Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu mối quan hệ quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam và Campuchia đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà chính trị và khoa học Tuy nhiên, nghiên cứu ở cấp độ địa phương giữa các tỉnh giáp biên vẫn chưa được chú trọng Điều này đã gây khó khăn cho tôi trong việc tìm kiếm tài liệu tham khảo cho công trình nghiên cứu của mình Dù vậy, nhờ nỗ lực cá nhân, tôi đã tiếp cận và khai thác được một số nguồn tư liệu cần thiết.
Nhóm các công trình nghiên cứu tập trung vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quốc phòng an ninh tại khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia Những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa hai nước, từ đó giúp hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và hợp tác trong khu vực biên giới.
Công trình đầu tiên là kỳ yếu Hội thảo khoa học “Vùng biên giới đất liền
Bài viết "Việt Nam - Campuchia: Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội, pháp lý và các giải pháp phát triển bền vững, hài hòa" (2009) của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã tập hợp nhiều nghiên cứu từ các học giả uy tín, nhấn mạnh vai trò quan trọng của vùng biên giới Việt Nam - Campuchia Qua việc phân tích các khía cạnh hợp tác, các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm phát triển bền vững khu vực biên giới Công trình này cung cấp tư liệu quý giá về tình hình biên giới và mối quan hệ giữa hai nước, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu và bổ sung thông tin liên quan đến quan hệ quốc phòng - an ninh tại cấp độ địa phương Tây Ninh với các tỉnh giáp biên Campuchia.
Bài viết “Nghiên cứu cơ sở lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia và đề xuất giải pháp ổn định, phát triển vùng biên giới hai nước” của tác giả Nguyễn Sĩ Tuấn, được thực hiện năm 2010, tiếp cận từ nhiều lĩnh vực như sử học, dân tộc học, văn hóa học và chính trị học Công trình này phân tích lịch sử hình thành, đặc điểm và tính pháp lý của đường biên giới Việt Nam – Campuchia, đồng thời sử dụng đa dạng nguồn sử liệu trong và ngoài nước để làm rõ tính lịch sử và pháp lý của khu vực biên giới này.
Tiếp tục là luận văn tiến sĩ, đề tài "Quan hệ Việt Nam - Campuchia
Bài viết "Quá trình hình thành đường biên giới trên bộ giữa Việt Nam – Campuchia" của tác giả Lê Trung Dũng (2014) đã sử dụng phương pháp phê khảo nguồn sử liệu và so sánh đối chiếu để giải thích các vấn đề quan trọng liên quan đến biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia Nhóm tác giả đã kết hợp nguồn tư liệu từ các chuyên ngành dân tộc học, khảo cổ học, văn bản học, và bản đồ học để làm sáng tỏ những tranh luận xung quanh vấn đề này, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử và hiện tại của biên giới hai nước.
Nhóm nghiên cứu về mối quan hệ xuyên biên giới giữa Việt Nam, Lào và Campuchia đã được trình bày trong bài viết "Một số vấn đề chủ yếu về thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia" của tác giả Nguyễn Sỹ Tuấn, đăng trên tạp chí Khoa học Xã hội Bài viết tập trung vào các vấn đề quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại và đầu tư trong khu vực biên giới, góp phần vào sự phát triển kinh tế và hợp tác giữa các quốc gia.
Trong bài viết Tây Nguyên số 3/2015, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên biên giới giữa Việt Nam, Lào và Campuchia Để đạt được điều này, cần hoàn thiện cơ chế và chính sách, cũng như xây dựng khung pháp lý và các chính sách cụ thể liên quan đến đầu tư xuyên biên giới.
Bài viết "Hợp tác kinh tế xuyên biên giới giữa Tây Nam Bộ với Campuchia" của Nguyễn Văn Hà, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 5/2017, nêu rõ các nhân tố thúc đẩy và ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác giữa hai khu vực Tương tự, tác phẩm "Di cư lao động xuyên biên giới không giấy phép" của Nguyễn Song, cũng đăng trên tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á số 5/2017, phân tích ba nguyên nhân chính dẫn đến di cư không giấy phép tại vùng biên giới phía Bắc, trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến lược hộ gia đình Những phân tích này sẽ là cơ sở để so sánh với nguyên nhân di cư tại khu vực biên giới phía Nam, đặc biệt là tỉnh Tây Ninh với Campuchia Cuối cùng, bài viết "Quản lý hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam hiện nay: chính sách và thực tiễn" của nhóm tác giả Nguyễn Hữu Minh, Đặng Thị Hòa, Trần Thị cũng góp phần làm rõ tình hình quản lý hôn nhân trong bối cảnh xuyên biên giới.
Trong bài viết của tác giả Nguyễn Duy Dũng, đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 9/2015, phân tích các vấn đề trong hợp tác kinh tế - xã hội xuyên biên giới giữa Việt Nam, Lào và Campuchia Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống văn bản pháp lý ba nước nhằm thúc đẩy quan hệ xuyên biên giới, phát triển hệ thống cửa khẩu, khu kinh tế và các chợ biên giới phục vụ cho công tác hợp tác này.
Nam – Campuchia”, của tác giả Phan An đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông
Bài viết của tác giả Trần Hồng Liên, đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 8/2010, ghi chép thực trạng mối quan hệ tộc người giữa Việt Nam và Campuchia, đồng thời khám phá giao lưu văn hóa Phật giáo giữa hai quốc gia trong quá khứ và hiện tại Tác giả cũng nhấn mạnh những đặc trưng trong đời sống tôn giáo của cộng đồng cư dân vùng biên giới Bên cạnh đó, bài viết của Lê đề xuất một số giải pháp tổng thể nhằm phát triển vùng biên giới giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.
Bài viết của Minh Điển trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 14/2009 đề cập đến thực trạng phát triển kinh tế - xã hội tại vùng biên giới Nội dung bài viết phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực này, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tình hình kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Việt Nam – Campuchia”, của Nguyễn Hồng Nhung đăng trong Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á số 8/2010 và bài viết của tác giả Nguyễn Sỹ Tuấn về "Một số vấn đề chủ yếu thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia", đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên số 3/2015, đã phân tích các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại và đầu tư trong khu vực này.
Nhóm các công trình thứ nhất đã cung cấp cái nhìn tổng quát về mối quan hệ song phương giữa hai nước, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tộc người, và quốc phòng - an ninh Những nghiên cứu này mang lại nguồn tư liệu quý giá, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tình hình biên giới cũng như mối quan hệ giữa hai quốc gia Từ nền tảng đó, tôi có cơ sở để nghiên cứu và bổ sung mối quan hệ ở cấp độ địa phương giữa tỉnh Tây Ninh và các tỉnh đối diện phía Campuchia trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
Nhóm nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ quốc phòng - an ninh giữa tỉnh Tây Ninh và các tỉnh giáp biên Campuchia, với công trình đầu tiên là "các văn bản pháp lý về việc giải quyết biên giới".
Bài viết "Việt Nam - Campuchia" (2006) do Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương và Ban biên giới (Bộ Ngoại giao) chủ trì nhằm nâng cao nhận thức về biên giới Việt Nam - Campuchia Mục tiêu chính là đảm bảo việc thực thi nghiêm túc các văn bản biên giới đã ký kết giữa hai nước và các quy định pháp luật Việt Nam liên quan Qua đó, giúp những người làm công tác biên giới và cộng đồng địa phương hiểu rõ hơn về biên giới và các văn bản pháp lý, từ đó tích cực tham gia và hỗ trợ công tác phân giới cắm mốc theo đúng lộ trình đã đề ra.
Tiếp theo là nhóm các báo cáo của UBND tỉnh Tây Ninh như “Báo cáo hợp tác với Lào và Campuchia 6 tháng đầu năm 2013”, của UND tỉnh Tây
Mục tiêu của đề tài
Bài viết này tập trung vào việc nhận diện lịch sử và hiện trạng của quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh giữa tỉnh Tây Ninh và ba tỉnh giáp biên của Campuchia Mục tiêu là đánh giá vị trí và vai trò của mối quan hệ này trong chiến lược bảo vệ quốc phòng - an ninh tại khu vực Đông Nam Bộ, cũng như trong bối cảnh chung của Việt Nam.
Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ quốc phòng - an ninh giữa tỉnh Tây Ninh và ba tỉnh giáp biên giới Campuchia là rất quan trọng Mối quan hệ này không chỉ đảm bảo an ninh khu vực mà còn thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa giữa các bên Việc nghiên cứu và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ này sẽ giúp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ biên giới và giữ gìn hòa bình ổn định trong khu vực.
Tỉnh Tây Ninh duy trì quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh chặt chẽ với các tỉnh giáp biên Campuchia, tập trung vào việc tăng cường quan hệ đối ngoại biên phòng, đảm bảo công tác phân giới cắm mốc, và bảo vệ trật tự, an ninh khu vực Hợp tác này còn bao gồm các hoạt động phòng chống tội phạm xuyên biên giới, nhằm tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho cả hai bên.
Phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận
Bài viết tiếp cận đề tài từ góc nhìn lịch sử của Việt Nam, tập trung vào không gian, thời gian và đối tượng nghiên cứu cụ thể Mục tiêu là khám phá nguồn gốc và mối quan hệ giữa khu vực quốc phòng - an ninh của tỉnh Tây Ninh và Campuchia, từ quan điểm của Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu mối quan hệ quốc phòng - an ninh giữa tỉnh Tây Ninh và ba tỉnh Campuchia, tôi đã áp dụng phương pháp lịch sử để làm rõ sự hình thành và phát triển của mối quan hệ này theo trình tự thời gian Qua đó, tôi đánh giá thực trạng và quá trình tương tác giữa Tây Ninh và các tỉnh giáp biên của Campuchia Bên cạnh đó, tôi cũng sử dụng phương pháp logic để khái quát hóa quy luật và các vấn đề chung liên quan đến mối quan hệ quốc phòng - an ninh giữa các địa phương giáp biên và giữa hai quốc gia.
Ý nghĩa
Ý nghĩa khoa học
Công trình này cung cấp tư liệu quan trọng cho nghiên cứu biên giới Tây Ninh với các tỉnh Campuchia, đồng thời là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên và học sinh địa phương trong quá trình học tập.
Ý nghĩa thực tiễn
Khu vực biên giới giáp biên là nơi phức tạp về an ninh và nhạy cảm về chủ quyền quốc gia, thường bị các loại tội phạm lợi dụng để hoạt động Để bảo vệ quốc phòng và an ninh, cũng như ngăn chặn tội phạm xuyên biên giới, việc phối hợp, trao đổi và hợp tác giữa các chính quyền là một nhu cầu tất yếu.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục và phục lục hình ảnh, báo tốt nghiệp được kết cấu 3 chương
Chương 1: Cơ sở mối quan hệ quốc phòng - an ninh biên giới giữa tỉnh Tây Ninh với các tỉnh giáp biên Campuchia
Chương 2: Quan hệ quốc phòng - an ninh biên giới giữa tỉnh Tây Ninh với các tỉnh giáp biên Campuchia 1991 - 2019
Chương 3 đánh giá vai trò quan trọng của tỉnh Tây Ninh trong bối cảnh quốc phòng - an ninh, đặc biệt là mối quan hệ với các tỉnh giáp biên Campuchia Tỉnh Tây Ninh không chỉ là cầu nối giữa Việt Nam và Campuchia mà còn đóng góp vào sự ổn định an ninh khu vực Sự hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực quốc phòng tại khu vực biên giới này là yếu tố then chốt trong việc duy trì hòa bình và phát triển bền vững.
CƠ SỞ MỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG - AN NINH BIÊN GIỚI GIỮA TỈNH TÂY NINH VỚI CÁC TỈNH GIÁP BIÊN CAMPUCHIA
KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA CHÍNH TRỊ
Tây Ninh là tỉnh miền Đông Nam Bộ, có diện tích 4.035,45 km², giáp với Bình Dương, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh và Long An Phía Tây và Tây Bắc tỉnh tiếp giáp Campuchia với đường biên giới dài 240 km, bao gồm 05 huyện và 20 xã biên giới, có 03 cửa khẩu quốc tế và 04 cửa khẩu quốc gia Tính đến năm 2019, dân số tỉnh đạt 1.169.165 người, được chia thành 08 huyện và 01 thành phố, với 95 xã, phường, thị trấn, trong đó có 17 dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,52% dân số Địa hình Tây Ninh chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ xuống Đồng Bằng sông Cửu Long, với Núi Bà Đen cao nhất Nam Bộ (986m), tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng.
Tây Ninh, nằm giữa thành phố Hồ Chí Minh và Phnôm Pênh, có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhờ vào hệ thống giao thông quốc tế và quốc gia Khu vực biên giới tỉnh Tây Ninh với địa hình tương đối bằng phẳng, bao gồm rừng chồi và ruộng nước, tạo điều kiện cho sự phát triển Đối diện Tây Ninh là 22 xã thuộc 07 huyện biên giới của Campuchia, tạo ra cơ hội hợp tác và giao thương Tây Ninh không chỉ là một trung tâm kinh tế - thương mại tiềm năng mà còn đóng vai trò chiến lược trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
Tổng kết công tác điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được thực hiện vào ngày 18/10/2019, do Lê Thùy thực hiện Bài viết này đã được cập nhật vào ngày 9/10/2020 và có thể tìm thấy tại [đây](https://baotayninh.vn/tong-ket-cong-tac-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019-a115402.html).
Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh đã ban hành Nghị quyết số 09-2012NQ vào ngày 11/7/2012, cập nhật ngày 9/10/2020, nhằm phát triển đô thị tại tỉnh Tây Ninh Tỉnh Tây Ninh đóng vai trò là cửa ngõ giao lưu quốc tế quan trọng giữa Việt Nam và các nước láng giềng như Campuchia, Thái Lan Vị trí của Tây Ninh cũng rất quan trọng trong việc trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long và các tỉnh kinh tế trọng điểm phía Nam Khu vực này không chỉ có tầm quan trọng ở Đông Nam Bộ mà còn ở toàn bộ Nam Bộ Việt Nam, cho thấy Tây Ninh là vùng có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh, điều này đã được các vua triều Nguyễn nhận thức từ rất sớm.
Dưới triều Nguyễn, Tây Ninh là vùng đất quan trọng trong các cuộc tranh chấp giữa các vương quốc ở khu vực Nam Bộ từ thế kỷ XII đến giữa thế kỷ XIX Vị trí địa chính trị của Tây Ninh trong hệ thống phòng thủ biên giới Đông Nam đã khiến nó trở thành mục tiêu trong chiến lược bành trướng của Xiêm La, với nhiều âm mưu từ chính quyền Xiêm La nhằm giành quyền kiểm soát Tây Ninh được xem là "phên dậu" bảo vệ Gia Định từ phía Tây, dẫn đến nhiều cuộc xung đột gay gắt Đỉnh điểm của những cuộc giao tranh xảy ra khi triều Nguyễn thiết lập trấn Tây Thành, tạo nền tảng cho sự bảo hộ lâu dài đối với Chân Lạp.
Tây Ninh nổi bật với "Đường Thiên Lý", con đường lịch sử từ Sài Gòn đến Tây Ninh, còn được biết đến với tên gọi đường sứ hoặc đường Cống sứ Trong thời kỳ triều Nguyễn, đây là tuyến đường huyết mạch kết nối Gia Định với Nam Vang (Cao Miên), nơi các đoàn sứ thần và thương nhân di chuyển bằng xe trâu, xe bò hoặc ngựa thồ để vận chuyển hàng hóa và cống voi giữa hai nước Đường Thiên Lý không chỉ là con đường giao thương mà còn chứng kiến những đoàn quân triều Nguyễn đến tiếp ứng Cao Miên trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược Xiêm La.
Năm 1863, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Định Tường, Gia Định), thực dân Pháp đối mặt với nhiều phong trào chống đối liên tiếp, gây khó khăn trong việc duy trì kiểm soát khu vực này Các cuộc khởi nghĩa nổi lên mạnh mẽ tại vùng Quang Hóa (Trảng Bàng) và Tân Ninh (Tây Ninh), làm gia tăng bất ổn định trong khu vực.
5 Thủ đô Phnôm Pênh của vương quốc Campuchia
Ninh), do Đặng Văn Tòng chỉ huy.
Liên minh kháng chiến chống Pháp giữa Trương Quyền (Việt Nam) và Pucompô (Campuchia), còn được gọi là vùng liên quân Việt – Miên, đã lập căn cứ tại Tây Ninh từ năm 1864 đến 1867 Nghĩa quân đã giành nhiều thắng lợi ở các trận đánh tại thành phủ Tây Ninh, Rạch Vịnh, Trà Vong, Trảng Bảng, Củ Chi, Hóc Môn, Thuận Kiều và Tân An, tạo điều kiện thuận lợi để tiến công xuống Gia Định, Biên Hòa và Đồng Bằng Sông Cửu Long Căn cứ kháng chiến tại Tây Ninh cũng giúp liên lạc với phong trào kháng chiến Binh Thuận và mở rộng hoạt động về phía Tây Nguyên, đồng thời dễ dàng tiến công hoặc rút lui sang Campuchia nhờ vào địa thế chiến lược của khu vực.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Tây Ninh đã trở thành điểm nóng cho những sự kiện chính trị quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến địa phương mà còn có ý nghĩa lớn đối với toàn miền Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của dân tộc Những diễn biến nhanh chóng của cách mạng Việt Nam vào cuối năm đã tạo ra bối cảnh đặc biệt cho sự phát triển của cuộc kháng chiến.
Vào năm 1960, theo Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng về việc thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ Diệm, Xứ ủy Nam Bộ đã nhanh chóng triệu tập Hội nghị thành lập tại Tây Ninh, nơi được chọn vì có địa thế thuận lợi cho sự ra đời của mặt trận Khu căn cứ Dương Minh Châu và Bời Lời cùng với Tây Ninh đã trở thành điểm tựa an toàn cho Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Tây Ninh, nhờ xây dựng căn cứ lòng dân vững chắc, đã đóng góp quan trọng cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo đảm an toàn cho các cơ quan lãnh đạo cách mạng miền Nam và khẳng định vai trò của "Vùng đất thánh Việt Cộng" trong kháng chiến chống Mỹ Trong bối cảnh chiến tranh biên giới Tây Nam, Tây Ninh trở thành mục tiêu đầu tiên mà Khmer đỏ quyết tâm chiếm lĩnh để tiến tới Sài Gòn và giành lại vùng đất Nam Bộ.
Giai đoạn này chứng kiến sự hình thành liên minh chiến đấu giữa nghĩa quân Việt Nam và Campuchia, do Đề Triệu (người Việt) và Lý Rót (người Khmer) lãnh đạo vào năm 1867 tại Ba Động, Trà Vinh Sự kiện này thể hiện tinh thần đoàn kết giữa hai dân tộc trong cuộc chiến chống lại các thế lực ngoại xâm.
Khu vực biên giới Tây Ninh đang đối mặt với nhiều thách thức phức tạp, đòi hỏi Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh cần có quyết tâm cao và áp dụng hiệu quả các biện pháp phòng ngừa tội phạm để bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới Với vị trí chiến lược quan trọng, khu vực này đã thu hút sự quan tâm đặc biệt từ chính phủ Việt Nam thông qua các chính sách phòng thủ Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập ASEAN gia tăng, vấn đề chủ quyền và an ninh biên giới cùng tội phạm xuyên biên giới trở nên đa dạng và phức tạp hơn bao giờ hết Do đó, việc xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia có chung đường biên giới, cũng như giữa các địa phương giáp biên, là rất quan trọng để đảm bảo an ninh quốc gia.
CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH TRONG MỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG - AN NINH GIỮA TỈNH TÂY NINH VỚI TỈNH GIÁP BIỂN CAMPUCHIA
Chủ trương quốc gia về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, và tích cực hội nhập quốc tế Cách mạng Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới với chủ trương đối ngoại rộng mở, chủ động và tích cực trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh Điều này phản ánh sự phát triển mới trong nhận thức và tư duy hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Trong công tác đối ngoại an ninh, Đảng đã đề ra chủ trương và lộ trình một cách khách quan và thận trọng, chú trọng tính thiết thực và hiệu quả Nghị quyết số 08/NQTW (1998) của Bộ Chính trị khẳng định rằng việc mở rộng hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm là yếu tố quan trọng góp phần củng cố an ninh quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc củng cố và phát triển quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước lớn, điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với an ninh và sự phát triển của đất nước.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh bắt đầu từ các hình thức giao lưu và đối thoại nhằm xây dựng mối quan hệ tin cậy và ổn định với các đối tác Theo Nghị quyết 40/NQTW (2004) của Bộ Chính trị, hợp tác quốc tế về an ninh được xác định là giải pháp quan trọng để tăng cường bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì trật tự xã hội Nghị quyết nêu rõ việc mở rộng quan hệ với các cơ quan an ninh, tình báo và cảnh sát của các nước, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, bao gồm trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong các lĩnh vực như phòng, chống khủng bố, tội phạm quốc tế và các vấn đề toàn cầu liên quan đến an ninh quốc gia Đảng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác toàn diện, đặc biệt với Campuchia trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và xây dựng lực lượng.
Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng khẳng định tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực hội nhập quốc tế Xu hướng này phản ánh quy luật phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu quốc tế, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, với sự gia tăng chống phá từ các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước Những thế lực này ngày càng công khai hóa lực lượng và tổ chức với nhiều thủ đoạn tinh vi Do đó, hoạt động đối ngoại an ninh của lực lượng công an sẽ được mở rộng toàn diện về đối tác, nội dung và phương thức, nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh, bảo đảm hội nhập sâu rộng và hiệu quả vào các thể chế chính trị - an ninh toàn cầu.
Tỉnh Tây Ninh thực hiện chính sách hợp tác quốc phòng - an ninh với các tỉnh giáp biên Campuchia nhằm ổn định trật tự khu vực biên giới, ngăn chặn buôn lậu và buôn bán chất ma túy, đáp ứng nhu cầu của cả hai bên Nhận thức được lợi thế vị trí địa lý, Tây Ninh đã chủ động hợp tác theo chủ trương của hai quốc gia, thiết lập mối quan hệ hòa bình, đoàn kết và phát triển giữa tỉnh Tây Ninh và Campuchia, góp phần vào sự phát triển chung của Việt Nam.
Tỉnh Tây Ninh chủ trương xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchia, đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực quốc phòng - an ninh để đảm bảo trật tự ổn định khu vực biên giới Chính sách hậu phương quân đội được quan tâm, tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang an tâm và phấn khởi thực hiện nhiệm vụ an ninh - quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong khu vực phòng thủ.
NHU CẦU HỢP TÁC QUỐC PHÒNG - AN NINH BIÊN GIỚI TÂY
Hợp tác quốc phòng - an ninh giữa Tây Ninh (Việt Nam) và ba tỉnh đối diện của Campuchia là nhu cầu thiết yếu của chính quyền địa phương nhằm đảm bảo trật tự an ninh biên giới và an ninh khu vực Điều này giúp ngăn chặn các hành vi lợi dụng để bôi nhọ, phá hoại và tuyên truyền chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam Bên cạnh đó, hợp tác này còn góp phần đảm bảo an ninh cho sự phát triển kinh tế, xã hội, giao thương hàng hóa và du lịch, từ đó thúc đẩy quan hệ hai bên biên giới.
Hợp tác quốc phòng - an ninh giữa Tây Ninh và Campuchia là cần thiết để duy trì ổn định trật tự tại khu vực biên giới, ngăn chặn các hoạt động xâm canh, xâm cư, và buôn bán trái phép Việc này không chỉ giúp đảm bảo an toàn cho cư dân hai bên mà còn ngăn chặn tội phạm như khủng bố, buôn bán ma túy và động vật quý hiếm Đồng thời, việc cải thiện cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội cho người dân Campuchia cũng rất quan trọng, vì nhiều người thường xuyên qua Việt Nam để khám chữa bệnh Do đó, hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đi lại và giao thương giữa hai nước.
KHÁI QUÁT MỐI QUAN HỆ TÂY NINH VỚI CÁC TỈNH GIÁP BIÊN CAMPUCHIA TRƯỚC NĂM 1991
Quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia đã được thiết lập từ rất sớm, đặc biệt là trong thời phong kiến khi cuộc hôn nhân giữa Chey Chettha II và con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên diễn ra, đánh dấu sự gắn kết chính trị giữa Chân Lạp và Đàng Trong Về mặt quân sự, vua An Nam đã hỗ trợ Campuchia chống lại mối đe dọa từ Xiêm La Trong giai đoạn này, triều Nguyễn đã xây dựng hai đạo Quang Phong và Quang Hóa tại tỉnh Tây Ninh, thiết lập hệ thống đồn bảo để bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới, bao gồm việc xây dựng bảo 8 Quang Hóa và bảo Định Liêu vào năm 1834, cùng với việc đặt lính canh giữ tại những vị trí chiến lược.
Con đường sứ hay con đường Cống sứ nối liền Chân Lạp với cống Đại Nam là khu vực quân sự quan trọng, giúp đảm bảo an ninh biên giới và dễ dàng hỗ trợ quân đội từ Gia Định cho Chân Lạp trong cuộc chiến chống lại Xiêm La Trước tình hình đó, nhân dân Việt Nam và Campuchia đã đoàn kết, sát cánh bên nhau để chống lại kẻ thù chung Một minh chứng rõ nét cho mối quan hệ này là liên minh chiến đấu giữa chủ nghĩa quân Achar Soa (Campuchia) và chủ nghĩa Đề đốc Huân trong giai đoạn 1864 - 1966, cùng với liên minh kháng chiến của Trương Quyền và Pukumbor (1866-1867) Đây là hiện tượng độc đáo trong lịch sử cận đại Nam Kỳ, thể hiện sự kế thừa truyền thống đoàn kết giữa hai dân tộc và nâng cao mối quan hệ này lên một tầm cao mới Cả hai nhân vật lịch sử đều chọn Tây Ninh làm căn cứ để xây dựng lực lượng kháng chiến và hợp tác tác chiến.
8 Xem thêm Vương Công Đức (2016), Trảng Bàng Phương Chí, Tái bản lần thứ nhất, có chỉnh lí, bổ sung, Nxb tri thức, Hà Nội, tr.123.
Cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi trên nhiều mặt trận, từ Sài Gòn, Tây Ninh đến Campuchia Những trận đánh của liên quân đã khiến quân Pháp hoang mang và tạo động lực mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến.
Trên vùng biên giới Việt Nam - Campuchia, nhân dân Việt Nam đã ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Hoàng thân Shivotha (1855-1891), trong khi người Khmer cũng tham gia đông đảo vào các cuộc chiến đấu của Việt Nam Những sự kiện lịch sử này đã tạo nền tảng cho sự liên minh và đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Năm 1930, đồng chí Lợi gia nhập Đảng tại Bà Điểm và nhận nhiệm vụ xây dựng phong trào tại Tây Ninh Sau khi bị phát hiện bởi thực dân Pháp, ông đã chạy sang Kampong Cham, Campuchia, để tổ chức cộng đồng người Việt kiều tham gia kháng chiến chống Pháp.
Vào tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, trong bối cảnh thực dân Pháp âm thầm đưa lính từ biên giới Campuchia - Thái Lan về để đàn áp nhân dân Việt Nam Tại Phnôm Pênh, công nhân lái xe đã tổ chức bãi công, từ chối vận chuyển binh lính nhằm bảo vệ những người anh em Việt Nam Trong Hội nghị Trung ương VIII của Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 5 năm 1941, nhiệm vụ được giao cho Đảng Bộ Nam Kỳ là xây dựng cơ sở Đảng tại Campuchia, nhấn mạnh nghĩa vụ hỗ trợ lẫn nhau giữa cách mạng Việt Nam và Campuchia Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, khẳng định rằng "Chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể tách rời khỏi chủ nghĩa quốc tế vô sản" và tinh thần "giúp bạn giúp mình" giữa nhân dân Việt Nam và Campuchia.
Vào những năm 1950, nhờ sự hỗ trợ từ Việt Nam, nhân dân Campuchia đã tăng cường phong trào kháng chiến chống Pháp Ngày 19/4/1950, Ủy ban Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc (Samakhum Khmer Issarak) được thành lập dưới sự lãnh đạo của ông Sơn Ngọc Minh Ông Nguyễn Thanh Sơn, người từng giữ chức Xứ ủy Nam Kỳ từ năm 1939 đến 1940, cũng đóng góp quan trọng trong phong trào này.
Nguyễn Hào Hùng (1983) đã viết về "Lịch sử một thế kỷ liên minh đoàn kết chiến đấu toàn thắng của nhân dân ba nước Đông Dương", được đăng trong cuốn sách do Phạm Nguyên Long và Đặng Bích Hà biên soạn, thuộc Viện Đông Nam Á Nội dung bài viết tập trung vào sự hợp tác và đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương trong suốt một thế kỷ qua.
Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước vô sản trong công cuộc kháng chiến, như được nêu trong tài liệu của NXB Sự Thật Vào năm 1947, ông giữ chức trưởng ban quân sự kiêm ngoại giao thuộc Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, được Trung ương cử sang Campuchia để hỗ trợ xây dựng lực lượng kháng chiến Issarak Khmer.
Sự phối hợp và liên minh chiến đấu giữa Việt Nam, Campuchia và Lào đã đóng góp quan trọng vào những thắng lợi của cách mạng, tạo điều kiện buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Campuchia, dưới sự lãnh đạo của Quốc vương N Shihanouk, đã thực hiện chính sách hòa bình và trung lập, đồng thời ủng hộ cách mạng Việt Nam, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Vào năm 1966, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được công nhận, trong bối cảnh Campuchia đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân giải phóng miền Nam Quân đội giải phóng đã mượn đường qua Campuchia để tấn công chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, với sự hỗ trợ từ nhân dân Campuchia Nhiều chuyến hàng chi viện từ miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa được vận chuyển qua cảng Sihanuck Vill vào miền Nam, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng Các chuyến hàng này cũng cung cấp cho lực lượng chiến đấu trên tuyến đường Nam Trường Sơn, củng cố và mở rộng tuyến vận chuyển chiến lược Từ năm 1967, Campuchia cho mượn đường số 13 và đường sông Mê Công, nối liền tuyến chi viện Bắc - Nam Đồng thời, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ủng hộ chính sách đối ngoại trung lập và hòa bình của Campuchia, khi cả hai nhân dân đều chung một kẻ thù là đế quốc Mỹ.
Vào ngày 17/4/1975, khi Pôn Pốt và các trợ thủ như Nuon Cheea, Son Senn, Iêng Sary nắm quyền tại Campuchia, họ đã thực hiện chính sách diệt chủng với ba mục tiêu chính: làm sạch chủng tộc Khmer, phục hồi lãnh thổ lịch sử và thúc đẩy chủ nghĩa tập thể nông nghiệp Mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia xấu đi khi Pôn Pốt cắt đứt mọi liên lạc với Việt Nam và vu khống rằng Việt Nam xâm lấn biên giới Việt Nam đã đề nghị đàm phán nhưng Campuchia muốn chờ tình hình bình thường trở lại Trong giai đoạn này, quân đội Campuchia đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào biên giới Tây Ninh, gây ra hàng loạt vụ thảm sát, với hơn 2000 người thiệt mạng từ tháng 5 đến tháng 12/1975, trong đó có 17 cuộc xung đột vũ trang và nhiều hành động tấn công quy mô lớn.
Tà Đạt, nằm trong huyện Tân Biên, đã cho lực lượng vũ trang cải trang thành thường dân để lấn chiếm đất đai của chúng ta thông qua hình thức xâm canh Hành động này đã dẫn đến nhiều điểm tranh chấp dọc biên giới, điển hình như các khu vực Chà Ri Khuốc, Hiệp Lợi, Bảy Bùn và Cây.
Me, Tà Nốt, Tà Đạt thuộc các huyện Tân Biên, Châu Thành, Bến Cầu với tổng số đất đai lấn chiếm trên 132 ha 13
Mặc dù chính quyền Khmer Đỏ thực hiện chính sách thù địch, nhưng Việt Nam, đặc biệt là chính quyền tỉnh Tây Ninh, vẫn kiên định duy trì mối quan hệ.
Trong bối cảnh lịch sử Đảng bộ Tây Ninh, việc duy trì hòa bình, ổn định và độc lập là rất quan trọng để phát triển kinh tế và chấn hưng dân tộc Mặc dù tập đoàn Pôn Pốt có hành động hiếu chiến và xâm lấn biên giới, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và tiến hành đàm phán xây dựng biên giới Tuy nhiên, Pôn Pốt không đáp ứng thiện chí hòa bình của Tây Ninh, mà tiếp tục gia tăng sức mạnh quân sự, gây thiệt hại lớn về người và tài sản Các đề xuất đàm phán từ Chính phủ Việt Nam đều bị Pôn Pốt từ chối, dẫn đến xung đột biên giới tại Tây Ninh vào năm 1976.
Trong thời gian qua, đã xảy ra 200 vụ xô xát và khiêu khích tại biên giới, dẫn đến cái chết hoặc mất tích của 20 người dân Việt Nam đang làm ăn Ngoài ra, hàng trăm trâu bò cũng bị chết hoặc bị thương tại các khu vực như Ba Chàm (Hoà Thạnh, huyện Châu Thành), Kà Tum (Tân Biên), Long Thuận (Bến Cầu), Bàu Hút và Bình Thạnh (Trảng Bàng).
QUAN HỆ QUỐC PHÒNG - AN NINH BIÊN GIỚI GIỮA TÂY NINH VỚI CÁC TỈNH GIÁP BIÊN CAMPUCHIA GIAI ĐOẠN 1991 - 2005
2.1.1 Bối cảnh lịch sử tác động đến mối quan hệ giai đoạn 1991-2005
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia được thiết lập vào tháng 5 năm 1967 với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và chính thức trở thành quan hệ ngoại giao vào ngày 24 tháng 6 năm 1967 khi Tòa đại diện được nâng cấp thành Đại sứ quán Tuy nhiên, quan hệ này bị cắt đứt khi Pôn Pốt lên nắm quyền Sau khi chính quyền Pôn Pốt bị lật đổ vào năm 1979, mối quan hệ giữa hai nước được khôi phục Dù vậy, từ năm 1979 đến 1990, tình hình nội bộ Campuchia vẫn bất ổn, với chính phủ gặp nhiều khó khăn về kinh tế và các thế lực thù địch gây rối.
Sau khi Hiệp định Pari lập lại hòa bình tại Campuchia được ký năm
Năm 1991, Campuchia được điều hành bởi cơ quan quyền lực lâm thời của Liên Hợp Quốc và hội đồng dân tộc tối cao đại diện cho bốn phái Tuy nhiên, từ năm 1991 đến 2005, mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia chưa được sâu sắc do nhiều khó khăn Trong bối cảnh Việt Nam gặp khó khăn trong thời kỳ đổi mới và bị cấm vận, hai nước vẫn đạt được một số thành tựu Từ năm 1991 đến 1998, cuộc đàm phán biên giới gặp nhiều trở ngại, nhưng trong các cuộc gặp lãnh đạo cấp cao, hai bên đã thảo luận về việc hợp tác duy trì biên giới ổn định Trong thông báo tạp chí Việt Nam ngày 17/10/1995, hai bên đã thống nhất duy trì quản lý biên giới hiện tại, không thay đổi cột mốc và giáo dục nhân dân để ngăn chặn xâm canh, xâm cư Tại tuyên bố chung ngày 01/6/1998, hai bên đã đạt được những thỏa thuận quan trọng về quản lý biên giới.
Hai bên thể hiện mong muốn xây dựng một đường biên giới chung hòa bình, hữu nghị và hợp tác, đồng thời khẳng định tôn trọng các hiệp ước về biên giới đã ký vào các năm 1982, 1983 và 1985 Hai bên cũng nhất trí nối lại các cuộc họp để giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới Từ năm 1991 đến 2002, mối quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện, và vào năm 2005, hai bên đã ký kết bổ sung hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia.
Tỉnh Tây Ninh đã hợp tác với ba tỉnh giáp biên của Campuchia nhưng chưa đạt nhiều thành tựu nổi bật Trong những năm đầu 1990, Tây Ninh là tỉnh biên giới nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh và thiếu thốn về kinh tế, xã hội Mặc dù gặp khó khăn, tỉnh vẫn nỗ lực hỗ trợ các tỉnh Campuchia, đặc biệt là tỉnh Kampong Cham, trong việc khôi phục kinh tế - xã hội bằng cách xây dựng trường học, cung cấp điện nước và hỗ trợ y tế Hơn nữa, mối quan hệ hợp tác giữa lực lượng vũ trang hai bên đã được tăng cường thông qua việc thăm hỏi và trao đổi thông tin về tình hình biên giới Tuy nhiên, việc hoạch định PGCM chưa rõ ràng dẫn đến tình trạng tội phạm xuyên biên giới vẫn còn nhiều, yêu cầu hai bên phải phối hợp chặt chẽ hơn để giải quyết các vấn đề này.
2.1.2 Quan hệ về đối ngoại biên phòng
Từ năm 1991 đến 2005, tỉnh Tây Ninh đã triển khai chính sách xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác với các tỉnh giáp biên Campuchia Các lực lượng bảo vệ biên giới của Tây Ninh đã thực hiện nhiều hoạt động hợp tác thiết thực và hiệu quả Bên cạnh việc tham mưu với tỉnh ủy, UBND tỉnh đã kịp thời giải quyết các vụ việc phát sinh và ký kết văn bản hợp tác về bảo vệ và xây dựng biên giới Các ngành chức năng cũng đã làm tốt công tác đối ngoại biên giới với các tỉnh Campuchia, ký kết nhiều thỏa thuận với cơ quan, doanh nghiệp, đồn và xã ở ba tỉnh giáp biên Campuchia.
Bảng 2.1: Biên bản hợp tác tỉnh Tây Ninh với các tỉnh giáp biên Campuchia (1995 - 2005)
STT Các loại biên bản Năm
1 Biên bản thống nhất mở các cặp cửa khẩu phụ tỉnh Tây
Ninh (Việt Nam) và tỉnh Svay Rieng (Campuchia)
Biên bản thống nhất mở các cặp cửa khẩu phụ tỉnh Tây
Ninh (Việt Nam) và tỉnh Kampong Cham (Campuchia)
2 Biên bản ký kết hợp tác kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh Tây Ninh (Việt Nam) với tỉnh Svay Rieng
3 Biên bản hợp tác một số công việc giữa 2 tỉnh Tây Ninh
(Việt Nam) và tỉnh Kampong Cham (Campuchia)
4 Biên bản hợp đồng giữa Tây Ninh (Việt Nam) với tỉnh
Svay Rieng (Campuchia) về suất mía sang Việt Nam chế biến
5 Biên bản cuộc họp giữa huyện Châu Thành (Tây Ninh) và huyện Romduon (Kampong Cham) Campuchia
4 Biên bản cuộc họp giữa huyện Bến Cầu (Tây Ninh) và huyện Memot (Kampong Cham) Campuchia
Biên bản cuộc họp bàn thảo về lập bãi đậu xe ô tô giữa lãnh đạo hai tỉnh Tây Ninh - Kampong Cham
Biên bản thỏa thuận các cửa khẩu thông qua hàng hóa giữa tỉnh Tây Ninh (Việt Nam) với tỉnh Svay Rieng
5 Biên bản thỏa thuận các cửa khẩu thông qua hàng hóa giữa tỉnh Tây Ninh (Việt Nam) với tỉnh Kampong Cham
6 Biên bản hợp tác chống tội phạm giữa tỉnh Tây Ninh (Việt
Nam) với tỉnh Svay Rieng (Campuchia)
7 Biên bản hợp tác trên tất cả các lĩnh vực giữa tỉnh Tây Ninh
(Việt Nam) với tỉnh Svay Rieng và Khampong Cham
8 Biên bản hỗ trợ cây trồng các xã nghèo phát triển giữa tỉnh
Tây Ninh (Việt Nam) với tỉnh Svay Rieng(Campuchia)
Biên bản các đồn, chốt, hợp tác phòng, chống tội phạm giữa tỉnh Tây Ninh (Việt Nam) với tỉnh Kampong Cham
(Nguồn: Trung tâm lưu trữ tỉnh Tây Ninh)
Tỉnh Tây Ninh đã thiết lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với ba tỉnh giáp biên giới Campuchia thông qua các hoạt động như trao đổi đoàn cấp cao, phối hợp tuần tra chung và hỗ trợ đào tạo Từ năm 1996 đến 2005, hai bên đã tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh, bao gồm việc trao đổi thông tin và kinh nghiệm, bảo vệ biên giới, ngăn chặn xâm nhập và các hoạt động tội phạm xuyên biên giới như buôn bán ma túy và người Mối quan hệ giữa các địa phương được duy trì thường xuyên với các cuộc họp định kỳ hàng tháng và quý, đồng thời tạo điều kiện cho việc thông báo và trao đổi thông tin trong tinh thần hữu nghị, nhằm ổn định tình hình trên tuyến biên giới.
Bảng 2.2: Mối quan hệ trao đổi hai bên giữa tỉnh Tây Ninh với ba tỉnh giáp biên CPC từ năm (1996 - 2005)
Năm Đồn, xã/lượt Huyện/lượt Tỉnh/lượt Tổng lượt/năm
(Nguồn: Báo cáo tình hình biên giới từ năm 1996 - 2005 tỉnh Tây Ninh)
Tỉnh Tây Ninh cam kết thực hiện các chính sách của Đảng và nhà nước, đồng thời triển khai các chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội dọc theo biên giới Mục tiêu này nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh chiến lược về quốc phòng của khu vực.
- an ninh trên địa bàn.
Hoạt động đối ngoại của BĐBP tỉnh Tây Ninh với ba tỉnh giáp biên Campuchia đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, chưa thực sự sâu sắc và chưa đạt yêu cầu như mong đợi của cả hai bên Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề biên giới giữa hai bên vẫn chưa được giải quyết triệt để, và đến năm 2005, hai bên mới tiến hành bổ sung Hiệp ước hoạch định đường biên giới.
2.1.3 Quan hệ về phân giới, cắm mốc
Tình hình phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia theo Hiệp ước hoạch định biên giới 1985 đã đạt được một số tiến triển, với 200km trong tổng số 1.137km đường biên được phân giới và 72 cột mốc được cắm trong tổng số 322 cột mốc dự kiến Tuy nhiên, từ năm 1989, do những lý do nội bộ tại Campuchia, hai nước vẫn chưa xác định rõ ràng đường biên giới trên thực địa, dẫn đến nhiều tranh chấp giữa các chính quyền địa phương giáp biên Đặc biệt, tại biên giới Tây Ninh (Việt Nam) với các tỉnh Svay Rieng, Kampong Cham (Campuchia), đã xảy ra nhiều xung đột do cư dân Campuchia xâm canh vào lãnh thổ Việt Nam Một trong những tranh chấp nổi bật vào giữa năm 1995 liên quan đến 107ha ruộng đất giữa huyện Memot Ponea Krek của Campuchia và chính quyền Tây Ninh Tình hình biên giới ngày càng căng thẳng, gây mất trật tự địa phương Để giải quyết vấn đề này, vào ngày 31/11/2005, Quốc vương Campuchia Sihamoni đã ký sắc lệnh ban hành Hiệp ước, và sau đó, vào ngày 5/12/2005, Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương đã ký lệnh công bố Hiệp ước tại Phnôm Pênh.
Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam và Campuchia đã tiến hành trao đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp ước và Hiệp ước bổ sung về biên giới, chính thức có hiệu lực từ ngày 6 tháng 12 năm 2005.
Hiệp ước bổ sung ký tháng 10/2005 khẳng định giá trị của các hiệp định biên giới giữa Việt Nam và Campuchia trong những năm 80, đồng thời bác bỏ âm mưu của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ những hiệp định này và bôi nhọ hình ảnh Việt Nam Qua việc ký kết hiệp ước bổ sung, Việt Nam và Campuchia thể hiện thiện chí trong việc giải quyết các vấn đề biên giới thông qua thương lượng hòa bình Hiệp ước này đã phá vỡ bế tắc, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục tiến trình phân giới cắm mốc, hướng tới việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới, đảm bảo một đường biên giới hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển.
2.1.4 Quan hệ quốc phòng - an ninh và phòng chống tội phạm xuyên biên giới
Đảng và nhà nước luôn chú trọng đến việc duy trì trật tự và an ninh biên giới trong bối cảnh hội nhập, coi đây là nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Tỉnh Tây Ninh đang nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế Mục tiêu này nhằm duy trì hòa bình và an ninh trên địa bàn.
Trong cuốn sách của R M Jennar, trang 304-307, tác giả đề cập đến vấn đề biên giới và an ninh chính trị, cũng như trật tự an toàn xã hội tại tỉnh biên giới giáp với ba tỉnh của Campuchia.
Trong quá trình hợp tác và hội nhập, tuyến biên giới Tây Ninh đang đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức mới Thách thức lớn nhất là sự chống phá quyết liệt từ các thế lực thù địch thông qua chiến lược "Diễn biến hòa bình" Những thế lực này lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, biên giới và những mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường trong quá trình toàn cầu hóa để thực hiện chiến tranh tâm lý, nhằm chống lại chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước.
QUAN HỆ QUỐC PHÒNG - AN NINH BIÊN GIỚI GỮA TÂY NINH VỚI CÁC TỈNH GIÁP BIÊN CAMPUCHIA GIAI ĐOẠN 2005 - 2019
2.2.1 Bối cảnh lịch sử tác động đến mối quan hệ giai đoạn 2005 - 2019
Sau công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, với kinh tế phát triển tích cực và chính trị ổn định theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" Quốc phòng và an ninh được củng cố, các lực lượng vũ trang hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia Tuy nhiên, đất nước vẫn đối mặt với một số thách thức như phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp thủ công, mức sống thấp ở các tỉnh biên giới, thiếu thốn trang thiết bị y tế, điều kiện chăm sóc sức khỏe hạn chế, giáo dục chưa được chú trọng, và tình trạng thiếu thốn về điện, nước cùng với nạn trộm cướp diễn ra thường xuyên, ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội.
Bối cảnh Campuchia dưới thời thủ tướng Hun Sen lãnh đạo (từ năm
Từ năm 1993 đến nay, Campuchia đã có những bước tiến đáng kể trong phát triển và ổn định, mặc dù tình hình chính trị vẫn gặp khó khăn do sự đối lập từ Đảng FUNCINPEC Kinh tế nước này ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhưng thiếu bền vững và phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài Cuộc sống của người dân vẫn còn nhiều hạn chế, với sự thiếu thốn về y tế, điện, nước sạch và các nhu yếu phẩm thiết yếu Ngoài ra, Campuchia còn phải đối mặt với nhiều vấn đề khác, trong đó chất lượng giáo dục còn thấp và tình trạng tội phạm biên giới ngày càng gia tăng, gây khó khăn cho lực lượng bảo vệ biên giới và đe dọa an ninh khu vực.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay và đứng trước những thuận lợi và khó khăn trên Cả VN lẫn CPC trong giai đoạn mới từ 2005 đến
Năm 2019, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh tiếp tục được duy trì và phát triển, nhằm bảo vệ và phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế còn tồn tại Trong giai đoạn này, tỉnh Tây Ninh đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong quan hệ với các tỉnh biên giới của Campuchia.
2.2.2 Quan hệ về đối ngoại biên phòng
Trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng - an ninh ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ Sự hợp tác này không chỉ tác động lẫn nhau mà còn thúc đẩy sự phát triển chung Với phương châm "Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài", hai nước đang nỗ lực xây dựng mối quan hệ bền vững.
Đảng ủy quân sự và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh chủ trương giữ vững mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với chính quyền và lực lượng vũ trang Campuchia giáp biên giới, giải quyết vấn đề qua đối thoại tôn trọng độc lập và chủ quyền Để thực hiện chủ trương này, Đảng Ủy Quân sự và Bộ CHQS tỉnh đã tích cực tham mưu cho tỉnh ủy và UBND tỉnh trong việc xây dựng và quản lý các hoạt động tại biên giới, nâng cao tinh thần đoàn kết quốc tế và hỗ trợ lẫn nhau, góp phần vào mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhân dân và quân đội Hoàng gia Campuchia.
Bộ CHQS tỉnh đã hỗ trợ tỉnh ủy và UBND tỉnh trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo công tác đối ngoại, đồng thời xây dựng kế hoạch tiếp đón các đoàn công tác từ Campuchia Đặc biệt, Bộ đã tham mưu cho UBND tỉnh cung cấp hỗ trợ vật chất và tinh thần theo chỉ đạo của QK7, nhằm duy trì mối quan hệ đoàn kết và hữu nghị lâu dài giữa nhân dân và LLVT hai nước, đặc biệt trong quan hệ ngoại giao với Quân đội Hoàng gia Campuchia.
Nghị quyết đại hội Đại Biểu Đảng bộ Quân sự tỉnh Tây Ninh lần thứ X (nhiệm kỳ 2010-2015) nhấn mạnh tầm quan trọng của các hoạt động phong phú, thiết thực nhằm củng cố mối quan hệ đoàn kết và hữu nghị, đồng thời ngăn chặn các âm mưu chống phá từ các thế lực thù địch Bộ CHQS tỉnh đã chỉ đạo các huyện tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với lực lượng vũ trang Campuchia, thúc đẩy giao lưu kinh tế với các địa phương biên giới Trong dịp lễ Tết, các huyện, xã biên giới tổ chức mời đoàn cán bộ quân đội Campuchia sang thăm, làm việc và tặng quà cho lực lượng vũ trang địa phương, thể hiện tinh thần đoàn kết và hữu nghị giữa hai nước.
Trong năm 2010, công tác đối ngoại biên phòng của BĐBP Tây Ninh ghi nhận hơn 600 lượt thăm viếng giữa các đồn biên phòng hai nước Đặc biệt, BĐBP Tây Ninh đã hỗ trợ tiểu đoàn BĐBP tỉnh Svay Rieng bằng cách cung cấp vật liệu xây dựng trị giá 70 triệu đồng để cải thiện cơ sở hạ tầng Ngoài ra, lực lượng này còn tham gia sửa chữa doanh trại cho các đơn vị tại khu vực biên giới và phối hợp với các đồn cảnh sát Campuchia để tổ chức tuần tra song phương định kỳ.
Năm 2012, Bộ CHQS tỉnh đã tham gia cùng tỉnh ủy, UBND tỉnh đoạn tiếp các đoàn của chính quyền và LLVT các tỉnh bạn giáp biên giới sang thăm, làm việc tại Bộ CHQS tỉnh Các huyện biến giới, ngoài việc tổ chức hàng chục cuộc giao ban đối ngoại, còn tích cực tuyền truyền và làm tốt công tác dân vận, hỗ trợ cho các cơ quan, đơn vị Bạn đối diện biên giới củng cố, xây dựng doanh trại, trụ sợ làm việc, đường sá, mua sắm bàn ghế, thăm hỏi, tăng quà, khám chữa bệnh,… trí giá hàng chục tỷ đồng Chỉ trong sau tháng năm
Năm 2013, Bộ CHQS tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với tỉnh Ủy và UBND để tiếp đón chính quyền và LLVT các tỉnh đối diện cùng Quân khu 2, tổ chức các cuộc làm việc với lãnh đạo và LLVT tỉnh Đồng thời, tỉnh cũng đã hỗ trợ xây dựng tuyến đường Phước Chỉ - Chăn Tơ Ria (Campuchia) và phối hợp với tỉnh Prey Veng khởi công cầu đường Tân Nam qua biên giới Các cơ quan quân sự tỉnh và các huyện biên giới đã tổ chức 18 cuộc giao ban định kỳ, đồng thời đón tiếp nhiều đoàn lãnh đạo từ các huyện và xã biên giới như Rồ Mi Hec, Rùm Đuôl, Svat Tiếp, và các xã Choam, Kravien, Ta Rết Các hoạt động đối ngoại tại tỉnh luôn tuân thủ nguyên tắc và quy định của Bộ Quốc phòng và Quân khu 7, với sự quản lý chặt chẽ các đoàn đi và đến, đảm bảo nghi thức lễ tân trang nghiêm, thể hiện tinh thần đoàn kết hữu nghị và để lại ấn tượng tốt đẹp cho đoàn bạn.
Tỉnh Tây Ninh và các địa phương đối diện đã thống nhất thực hiện chế độ luân phiên giao ban đối ngoại nhằm đánh giá tình hình hoạt động và giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên tuyến biên giới Điều này bao gồm việc ngăn chặn các luận điệu tuyên truyền xấu và kích động hận thù, đồng thời ban hành phương hướng phối hợp hoạt động Các huyện, xã biên giới đã chủ động tổ chức giao lưu, gặp gỡ với các cấp Campuchia, thực hiện đa dạng các hình thức đối ngoại như đối ngoại của Đảng, chính quyền, quân sự và nhân dân để tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác Chính quyền các cấp, cùng với sự hỗ trợ của lực lượng quân sự, công an và biên phòng, đã duy trì các cuộc gặp gỡ định kỳ hàng tháng và hàng quý với chính quyền và LLVT đối diện, nhằm trao đổi thông tin về tình hình kinh tế - xã hội và thăm hỏi, động viên nhân dân trong các dịp lễ, Tết.
Trong năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013, tỉnh và các huyện biên giới đã tổ chức nhiều cuộc giao ban để trao đổi thông tin về tình hình ngoại biên và hoạt động của các đối tượng lưu vong Qua đó, thông tin về các đoàn cướp vũ trang người Campuchia hoạt động trên tuyến biên giới đã được cập nhật, góp phần bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn cho tỉnh Đặc biệt, trong 5 năm qua, tỉnh Tây Ninh đã tăng cường hợp tác đối ngoại và hữu nghị biên phòng, hỗ trợ nước bạn ngày càng nhiều hơn.
Vào sáng ngày 30/10/2015, tại Đồn BP Tân Bình, Bộ Chỉ huy BĐBP Tây Ninh đã tổ chức hội đàm với Ty công an tỉnh Prey Veng, Campuchia, nhằm phối hợp thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới Đoàn đại biểu BĐBP tỉnh Tây Ninh do Đại tá Quyền Anh Dũng, Phó huy Chỉ huy trưởng, dẫn đầu, trong khi đoàn Ty công an tỉnh Prey Veng do Thiếu tướng Cham Chon, Phó chỉ huy, đại diện.
Tại buổi hội đàm do Ty Công an làm trưởng đoàn, hai bên đã đánh giá cao kết quả phối hợp trong công tác quản lý và bảo vệ biên giới, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết duy trì và triển khai thỏa thuận biên giới giữa hai Chính phủ Biên bản kết quả buổi hội đàm khẳng định cam kết tăng cường công tác phối hợp nhằm củng cố tinh thần đoàn kết, hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau xây dựng và bảo vệ biên giới hòa bình Nhân dịp này, Bộ đội Chỉ huy BĐBP tỉnh Tây Ninh đã trao tặng Ty công an tỉnh Prey Veng 300 triệu đồng để xây dựng văn phòng và doanh trại phục vụ đời sống cho lực lượng bảo vệ biên giới tại tỉnh Prey Veng.
Năm 2016, BĐBP tỉnh Tây Ninh và Ty công an tỉnh Tbuong Khmum đã phối hợp chặt chẽ, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận đã ký kết, thể hiện tinh thần đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau Hai bên đã tổ chức 70 cuộc gặp gỡ và trao đổi thông tin, cùng phối hợp tuần tra 31 lần với gần 500 người tham gia, hỗ trợ hoàn thành việc cắm mốc trên biên giới chung Công tác quản lý xuất, nhập cảnh được thực hiện thuận lợi, tạo điều kiện cho nhân dân hai bên qua lại làm ăn, thăm thân và khám chữa bệnh BĐBP Tây Ninh cũng đã hỗ trợ văn phòng Tổng cục công an quốc gia Campuchia trong các hoạt động liên quan.