về khả năng thanh toán đầy đủ Tại Việt Nam, theo Thông tư số 11/2021/TT-NHNN, nợ xấu (NPL) được định nghĩa là nợ xấu nội bảng, bao gồm nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5, cũng dựa trên hai yếu tố: quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Nợ xấu, hay còn gọi là nợ khó đòi, là các khoản nợ đã quá hạn trên 90 ngày mà người vay chưa thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Bản chất của nợ xấu
Nợ xấu là một vấn đề nghiêm trọng trong ngành ngân hàng, phát sinh từ hoạt động tín dụng và cho vay tiền, vốn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro Các khoản nợ xấu được xác định là những khoản vay mà chủ nợ không thể thu hồi, dẫn đến việc chúng sẽ bị xóa sổ khỏi danh sách nợ phải thu của ngân hàng.
Trong hệ thống ngân hàng thương mại, nợ xấu là các khoản cho vay không thu hồi được khi đến hạn, thường do khách hàng như doanh nghiệp hoặc tổ chức gặp khó khăn tài chính, thua lỗ hoặc phá sản Do đó, doanh nghiệp cần dự đoán các khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa trên dữ liệu từ kỳ trước Nợ xấu cũng được xem là khoản tiền mất mát, được ghi nhận như một tổn thất và coi như một khoản chi phí của doanh nghiệp.
Phân loại nợ xấu
Theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN ban hành ngày 30/7/2021, nợ xấu trong hoạt động ngân hàng được phân loại thành các nhóm: nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) Thông tư này quy định mức trích lập, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro, cũng như cách sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng cho các tổ chức tín dụng.
Theo Điều 10 Thông tư 11, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện phân loại nợ dựa trên phương pháp định lượng.
3.1 Nợ nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn:
(i) Các khoản nợ quá hạn từ 91 - 180 ngày (không tính những khoản nợ được quy định tại khoản 3 Điều 10);
Nợ gia hạn lần đầu vẫn trong hạn, ngoại trừ các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định tại điểm b khoản 2 và các khoản nợ thuộc nhóm rủi ro cao theo điểm b khoản 3 Điều 10.
Nợ có thể được miễn hoặc giảm lãi nếu khách hàng không đủ khả năng chi trả theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, ngoại trừ khoản nợ theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Ngoài ra, nợ cũng thuộc các trường hợp chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày kể từ khi có quyết định thu hồi.
● Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1,3,4,5,6 Điều 126 Luật Các Tổ chức tín dụng (đã chỉnh sửa, bổ sung), cụ thể gồm:
Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật.
- Nợ được cấp trên cơ sở bảo đảm của các đối tượng được quy định tại khoản
Nợ của tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng đó nắm quyền kiểm soát là một vấn đề quan trọng Việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này cần được quản lý chặt chẽ để đảm bảo tính ổn định và phát triển bền vững của thị trường chứng khoán.
Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng, hoặc tiền vay dùng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác, trong đó tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản đảm bảo bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp.
● Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 Luật Các tổ chức tín dụng (đã chỉnh sửa, bổ sung), cụ thể gồm:
- Các khoản nợ không có bảo đảm, được cấp với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng cụ thể tại các điểm a, b, c, d, đ, e của khoản 1 Điều 127;
Các khoản nợ có tổng dư nợ tín dụng vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ bị hạn chế khi cấp cho khách hàng thuộc các đối tượng bị quy định theo pháp luật.
Các khoản nợ dành cho các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 127 không được Hội đồng quản trị và Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng phê duyệt, đồng thời cũng không được công khai trong tổ chức tín dụng.
Các khoản nợ có tổng dư nợ cấp tín dụng đối với một đối tượng không được vượt quá 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng (TCTD), và đối với tất cả các đối tượng, mức dư nợ này không được vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
● Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật Các tổ chức tín dụng (đã chỉnh sửa, bổ sung), cụ thể gồm:
Các khoản nợ có tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô Đồng thời, tổng mức dư nợ cấp tín dụng cho một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của các tổ chức tài chính này.
Các khoản nợ vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng đối với một khách hàng sẽ bị hạn chế, và tổng mức dư nợ cấp tín dụng cho một khách hàng cùng với người có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Nợ vi phạm các giới hạn và điều kiện cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu của ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Đồng thời, nợ cũng đang trong thời hạn thu hồi theo kết luận kiểm tra và thanh tra.
Các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần thu hồi các khoản nợ trước hạn khi khách hàng vi phạm thỏa thuận Nếu việc thu hồi không được thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày có quyết định yêu cầu, các ngân hàng phải có biện pháp xử lý kịp thời.
(vii) Nợ phân vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này;
(viii) Nợ phân vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 4, Điều 8 Thông tư 11
3.2 Nợ nhóm 4 - Nợ nghi ngờ:
Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, ngoại trừ các khoản nợ theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Ngoài ra, nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu mà quá hạn đến 90 ngày cũng thuộc trường hợp này, trừ những khoản nợ được quy định tại khoản 3 Điều 10.
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai còn trong hạn, trừ những khoản nợ được quy định tại điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 10;
(iv) Khoản nợ được quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn trong thời gian từ
30 - 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(v) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi tới 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
Các nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu tại các NHTM
Nguyên nhân phát sinh nợ xấu từ phía ngoài ngân hàng
Phân tích nguyên nhân phát sinh nợ xấu là điều cần thiết để xây dựng các chiến lược và phương pháp quản lý hiệu quả Việc này giúp đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm xử lý nợ xấu một cách khả thi và hiệu quả.
Nợ xấu ở Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và toàn bộ hệ thống tài chính Sự gia tăng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả yếu tố khách quan, vĩ mô và yếu tố chủ quan, vi mô Bài viết sẽ phân tích chi tiết những nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng nợ xấu trong các NHTM.
1.1 Do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn a, Môi trường thiên nhiên – Môi trường dịch bệnh:
Các nguyên nhân đến từ môi trường thiên nhiên như thiên tai, lũ lụt, bão, hỏa hoạn, mất mùa và dịch bệnh là những yếu tố khách quan mà con người khó kiểm soát, dẫn đến thất bại trong hoạt động của khách hàng vay, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp Những yếu tố này gây ra nợ xấu, và do tính chất khách quan, rủi ro từ môi trường thiên nhiên là điều không thể tránh khỏi Vì vậy, để giảm thiểu tổn thất, cần có sự hỗ trợ và chia sẻ từ phía nhà nước và toàn xã hội.
Một ví dụ điển hình về tác động của yếu tố môi trường dịch bệnh đến nợ xấu trong ngân hàng thương mại ở Việt Nam là tình hình dịch bệnh Covid-19 Kể từ đầu năm 2020, dịch bệnh do virus corona đã làm giảm thu nhập của hàng triệu lao động, nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm nhân sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp hiện đang gặp khó khăn, không đủ quỹ lương để chi trả cho nhân viên, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và ảnh hưởng đến hoạt động cho vay mua ô tô của các ngân hàng thương mại Tình hình dịch bệnh ngày càng căng thẳng khiến nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải Đến tháng 7/2021, nhiều ngân hàng đã bắt đầu thanh lý ô tô, tài sản đảm bảo để xử lý nợ xấu, với mức giá rao bán thấp hơn thị trường, khoảng 120 triệu đồng/xe tùy thuộc vào chất lượng và niên hạn sử dụng của xe.
Vào tháng 7/2021, BIDV đã rao bán một chiếc ô tô Lexus với giá khởi điểm 2,47 tỷ đồng, trong khi Ngân hàng TMCP Quốc tế VIB cũng thanh lý nhiều dòng xe như Huyndai, Mazda 3-2020, Toyota Vios, Toyota Fortuner, Ford Ranger với mức giá từ 280 - 780 triệu đồng VPBank cũng tham gia vào cuộc đua thanh lý tài sản đảm bảo, với ba đợt bán đấu giá ô tô trong tháng 6/2021 và bốn đợt trong tháng 5 Điều này cho thấy Nhà nước và Chính phủ đang nỗ lực xử lý dứt điểm nợ xấu tại các ngân hàng, nhằm tạo sự minh bạch trong hoạt động tín dụng và phát triển dịch vụ bán đấu giá Theo quy định, khách hàng khi vay có tài sản đảm bảo phải ký hợp đồng thế chấp, và nếu không trả được nợ, ngân hàng có quyền xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ.
Đại dịch COVID-19 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp Tính đến tháng 7/2021, các biện pháp cách ly và giãn cách xã hội đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu thông hàng hóa, đặc biệt tại các tỉnh thành phía Nam như TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, và Đồng Nai Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trong tháng 7 chỉ tăng 1,8% so với tháng 6 và 2,2% so với cùng kỳ năm trước, ghi nhận mức tăng thấp nhất trong 7 tháng qua, với ngành khai khoáng giảm 8% và ngành chế biến, chế tạo giảm 15,8%.
Trong bối cảnh thực hiện chỉ thị 16/CT-TTg để giãn cách phòng chống dịch Covid-19, 19 tỉnh thành phố miền Nam đã ghi nhận sự giảm sút trong chỉ số IIP tháng 7/2021, với 7 thành phố giảm so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó Cà Mau giảm 13,7%, TP Hồ Chí Minh giảm 19,4%, Long An giảm 14,6%, Đồng Tháp và Trà Vinh giảm lần lượt 5,7% và 5,3%, trong khi Bà Rịa - Vũng Tàu và Bến Tre có mức giảm thấp nhất là 1,9% và 0,2% Tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng lên 1,78% vào cuối tháng 4 năm nay, so với 1,69% vào cuối năm 2020 Theo báo cáo tài chính của 30 ngân hàng thương mại, tổng nợ xấu nội bảng đã tăng 4,5% chỉ trong quý I và quý II năm 2021.
Vào tháng 8, Ngân hàng Thế giới cảnh báo Việt Nam cần thận trọng trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang nỗ lực cho phép các ngân hàng gia hạn nợ và tái cơ cấu nợ để hỗ trợ nền kinh tế, với gần 800 nghìn khách hàng được xem xét giữ nguyên khoản nợ Các ngân hàng thương mại cũng thực hiện hạ lãi suất cho vay và miễn lãi suất cho nhiều đối tượng, bao gồm doanh nghiệp và hộ gia đình, với tổng dư nợ gần 2 triệu tỷ đồng Mặc dù các chính sách này đang hỗ trợ doanh nghiệp, Ngân hàng Thế giới cảnh báo rằng nếu đại dịch kéo dài, nhiều doanh nghiệp có thể phá sản, dẫn đến nợ xấu gia tăng và rủi ro cho các ngân hàng Do đó, các cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ cần chú ý đến rủi ro nợ xấu, đặc biệt là với các ngân hàng có vốn hóa không ổn định trước đại dịch.
Techcombank đã thể hiện tín hiệu tích cực trong việc xử lý nợ xấu trong thời kỳ dịch bệnh Covid-19, với tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 0,5% vào cuối năm 2020, thấp hơn nhiều so với mức yêu cầu 3% Sự giảm mạnh này chủ yếu nhờ vào các biện pháp chủ động của ngân hàng nhằm củng cố bảng cân đối kế toán trước những tác động tiêu cực của đại dịch đến nền kinh tế Tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 171,0% tính đến ngày 31/12/2020.
Tính đến ngày 31/12/2020, Techcombank ghi nhận điểm sáng khi tổng nợ xấu giảm 58% so với đầu năm, chỉ còn khoảng 1.295 tỷ đồng Đặc biệt, nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) của ngân hàng giảm mạnh tới 87%, chỉ còn hơn 344 tỷ đồng, theo Báo cáo thường niên Q4/2020.
Kết quả khả quan đó đã giúp kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm hẳn từ mức 1,33% xuống còn 0,5%
Bà Nguyễn Thu Lan, Giám đốc cao cấp quản trị rủi ro tại Techcombank, cho biết ngân hàng đã xử lý thành công một lượng lớn nợ xấu cả nội bảng và ngoại bảng Khoảng 70% số nợ xấu đã được giải quyết nhờ vào Nghị quyết 42, cho thấy hiệu quả của việc áp dụng nghị quyết này trong quá trình xử lý nợ xấu.
Xử lý tài sản để thu hồi nợ không chỉ giúp ngân hàng lấy lại các khoản nợ xấu mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng có nguồn lực cho vay khách hàng tốt hơn Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh đại dịch COVID-19, khi việc xử lý nợ xấu giúp ngân hàng trở nên "khỏe" hơn, từ đó hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn do dịch bệnh.
Nghiên cứu cho thấy môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn đến chất lượng khoản vay của ngân hàng thương mại Khi nền kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuận lợi, nâng cao khả năng thanh toán nợ Ngược lại, môi trường kinh tế kém phát triển và cạnh tranh yếu dẫn đến sự phát triển không đạt yêu cầu, gây khó khăn cho cá nhân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn tài chính Hơn nữa, sự thay đổi nhanh chóng trong các chính sách vĩ mô như lãi suất, tỷ giá và chính sách xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân và tổ chức, khiến họ dễ bị động và tăng nguy cơ nợ xấu tại ngân hàng thương mại.
Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đầy đủ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao trong các ngân hàng thương mại Các chính sách và luật lệ hiện hành còn nhiều bất cập và chồng chéo, gây khó khăn trong việc xử lý tranh chấp liên quan đến tài sản đảm bảo Hơn nữa, quy định về kế toán và kiểm toán chưa đủ mạnh, dẫn đến số liệu không chính xác và thiếu độ tin cậy trong việc thẩm định cho vay.
1.2 Thị trường bất động sản
Nguyên nhân phát sinh nợ xấu từ phía ngân hàng
2.1 Do năng lực quản trị tại mỗi ngân hàng còn nhiều yếu kém
Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng gia tăng do năng lực quản trị còn yếu kém, không tương xứng với quy mô và mức độ rủi ro Hệ thống chính sách xử lý tài sản thiếu hoàn thiện, gây khó khăn trong việc quản lý nợ Bên cạnh đó, việc xếp hạng tín dụng khách hàng còn mang tính chủ quan và thiếu các tiêu chí định lượng, dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá chính xác rủi ro và quyết định cho vay.
Ngân hàng có thể thiếu thông tin chính xác để đánh giá khách hàng một cách toàn diện, dẫn đến việc xác định hiệu quả vay vốn không chính xác và thời hạn cho vay, trả nợ không phù hợp với kế hoạch kinh doanh của khách hàng.
Vấn đề khiếm khuyết trong công tác tổ chức thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động cấp tín dụng đã tạo điều kiện cho nhiều trường hợp lợi dụng tín dụng để trục lợi và thực hiện hành vi phạm pháp Điều này không chỉ làm khó khăn trong việc phát hiện và xử lý sai phạm mà còn góp phần gia tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại, dẫn đến rủi ro cho toàn bộ nền kinh tế.
Lỗ hổng và sự kiểm soát yếu kém tại Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (VNCB) vào năm 2016 là một ví dụ điển hình cho thấy, mặc dù có quy định pháp luật và sự giám sát từ nhiều cơ quan, nhiều ngân hàng thương mại vẫn bộc lộ yếu kém trong quản trị, dẫn đến thất thoát tài chính Vụ án của VNCB, với sự tham gia của Phạm Công Danh và đồng phạm, đã gây chấn động khi họ cấu kết gây thất thoát hơn 9 nghìn tỷ đồng VNCB, trước đây là Ngân hàng Đại Tín, đã trải qua quá trình tái cấu trúc và bị đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), yêu cầu tất cả giao dịch lớn phải được phê duyệt Tuy nhiên, trong thời gian giữ chức Chủ tịch HĐQT, ông Phạm Công Danh đã lợi dụng quyền lực của mình để thực hiện các hành vi sai phạm.
Trong ngân hàng VNCB, đã xảy ra việc yêu cầu cấp dưới và các bộ phận liên quan lập hồ sơ khống để rút và vay tiền nhằm chi trả cho các khoản chi tiêu cá nhân và nợ nần Hành động này đã khiến ngân hàng chịu thiệt hại lên tới hơn 9 nghìn tỷ đồng.
Tiến sĩ Vũ Đình Ánh cho rằng VNCB đã áp dụng một phương pháp tái cơ cấu khác biệt so với các ngân hàng trước đó, khi không chọn một ngân hàng lớn để thực hiện tái cấu trúc mà lại đưa một người không có kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng vào vị trí lãnh đạo Mặc dù phương pháp này không phải là chưa từng xảy ra, nhưng nó tiềm ẩn nhiều bất cập và rủi ro lớn, do người được chọn chỉ có tiềm lực tài chính mà thiếu hiểu biết về các nghiệp vụ ngân hàng đặc thù Trách nhiệm đánh giá năng lực thuộc về các cán bộ chủ chốt của ngân hàng, trong khi các cơ quan giám sát như tổ giám sát của NHNN cũng cần phải chịu trách nhiệm vì chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình và quy định quản trị còn lỏng lẻo Hơn nữa, các quy định pháp lý trong quản trị ngân hàng có thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi rút tiền không đúng quy định của ông Danh.
2.2 Do đạo đức nghề nghiệp, chất lượng cán bộ ngân hàng
Cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối khách hàng với ngân hàng, vì họ hiểu rõ đặc điểm và chất lượng của khách hàng cũng như khoản vay Để thực hiện nhiệm vụ này hiệu quả, cán bộ tín dụng cần có kiến thức, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm làm việc, cùng khả năng dự báo và phân tích Nếu trình độ và kỹ năng của họ yếu kém, sẽ khó đánh giá đúng khả năng rủi ro liên quan đến khoản vay, dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm và gia tăng nguy cơ nợ xấu.
Nhiều ngân hàng thương mại hiện đang đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng: sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ tín dụng Mặc dù có danh tính và năng lực, nhưng một số cán bộ lại lợi dụng vị trí của mình để liên kết với con nợ, từ đó trục lợi từ ngân hàng Sự yếu kém về phẩm chất này đang trở thành "cái gai" tiềm ẩn trong ngành ngân hàng, đe dọa đến sự ổn định và uy tín của hệ thống tài chính.
Việc lợi dụng lỗ hổng pháp luật để làm giàu phi pháp đang gây ra tổn thất nghiêm trọng về tài sản và vốn Đây là một rủi ro đạo đức lớn đối với cán bộ ngân hàng.
Tội phạm ngân hàng ngày càng tinh vi, do lòng tham và quản lý yếu kém, dẫn đến hệ lụy khó lường trong tài chính Nguồn nhân lực yếu không chỉ ảnh hưởng đến quản trị ngân hàng và hiệu quả kinh doanh mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức lớn, gây thất thoát tài sản của công dân và quốc gia Tỷ lệ nợ xấu cao và các khoản tín dụng khó thu hồi thường xảy ra tại những ngân hàng có cán bộ tín dụng vô trách nhiệm và đạo đức kém.
Vụ án tham nhũng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) - Chi nhánh 6 vào năm 2015 là một ví dụ điển hình cho nguyên nhân đạo đức nghề nghiệp yếu kém của cán bộ ngân hàng, dẫn đến phát sinh nợ xấu Các thủ phạm chính, bao gồm Hồ Đăng Trung - nguyên giám đốc, Hồ Văn Long - nguyên trưởng phòng tín dụng và Dương Thanh Cường - nguyên Tổng Giám đốc công ty CP Tập đoàn Bình Phát, đã lợi dụng chức vụ để thực hiện nhiều hành vi lừa đảo, gây thất thoát gần 1.000 tỷ đồng Từ năm 2007-2010, Dương Thanh Cường cùng đồng phạm đã ký hợp đồng chuyển nhượng khống và cho vay trái quy định, trong khi Hồ Văn Long đã đề xuất cho công ty Tấn Phát vay 170 tỷ đồng mà không có phê duyệt dự án, đồng thời cho công ty Thanh Phát vay 628 tỷ đồng, tạo điều kiện cho Cường chiếm đoạt tài sản.
Tính đến cuối năm 2015, vụ án hình sự, dân sự và các tranh chấp dân sự liên quan đến Agribank tại TP Hồ Chí Minh đã khiến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng này đạt 10,7% tổng dư nợ, đưa Agribank trở thành ngân hàng có tổng nợ xấu cao nhất trong hệ thống các tổ chức tín dụng.
2.3 Do tình trạng sở hữu chéo
Sở hữu chéo là hình thức hai tổ chức nắm giữ cổ phần lẫn nhau, thường được thực hiện qua các khoản đầu tư tài chính từ các định chế tài chính hoặc doanh nghiệp Hình thức này có sự đa dạng trong bối cảnh kinh tế, bao gồm ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất, công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư Tuy nhiên, trong số các mối quan hệ phức tạp đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp nổi bật hơn cả.
Sở hữu chéo có thể dẫn đến các giao dịch phi thị trường và không hợp lý, làm méo mó việc sử dụng nguồn lực hiệu quả Điều này có thể gây tổn thất cho các bên liên quan, như chuyển giá và giảm thu ngân sách cho chính phủ do các giao dịch nội bộ không mang tính chất thị trường Doanh nghiệp có quan hệ sở hữu với ngân hàng dễ dàng tìm kiếm nguồn tài trợ chéo để đảo nợ, khiến việc đánh giá chất lượng tín dụng và nợ xấu của ngân hàng trở nên khó khăn hơn.
Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 30/6/2019, Việt Nam đã gần như xóa bỏ hoàn toàn tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại Cụ thể, chỉ còn lại 1 ngân hàng thương mại cổ phần với 1 cặp sở hữu cổ phần lẫn nhau, trong khi con số này vào tháng 6/2012 lên tới 56 cặp Do đó, nhóm chúng em không phân tích sâu về vấn đề này.
Tác động của việc gia tăng nợ xấu đến các NHTM và nền kinh tế
3.1 Đối với nền kinh tế
Tỷ lệ nợ xấu tăng cao không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng mà còn tác động gián tiếp đến nền kinh tế thông qua mối quan hệ giữa khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế Nợ xấu làm gia tăng lạm phát, kìm hãm hoạt động kinh doanh và sản xuất của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nguồn vốn bị tồn đọng, giảm lợi nhuận của cả doanh nghiệp và ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
Nợ xấu kết hợp với dòng tín dụng lớn có thể gây ra khủng hoảng trong hệ thống tài chính ngân hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.
Nợ xấu trong hệ thống tín dụng lớn có thể dẫn đến sự sụp đổ của nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụng, gây ra tình trạng thất nghiệp gia tăng và thu nhập của người lao động giảm sút Hệ quả là các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất, sa thải nhân viên và cắt giảm hợp đồng đầu vào Sự sụt giảm trong tiêu dùng của các hộ gia đình khiến hàng hóa không được tiêu thụ, đặt nhiều doanh nghiệp vào nguy cơ phá sản.
Nợ xấu làm tăng rủi ro thanh khoản, khiến tổ chức tài chính có thể mất khả năng thanh toán nếu uy tín giảm và xảy ra tình trạng rút tiền ồ ạt Rủi ro thanh khoản không chỉ ảnh hưởng đến một ngân hàng hay tổ chức tín dụng mà còn lan rộng ra toàn bộ hệ thống tài chính.
3.2 Đối với bản thân hệ thống ngân hàng
Nợ xấu ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM), dẫn đến giảm lợi nhuận và khả năng thanh toán Việc sử dụng vốn kém hiệu quả cùng với rủi ro dòng tiền gia tăng có thể làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường nếu tình trạng nợ xấu không được xử lý triệt để.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò là trung gian tài chính, giúp luân chuyển nguồn vốn nhàn rỗi vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh Tuy nhiên, nợ xấu gây ra tình trạng đóng băng nguồn vốn, cản trở lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế Khi nợ xấu phát sinh, dòng tiền bị ngắt quãng, dẫn đến tình trạng vốn bị tồn đọng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của NHTM Sự kéo dài của nợ xấu không chỉ làm giảm doanh thu mà còn dẫn đến thua lỗ, gia tăng chi phí như chi phí dự phòng rủi ro và chi phí quản lý.
Khi nợ xấu gia tăng, chi phí hoạt động của ngân hàng cũng tăng theo, do ngân hàng phải trích lập dự phòng lớn hơn cho các khoản nợ thuộc nhóm 3.
Khi ngân hàng thu hồi vốn, lợi nhuận có thể giảm so với dự kiến ban đầu trong hợp đồng tín dụng, dẫn đến việc giảm các khoản đóng góp vào quỹ và ngân sách Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư công nghệ hiện đại hóa ngân hàng cũng như việc đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên Hệ quả là danh tiếng của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.
Hiện nay, khách hàng dễ dàng tìm hiểu hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) qua các phương tiện truyền thông và báo cáo công khai Khi khách hàng nhận thấy ngân hàng có nhiều khoản nợ xấu, lòng tin của họ sẽ bị suy giảm, dẫn đến tâm lý hoang mang.
Nợ xấu gia tăng trong ngân hàng không chỉ làm giảm uy tín trên thị trường trong nước mà còn ảnh hưởng đến danh tiếng quốc tế Điều này dẫn đến việc xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng bị suy giảm, từ đó cản trở khả năng thu hút đầu tư và hợp tác với các đối tác nước ngoài Nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là sự quản lý kém và rủi ro trong hoạt động cho vay.
Nợ xấu kéo dài làm giảm lợi nhuận của ngân hàng do nguồn vốn bị tồn đọng và chi phí xử lý nợ gia tăng Đồng thời, ngân hàng vẫn phải chi trả cho các khoản tiền gửi và chi phí khác, dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Nợ xấu gia tăng khiến gánh nặng trả nợ của ngân hàng tăng cao và chi phí hoạt động tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng Dù nguồn vốn dồi dào, nhưng ngân hàng thiếu niềm tin vào khả năng trả nợ của khách hàng, dẫn đến việc hạn chế cho vay Sự thận trọng trong việc phê duyệt các khoản vay nhằm giảm thiểu nợ xấu đã tạo ra tình trạng khát vốn trong nền kinh tế.
Khi khách hàng gây ra nợ xấu, việc phân loại nợ xấu sẽ dẫn đến hạn chế khả năng vay và sử dụng dịch vụ ngân hàng Các khách hàng thuộc nhóm 3, 4, 5 sẽ không được ngân hàng cho vay dưới bất kỳ hình thức nào, không được sử dụng thẻ tín dụng và phải chờ một thời gian dài để có thể xóa nợ xấu.
Khi ngân hàng có nhiều khoản nợ xấu, lòng tin của khách hàng sẽ giảm sút, gây ra tâm lý hoang mang cho cả khách hàng và nhân viên ngân hàng Hệ quả là khách hàng có xu hướng rút tiền ồ ạt, trong khi những người có tiền nhàn rỗi lại không muốn gửi tiền, dẫn đến rủi ro thanh khoản gia tăng.
Thực trạng tình hình nợ xấu của NHTM tại Việt Nam
Tình hình nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam
Theo số liệu của NHNN Việt Nam, tổng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã gia tăng từ 2015 đến 2020, cho thấy sức khỏe của các tổ chức tín dụng Sự gia tăng nợ xấu phản ánh khó khăn trong việc thu hồi lãi và vốn từ tín dụng trong bối cảnh nền kinh tế mở rộng Mặc dù tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ có xu hướng giảm trong giai đoạn này, nợ xấu nội bảng vẫn được kiểm soát dưới 3% Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống NHTM Việt Nam lần lượt là 2,46% năm 2016, 1,99% năm 2017, 1,89% năm 2018 và 1,63% năm 2019.
2020 là 1,69% Tuy nhiên tổng lượng nợ xấu vẫn liên tục tăng qua các năm, tăng từ 118.725 tỷ VND (2015) lên tới 155.354 tỷ VND (năm 2020)
Bảng 1: Tình hình nợ xấu của các NHTM giai đoạn 2015-2020
Nợ xấu tại một số ngân hàng thương mại (NHTM) đang có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và lãi suất cho vay của nền kinh tế Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã tăng lên 1,78% vào cuối tháng 4 năm 2021, so với 1,69% vào cuối năm 2020 Số NHTM có nợ xấu tăng vẫn chiếm tỷ trọng cao, với nợ quá hạn của nhiều ngân hàng tăng đáng kể BIDV là ngân hàng duy nhất trong bốn ngân hàng lớn ghi nhận nợ xấu giảm nhẹ 1,1%, trong khi VietinBank và Vietcombank có nợ xấu tăng mạnh lần lượt là 52% và 31,3% Agribank cũng ghi nhận mức tăng 13,5% Đáng chú ý, nợ xấu tại VietinBank tăng đột ngột do nợ nhóm 5 tăng gấp đôi trong đầu năm 2021 Một số ngân hàng như ACB, SHB, MSB và ABBank cũng có tỷ lệ nợ xấu tăng trên 10% Ngược lại, Kienlongbank đã giảm nợ xấu tới 73% so với cuối năm 2020 nhờ thu hồi nợ gốc và lãi từ các khoản vay có tài sản bảo đảm.
Tình hình nợ xấu của các ngân hàng đang gia tăng, đặc biệt là nợ nhóm 5, cho thấy sức khỏe của nền kinh tế đang suy giảm nghiêm trọng Dịch bệnh Covid-19 đã gây ra gián đoạn sản xuất và đứt gãy dòng tiền, khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ ngân hàng, thậm chí dẫn đến tình trạng phá sản.
Mặc dù thực trạng nợ xấu trong ngành ngân hàng chưa được thể hiện rõ ràng, nhưng sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 01 và Thông tư 03 để hỗ trợ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, các ngân hàng thương mại đã được phép cơ cấu lại nợ và giữ nguyên nhóm nợ.
Trong bối cảnh hiện nay, việc xử lý nợ xấu trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết Nghị quyết 42 đã được triển khai, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) kể từ cuối năm 2017.
Trong năm 2020, tổng số nợ xấu được xử lý hàng tháng trung bình đạt khoảng 7,15 nghìn tỷ đồng, cao hơn 3,63 nghìn tỷ đồng so với các năm trước Số liệu này cho thấy sự tăng trưởng đáng kể khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng so với mức xử lý nợ xấu trung bình hàng tháng từ năm 2012 đến 2017, trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực.
Bảng 2: Tình hình xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM từ 2015 đến 2020
Theo Nghị quyết 42, kết quả xử lý nợ xấu thông qua hình thức khách hàng trả nợ đang có xu hướng tăng Tỷ trọng nợ xấu được xử lý theo hình thức này đạt khoảng 40,1% vào đầu năm.
2020, cao hơn nhiều so với giai đoạn 2012-2017 (22,8%), điều này cho thấy khách hàng đã chủ động hơn trong việc hoàn thành các khoản nợ của các TCTD
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đã giảm, nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn tăng cường trích lập dự phòng rủi ro từ nửa đầu năm nay, đặc biệt là những ngân hàng lớn Theo báo cáo tài chính quý II/2021, nhiều ngân hàng đã nâng tỷ lệ trích lập dự phòng nợ xấu lên trên 100%, với một số ngân hàng đạt mức trên 200% và 300% Đây là tình huống chưa từng xảy ra trước đây, khi mà trích lập dự phòng thường thấp và lợi nhuận được chia nhiều hơn Việc tăng cường trích lập dự phòng nợ xấu cho thấy các NHTM đang chủ động hơn trong việc ứng phó với nợ xấu, đặc biệt là trong bối cảnh dự báo nợ xấu có khả năng gia tăng.
Việc tăng cường trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) trong ngắn hạn sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng Tuy nhiên, giảm trích lập DPRR có thể tạo ra lợi nhuận ảo trong dài hạn Theo Thông tư 03 của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có thể chỉ cần trích lập DPRR tối thiểu 30% trong năm 2021 và hoàn thành trong hai năm tiếp theo Dù vậy, nhiều ngân hàng chọn trích lập một khoản lớn hoặc toàn bộ DPRR cho các khoản nợ quá hạn, vì quyết định này, mặc dù ảnh hưởng đến lợi nhuận ngắn hạn, sẽ giúp giảm rủi ro nợ xấu trong tương lai, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp.
Tác động của nợ xấu đối với hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
2.1 Nợ xấu tăng trong bối cảnh dịch Covid, trong khi hoạt động xử lý còn khó khăn
Dịch bệnh gia tăng gần đây đã tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam, khiến nhiều doanh nghiệp rơi vào khó khăn và khủng hoảng, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh chóng.
Theo thống kê báo cáo tài chính quý III-2020 – chỉ trong vòng 9 tháng kể từ đầu năm
Năm 2020, nợ xấu đã gia tăng đáng kể, với tổng hợp từ 16 ngân hàng (trừ SeABank và NBC) cho thấy nợ xấu nội bảng cuối tháng 9 tăng tới 31% Đặc biệt, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) ở nhiều ngân hàng tăng nhanh chóng, có ngân hàng ghi nhận mức tăng gấp 3 - 4 lần so với cuối năm 2019.
Trong bối cảnh nợ xấu gia tăng nhanh chóng, việc xử lý nợ xấu đang gặp nhiều thách thức lớn Dịch bệnh Covid đã khiến các ngân hàng thương mại không thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, chỉ có thể giao tiếp qua email hoặc điện thoại, nhưng những phương thức này không đạt hiệu quả Hơn nữa, tình hình dịch bệnh đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho việc thu hồi nợ.
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, các công tác phòng chống dịch được ưu tiên hàng đầu, khiến các cơ quan chức năng gặp khó khăn trong việc hỗ trợ ngân hàng xử lý các hoạt động liên quan Tốc độ thu hồi nợ chậm lại và hoạt động bán đấu giá tài sản bảo đảm cũng gặp nhiều bất cập, với nhiều khách hàng xin kéo dài thời gian chi trả Do tình hình giãn cách, nhiều doanh nghiệp phải đình trệ hoạt động kinh doanh, chuỗi sản xuất bị gián đoạn, dẫn đến dòng tiền bị đứt gãy, làm giảm nguồn thu để trả nợ, từ đó gia tăng nguy cơ nợ xấu.
Các chuyên gia dự đoán rằng đến cuối năm 2021, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại có thể đạt 3% và có khả năng tăng lên 4,5% trong thời gian tới nếu tình hình phòng chống dịch bệnh vẫn gặp nhiều khó khăn Áp lực giải quyết nợ xấu đối với các ngân hàng thương mại sẽ gia tăng khi tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng, trong khi Nghị quyết 42 sẽ hết hiệu lực trong vòng một năm tới.
2.2 NHTM vẫn hoạt động tốt trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn
Theo các chuyên gia tài chính, mức tăng trưởng tín dụng 5,47% của toàn hệ thống ngân hàng được coi là cao, bất chấp những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra trong hơn 3 tháng qua Bên cạnh đó, tổng phương tiện thanh toán của ngành ngân hàng cũng tăng 3,48% Mặc dù doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh, các ngân hàng vẫn tiếp tục cung cấp vốn vay và các hình thức tín dụng khác, nhưng với sự thận trọng và chặt chẽ hơn trong việc quyết định cấp vốn và giải ngân.
Nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng nhìn chung thì hầu hết tỷ lệ nợ xấu vẫn được kiểm soát ở mức hợp lý.
Dữ liệu cho thấy nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đang được kiểm soát tốt, với tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay hầu hết dưới 3%, ngoại trừ VPBank với tỷ lệ gần 3,5% Đa số NHTM duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 2% Thông tư 03/2021/TT-NHNN, có hiệu lực từ 17/5/2021, quy định các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể cơ cấu lại thời hạn trả nợ và thực hiện chính sách giảm lãi, phí nhằm hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, điều này giúp giảm gánh nặng nợ xấu cho ngân hàng và doanh nghiệp Trong bối cảnh tác động tiêu cực của đại dịch, tình hình nợ xấu hiện tại được đánh giá là khá tích cực.
Nợ xấu ở mức thấp như vậy một phần là do hiệu quả của Nghị quyết 42 và Thông tư
Nghị quyết 42 và Thông tư 03 sửa đổi tạo ra hành lang pháp lý quan trọng, hỗ trợ hiệu quả cho việc xử lý nợ Hiện tại, một lượng lớn nợ xấu đang được quản lý bởi VAMC, cùng với nợ được cơ cấu lại mà không chuyển nhóm theo Thông tư 01 và Thông tư 03 sửa đổi, nhằm giúp đỡ khách hàng bị ảnh hưởng.
Theo dữ liệu Chính phủ công bố, tính đến tháng 5/2021, quy mô nợ xấu đã giảm 3,4% so với cuối năm 2020, đạt khoảng 4,4% Tuy nhiên, bức tranh nợ xấu này có thể không phản ánh đầy đủ thực tế, bởi các khoản nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu lại vẫn chưa rõ ràng Hơn nữa, tình hình nợ xấu có khả năng sẽ gia tăng nhanh chóng do tác động khó lường từ đại dịch Covid-19.
Trong bối cảnh khủng hoảng do dịch bệnh COVID-19, tỷ lệ nợ xấu hiện nay được xem là tích cực, đặc biệt khi so sánh với mức tăng cao kỷ lục 17% vào năm 2012.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu vẫn nằm trong "vùng an toàn", các ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn tích cực gia tăng trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) theo Thông tư 03/2021 (sửa đổi Thông tư 01) do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành, với lộ trình trích lập dự phòng dự kiến kéo dài trong thời gian tới.
Trong vòng 3 năm tới, các khoản nợ cơ cấu bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 sẽ cần thời gian trích lập dự phòng lâu hơn Mức độ trích lập dự phòng của từng ngân hàng sẽ phụ thuộc vào chất lượng dư nợ cho vay Khi nợ xấu gia tăng, gánh nặng trích lập dự phòng của các ngân hàng cũng sẽ tăng theo.
Nhiều ngân hàng đã chủ động trích lập và tăng cường bộ đệm rủi ro bằng cách nâng tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên mức kỷ lục Điều này giúp họ có sẵn nguồn tiền dự phòng để xử lý các vấn đề phát sinh đột biến, từ đó tránh tình trạng nợ xấu tăng đột ngột Cuối quý 1/2021, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của 25 ngân hàng đã tăng lên 103%.
Tính đến cuối quý 2, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của một số ngân hàng đã tăng cao, với Techcombank đạt 259%, MB Bank 236% và Vietcombank 351%, dẫn đầu danh sách Mặc dù nhiều ngân hàng đã nâng cao mức bao phủ nợ xấu để đảm bảo an toàn, VPBank lại cho thấy sự thiếu an toàn khi có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp nhất trong nhóm 5 ngân hàng, điều này gây ra rủi ro lớn khi xảy ra khó khăn tài chính.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu là một chỉ số quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro, giúp đánh giá khả năng chống đỡ của ngân hàng trước các rủi ro liên quan đến nợ xấu.