DẪN LUẬN
Lý do chọn đề tài
Đổi mới kinh tế là yêu cầu thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự thịnh vượng hay tụt hậu của một quốc gia đều phụ thuộc vào quy luật của nền kinh tế thị trường Đại hội ĐBTQ Đảng lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986 đã nhận diện thực trạng khó khăn của đất nước trong giai đoạn 1975 - 1985, khi mà việc xây dựng chủ nghĩa xã hội gặp nhiều thách thức Mặc dù đã đạt được một số kết quả ban đầu, tình hình khủng hoảng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế xã hội, vẫn ngày càng nghiêm trọng Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới nhằm từng bước đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển bền vững.
Kể từ năm 1986, Việt Nam đã bắt đầu công cuộc đổi mới, đưa đất nước từ tình trạng nghèo nàn và khủng hoảng toàn diện đến ổn định và phát triển Sau 25 năm, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể Huyện Nghi Xuân, thuộc tỉnh Hà Tĩnh, cũng không nằm ngoài xu thế này, khi đã gặt hái được nhiều thành công lớn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
Sau 25 năm đổi mới, Nghi Xuân đã chuyển mình từ một huyện kinh tế nghèo khó thành một địa phương có cơ cấu kinh tế hợp lý, nhờ vào việc áp dụng hiệu quả quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Huyện đã khai thác tốt tiềm năng và lợi thế thiên nhiên, đồng thời khắc phục những khó khăn do thiên nhiên gây ra Sự phát triển kinh tế đã làm thay đổi bộ mặt huyện, nâng cao đời sống người dân, cải thiện giáo dục - đào tạo và giữ vững an ninh quốc phòng Điều này khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghi Xuân trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng đắn và phù hợp với điều kiện địa phương.
Hiện nay, việc nghiên cứu lịch sử địa phương ngày càng trở nên quan trọng, không chỉ giúp phát hiện những vấn đề chưa được chú ý mà còn bổ sung vào bức tranh tổng thể của lịch sử dân tộc Đặc biệt, nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu "Đảng bộ huyện Nghi Xuân với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới (1986-2010)" vì những lý do quan trọng liên quan đến sự phát triển kinh tế và chính trị của địa phương trong giai đoạn này.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đảng bộ huyện Nghi Xuân đã trải qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới, một vấn đề chưa được khai thác đầy đủ trong các nghiên cứu chuyên khảo Mặc dù vậy, một số công trình nghiên cứu và bài viết đã đề cập đến lịch sử huyện Nghi Xuân trong thời kỳ đổi mới từ những góc độ khái quát và tổng kết.
Quyển "Lịch sử Đảng bộ huyện Nghi Xuân (1930 - 1995)" đã tổng hợp và đánh giá khái quát quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Nghi Xuân từ khi thành lập cho đến năm 1995.
Các báo cáo, nghị quyết và đề cương quy hoạch tổng thể kinh tế, chính trị, xã hội của huyện Nghi Xuân trong từng giai đoạn, đặc biệt là trong 9 tháng và 1 năm, như báo cáo tình hình kinh tế chính trị, xã hội năm 1996 và kiểm điểm hoạt động của UBND huyện, chưa phản ánh đầy đủ và liên tục quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Nghi Xuân.
Những kết quả nghiên cứu và những tài liệu này sẽ được tôi kế thừa để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đặc biệt là tại Đảng bộ Nghi Xuân, đã chỉ đạo sự chuyển mình trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục Bài viết này sẽ tập trung vào một khía cạnh cụ thể: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành trong thời kỳ đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghi Xuân.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình phức tạp và kéo dài Trong 25 năm đổi mới vừa qua, đường lối đổi mới của Đảng đã chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo Bài viết này sẽ nghiên cứu sự đổi mới của huyện từ 1986 đến 2010, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển của huyện, đồng thời phân tích tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến bộ mặt nông nghiệp và nông thôn nơi đây.
Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu Để nghiên cứu được đề tài này, tôi đã tiếp cận với những nguồn tài liệu thành văn như sau:
Tài liệu thành văn "Đại cương Lịch sử Việt Nam tập III" do Lê Mậu Hãn biên soạn là một tác phẩm quan trọng, cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử Việt Nam hiện đại từ năm 1975 đến nay Tác phẩm này không chỉ ghi chép lại những sự kiện lịch sử nổi bật mà còn phân tích sâu sắc những biến động xã hội, chính trị và văn hóa trong giai đoạn này, góp phần làm phong phú thêm kho tàng tri thức về lịch sử Việt Nam.
- Tài liệu chuyển khảo về các tác giả viết về đổi mới trong đó có phần kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Tài liệu viết về Lịch sử ở dạng: Lịch sử Đảng bộ, báo cáo sơ kết tổng kết nghị quyết
Để tăng cường tính thuyết phục cho đề tài nghiên cứu, tôi đã trực tiếp trao đổi và lắng nghe ý kiến từ các lãnh đạo ở nhiều cấp độ khác nhau.
4.2 Phương pháp nghiên cứu Để hoàn hành được đề tài này tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Bố cục
Với số lượng 79 trang trong khoá luận, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Thực trạng nền kinh tế Nghi Xuân thời kỳ đổi mới (1986) Chương 2: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Nghi Xuân trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2010)
Chương 3 Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
NỘI DUNG
1.1 Vài nét về Nghi Xuân
Nghi Xuân là một huyện ven biển cách tỉnh lỵ Hà Tĩnh khoảng 50km về phía Đông Bắc, được bao quanh bởi ba tuyến địa giới tự nhiên Phía Bắc giáp sông Lam dài khoảng 23km, đối diện là huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thành phố Vinh thuộc tỉnh Nghệ An Phía Tây Nam là dãy Hồng Lĩnh, bên kia là huyện Can Lộc và huyện Đức Thọ, hiện nay là thị xã Hồng Lĩnh Phía Đông, Nghi Xuân tiếp giáp với biển, với bờ biển trải dài từ Cửa Hội đến cửa Lạch Kèn, dài 32km.
Xét trong phạm vi Việt Nam, thì Nghi Xuân là một trong những huyện ven biển, nằm ở cực Bắc Trung Bộ, trên trục đường quốc lộ 1A, cách thủ đô
Hà Nội khoảng 310km về phía Nam
Xét theo kinh độ và vĩ tuyến thi Nghi Xuân nằm gọn trên tọa độ từ
Khu vực nằm giữa 28°0'31" và 18°0'45"30" độ vĩ bắc, cùng với 105°0'41" độ kinh đông, có diện tích tự nhiên là 217,76 km² Dân số tại đây đạt 99.875 người, với mật độ dân số là 459 người/km², chiếm 3,95% diện tích tự nhiên và 7,9% tổng dân số của tỉnh Hà Tĩnh vào năm 1995.
Nghi Xuân, một vùng đất cổ thuộc bộ tộc Việt Thường, được ghi chép trong các trang sách Địa Chí xưa Trong thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, Nghi Xuân nằm trong bộ Cửu Đức Khi đất nước bị Bắc thuộc, qua nhiều triều đại phong kiến phương Bắc, Nghi Xuân được biết đến với các tên gọi như Hàm Hoan, Dương Thành và Phố Dương.
Trong thời kỳ nhà Minh đô hộ, tên huyện vẫn được duy trì là Nha Nghi Trong giai đoạn này, đã diễn ra ba lần dồn nhập huyện, bắt đầu với lần đầu tiên là nhập huyện Lộ.
THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ NGHI XUÂN TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI (TRƯỚC NĂM 1986)
Vài nét về Nghi Xuân
Nghi Xuân là huyện ven biển, nằm cách tỉnh lỵ Hà Tĩnh khoảng 50km về phía Đông Bắc, được bao quanh bởi ba tuyến địa giới tự nhiên Phía Bắc là sông Lam với chiều dài 23km, ngăn cách huyện Nghi Xuân với huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thành phố Vinh thuộc tỉnh Nghệ An Phía Tây Nam là dãy Hồng Lĩnh, đối diện với huyện Can Lộc và huyện Đức Thọ, hiện nay là thị xã Hồng Lĩnh Phía Đông giáp biển với bờ biển dài 32km từ Cửa Hội đến cửa Lạch Kèn.
Xét trong phạm vi Việt Nam, thì Nghi Xuân là một trong những huyện ven biển, nằm ở cực Bắc Trung Bộ, trên trục đường quốc lộ 1A, cách thủ đô
Hà Nội khoảng 310km về phía Nam
Xét theo kinh độ và vĩ tuyến thi Nghi Xuân nằm gọn trên tọa độ từ
Khu vực nằm giữa 28° 0' 31" đến 18° 0' 45"30'' độ vĩ bắc và từ 105° 0' 41" độ kinh đông, có diện tích tự nhiên là 217,76 km² Tính đến năm 1995, dân số tại đây đạt 99.875 người, với mật độ dân số 459 người/km², chiếm 3,95% diện tích tự nhiên và 7,9% tổng dân số của tỉnh Hà Tĩnh.
Nghi Xuân, một vùng đất cổ thuộc bộ tộc Việt Thường, có nguồn gốc từ các trang sách cổ trong bộ Địa Chí Trong thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, Nghi Xuân là một phần của bộ Cửu Đức Khi nước ta bị Bắc thuộc, vùng đất này đã trải qua nhiều triều đại phong kiến phương Bắc và được biết đến với các tên gọi như Hàm Hoan, Dương Thành và Phố Dương.
Trong thời kỳ nhà Minh đô hộ, huyện Nha Nghi vẫn được giữ nguyên tên gọi Trong giai đoạn này, đã xảy ra ba lần dồn nhập huyện, bắt đầu với lần đầu tiên là huyện Lộ.
Bình (Hưng Nguyên ngày nay) vào Nha Nghi; Lần thứ hai, nhập cả huyện Chi
Huyện Đức Thọ và huyện Thanh Chương đã được hợp nhất thành một huyện, và lần thứ ba, huyện Chân Phúc được nhập vào Nha Nghi, đổi tên thành huyện Nghi Chân.
Vào năm Kỷ Sửu, tức năm 1469, dưới triều đại Lê Thánh Tông, bản đồ quốc gia đã được điều chỉnh lại, trong đó huyện Nghi Xuân được xác định rõ ràng về địa giới Huyện Nghi Xuân bao gồm 26 xã, 1 thôn và 2 trang - phường, đánh dấu sự phát triển và tổ chức hành chính trong thời kỳ Khải Định.
(1917 - 1925), cắt 7 đơn vị ở phía tả ngạn sông Lam chuyển sang huyện Hưng Nguyên trong những năm 1942 - 1945, Nghi Xuân có 5 tổng, 33 xã, thôn
Sau cách mạng tháng Tám, huyện Nghi Xuân đã trải qua 3 đợt hợp nhất và chia tách xã trong những năm đầu xây dựng chính quyền mới Để đáp ứng yêu cầu quản lý và chỉ đạo các vùng kinh tế, huyện đã thành lập thêm một số xã và thị trấn mới, bao gồm xã Xuân Lĩnh, thị trấn Nghi Xuân và thị trấn Xuân An Đến năm 2003, Nghi Xuân có tổng cộng 17 xã, 2 thị trấn và 192 thôn, xóm, khối.
Nghi Xuân là một huyện có địa bàn khu vực khá phong phú, gồm 17 xã chia làm 3 khu vực:
Khu vực thành thị gồm 2 thị trấn: Thị trấn Xuân An và thị trấn Nghi Xuân, với tổng diện tích đất tự nhiên: 1300,2 ha [19;4]
Khu vực đồng bằng ven biển bao gồm 11 xã: Xuân Giang, Tiên Điền, Xuân Thành, Xuân Hải, Xuân Phổ, Xuân Đan, Xuân Trường, Xuân Hội, Xuân Yên, Xuân Mỹ và Xuân Liên, với tổng diện tích đất tự nhiên là 8.818,9 ha.
Khu vực miền núi gồm 6 xã: Xuân Lam, Xuân Hông, Xuân Lĩnh, Cổ Đạm, Cương Gián, Xuân Viên Tổng diện tích đất tự nhiên là 11886,5 ha [19;4]
Về địa hình: Nghi Xuân là vùng đất tuy hẹp nhưng có đủ sông biển,
Núi Hồng Lĩnh, nằm ở phía tây nam Nghi Xuân, trải dài qua 10 xã và chiếm gần 50% diện tích tự nhiên của huyện Đây là dãy núi nổi tiếng đã được ghi danh trong Cửu Định tại kinh đô Với cấu trúc địa chất đa dạng, Hồng Lĩnh chứa nhiều lớp trầm tích, dẫn đến sự xuất hiện của các mỏ sắt, mangan và các khoáng sản khác Các yếu tố như chiều cao, độ dốc, thảm thực vật và nguồn nước ngầm đều ảnh hưởng trực tiếp đến khí hậu, chất đất, nguồn nước và đời sống của cư dân địa phương.
Vùng đồng bằng Nghi Xuân, mặc dù hẹp, được chia thành hai khu vực với đặc điểm mặt bằng và chất đất khác nhau do sự tác động của núi Khu vực đồng bằng ven biển bao gồm 12 xã và thị trấn, tạo thành một đồng bằng tam giác Lạch - Hội - Gián với đặc điểm bồi tích ven biển rõ rệt Đất ở đây chủ yếu là cát, và trên bề mặt còn lưu giữ hình lượn sóng, dấu tích của các dãi cồn và dãi đòi, được hình thành từ tác động của gió và sóng biển.
Khu vực đồng bằng chân núi Hồng Lĩnh bao gồm 6 xã, với đồng ruộng hình thành từ các thung lũng phía bắc và đông Bờ sông Lam và rào Mỹ Dương kéo dài từ xã Xuân Lam đến xã Cương Gián, trong khi núi Giằng và núi Lách chia cắt khu vực thành 2 tiểu vùng gần như vuông góc.
Vùng bờ biển Nghi Xuân dài và phẳng, trải dài từ Cửa Hội đến Cửa Kèn - Động Gián, với cát mịn và chế độ thủy triều ổn định Nhiệt độ nước biển trung bình từ 21°C đến 23°C quanh năm, cùng với độ mặn từ 3,4% đến 3,5%, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loại sinh vật biển phát triển Đáy biển có lớp bùn mỏng, thích hợp cho việc thả lưới quét Dòng sông Lam, khi chảy ra biển qua Cửa Hội, không chỉ cung cấp nước mà còn bổ sung phù sa, giúp phát triển nguồn lợi thủy sản Nghi Xuân nổi bật với cảnh quan thiên nhiên xanh mát và nhiều hồ bàu, như Rào Mỹ Dương và bàu Xuân Yên, mang dấu tích của đầm phá nguyên thủy khi biển lùi.
Nghi Xuân có điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt, mang lại nhiệt độ cao và nhiều ngày nắng trong năm Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng và sinh trưởng của các loại cây trồng và vật nuôi, đồng thời hỗ trợ cho các hoạt động thu hoạch, trẩy trái và phơi trau, đặc biệt là đối với lúa, lạc, mực và cá.
Thời tiết tại Nghi Xuân thường xuyên thay đổi đột ngột, đặc biệt vào tháng 5 và tháng 10 Khu vực này chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam, gây ra sự gia tăng nhiệt độ sau khi vượt qua dãy Trường Sơn Những đợt gió kéo dài từ 7 đến 8 ngày có thể làm cây cối khô héo như bị cháy Dân gian thường nói rằng “lúa trổ lộc hạ, buồn bã cả làng” và “ba ngày gió Nam, mùa màng mất trắng”.
Nghi Xuân có nguồn tài nguyên khá phong phú cả về tiềm năng và lợi thế, để từ đó phát triển nhiều ngành nghề
Biển Nghi Xuân là một trung tâm quan trọng về tài nguyên biển, nơi phát sinh và phát tán nhiều loại sinh vật biển với các luồng cá di cư từ Bắc vào Nam Khu vực này có đa dạng hải sản, bao gồm cả cá chìm và cá nổi Mặc dù trữ lượng tôm không lớn, vẫn có nhiều loại như tôm bạc, tôm sắt và tôm he Mực ở đây cũng phong phú với các loại như mực ống, mực lá và mực nang Ngoài ra, biển còn chứa nhiều loài ốc, vẹm, hầu, hến, cua, ghẹ, rắn đẹn và rau câu Huyện còn sở hữu 505 ha đất, tạo tiềm năng lớn cho việc phát triển ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
Kinh tế Nghi Xuân trước thời kỳ đổi mới (1986)
Ngày 30-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Nhân dân Nghi Xuân, cùng với toàn tỉnh và cả nước, hân hoan tham gia vào quá trình hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, đồng thời tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh cách mạng mới, Đảng bộ và nhân dân Nghi Xuân đang đối mặt với nhiều thách thức như diện tích đất canh tác hạn chế, tình trạng thiếu lương thực và thực phẩm thường xuyên xảy ra, cùng với trình độ quản lý của cán bộ còn nhiều hạn chế Cơ cấu kinh tế Nông - Lâm - Ngư nghiệp còn bất cập và chưa được cụ thể hóa cho từng vùng, ngành và đơn vị kinh tế Để xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp lãnh đạo phù hợp trong tình hình mới, Đại hội Đảng bộ huyện khóa IX đã được triệu tập.
Vào ngày 25 và 26 tháng 8 năm 1975, Đại hội đã xác định nhiệm vụ của Đảng bộ Nghi Xuân, tập trung vào việc lãnh đạo nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và ổn định đời sống nhân dân trong huyện Để đạt được điều này, cần đẩy mạnh công tác khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích canh tác, đồng thời tăng cường thâm canh và khôi phục phát triển nghề cá cũng như tiểu thủ công nghiệp Một trong những mục tiêu hàng đầu là giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm.
Trong giai đoạn từ 1976 đến 1985, Đảng bộ Nghi Xuân đã phối hợp cùng cả nước thực hiện đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò của chuyên chính vô sản và quyền làm chủ của nhân dân lao động Đảng đã tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật được xác định là then chốt Mục tiêu quan trọng nhất trong thời kỳ này là đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh, huyện Nghi Xuân đã phát huy truyền thống cách mạng và quê hương, kiên cường vượt qua thử thách, đạt nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và xây dựng Đảng trong suốt 10 năm (1976-).
Từ năm 1985, nền kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Nghi Xuân đã được phục hồi và phát triển mạnh mẽ Tình trạng thiếu thốn lương thực trong thời kỳ giáp hạt đã giảm đáng kể; năm 1983, huyện chỉ cần tỉnh hỗ trợ 35 tấn lương thực, giảm từ 379 tấn Cơ cấu quản lý trong sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp đã được chuyển đổi, tạo ra năng lực sản xuất mới, đồng thời xoá bỏ bao cấp lương thực cho ngư dân Nghĩa vụ lương thực và thực phẩm hải sản đóng góp cho nhà nước ngày càng tăng, góp phần ổn định đời sống nhân dân.
Trong suốt 10 năm qua, nền kinh tế Nghi Xuân vẫn tồn tại nhiều vấn đề, dẫn đến sự kém phát triển trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục và quốc phòng Thực trạng kinh tế huyện Nghi Xuân gặp khó khăn, và cần phân tích nguyên nhân gây ra tình trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục.
Trước thời kỳ đổi mới, kinh tế Nghi Xuân chủ yếu là nền kinh tế tự cung tự cấp và đối mặt với nhiều khó khăn Tình hình này đòi hỏi cần có những hướng đi mới để phát triển.
Thứ nhất, thị trường lưu thông phân phối hết sức lộn xộn, chế độ quản lý hành chính quan liêu hách dịch
Sản phẩm hàng hoá hiện tại chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng, dẫn đến tình trạng ngân sách huyện đôi khi bị bội chi Việc quản lý thị trường lỏng lẻo đã gây ra sự bất ổn định về giá cả, không chú trọng vào cả hai khâu sản xuất và tiêu dùng.
Cán bộ quản lý hiện nay thiếu trình độ năng lực và kinh nghiệm, chưa có lập trường giai cấp vững chắc và gặp khó khăn trong việc áp dụng các phương pháp quản lý hợp lý, dẫn đến việc không thu hút được sự ủng hộ từ người dân.
Huyện có dân số đông nhưng kinh tế không đồng bộ, dẫn đến tình trạng phân bố lao động và dân cư không đều giữa các vùng, đặc biệt là trong từng xã.
Mặc dù huyện sở hữu nhiều lợi thế để phát triển kinh tế, đặc biệt là tiềm năng kinh tế biển, nhưng lại chưa nhận được sự đầu tư thích hợp về nhân lực và vật lực.
Để ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế, cần có một bộ phận quản lý lãnh đạo có năng lực, nhưng hiện nay các đoàn thể chính quyền chưa thực hiện tốt vai trò của mình Hoạt động của các đoàn thể bị hành chính hóa và thiếu chiều sâu trong chỉ đạo phong trào Hội đồng nhân dân huyện, xã chưa thực hiện đúng nhiệm vụ đại diện quyền lợi cho dân, dẫn đến tình trạng quan liêu và xa rời dân chúng Mặc dù có nhiều chủ trương và nghị quyết, nhưng việc tổ chức thực hiện còn yếu, chưa biến đường lối của Đảng thành thực tiễn sống động Mô hình phát triển tuy có xuất hiện nhưng còn ít và chưa được nhân rộng.
Khối lượng lương thực, thực phẩm và hàng thủ công đã tăng qua các năm, nhưng mức độ tăng trưởng còn chậm và thiếu sức bật mạnh Năng suất cây trồng và vật nuôi không ổn định, dẫn đến đời sống của người dân vẫn khổ cực, lao động vất vả nhưng thu nhập thấp Kinh tế phát triển chậm, trong khi tiềm năng lao động và đất đai tại chỗ chưa được khai thác hiệu quả.
Bộ mặt nông thôn hiện nay vẫn chậm đổi mới và thiếu sự đầu tư cần thiết Mặc dù huyện đã chú trọng đến việc cải thiện cơ sở hạ tầng như đường giao thông, trường học, trạm xá và các công trình văn hóa, nhưng các điều kiện vật chất và kỹ thuật vẫn còn hạn chế.
SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở NGHI XUÂN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - 2010)
Quan điểm của Trung ương Đảng về đổi mới đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự vận dụng của Đảng bộ địa phương
2.1.1 Quan điểm của Trung ương Đảng Đường lối chủ trương của Đảng luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của nhân dân ta Ngay từ đầu Đảng ta xác định " đổi mới kinh tế là trọng tâm gắn liền với đổi mới chính trị" đổi mới là sự cần thiết và là mong mỏi của toàn Đảng toàn dân
Cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Việt Nam gặp khủng hoảng nghiêm trọng Đảng đã tổng kết thực tiễn và rút ra những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân để đề ra chủ trương đổi mới từng phần Tuy nhiên, những cải cách cục bộ trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) không đủ để cải thiện tình hình kinh tế.
Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cần phải đổi mới căn bản từ nhận thức lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội đến tổ chức thực hiện mô hình đó Đại hội VI (12/1986) được xem là khởi đầu cho quá trình đổi mới, tiếp theo là Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996) nhằm bổ sung và hoàn chỉnh đường lối đổi mới Đại hội VIII khẳng định đất nước đã vượt qua khủng hoảng và có tiền đề cho giai đoạn phát triển mới, tập trung vào công nghiệp hóa Đại hội IX (2001) tổng kết tiến trình cách mạng Việt Nam thế kỷ XX và triển vọng thế kỷ XXI, trong khi Đại hội X (2006) đánh giá 20 năm đổi mới, khẳng định sự đúng đắn của đường lối này với những thành tựu lịch sử Đại hội XI đã đề ra đường lối toàn diện, mở ra bước ngoặt trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chỉ ra nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là do khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng, được xác định là nguyên nhân chính.
+ Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư Trong 5 năm
Từ năm 1986 đến 1990, cần tập trung vào việc thực hiện ba chương trình kinh tế chủ yếu, bao gồm lương thực và thực phẩm Mục tiêu là đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho toàn xã hội, duy trì dự trữ ổn định và đáp ứng nhu cầu thiết yếu về thực phẩm để tái sản xuất lao động Đồng thời, cần đảm bảo hàng tiêu dùng cho người dân và phát triển một số mặt hàng xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc và hàng hóa.
Xây dựng và củng cố quan hệ xã hội chủ nghĩa là cần thiết để phát triển nền kinh tế đa thành phần Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách sử dụng và cải tạo hợp lý các thành phần kinh tế, coi đây là đặc trưng của thời kỳ quá độ Giải pháp này mang ý nghĩa chiến lược, giúp giải phóng và khai thác tối đa tiềm năng phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời tiến tới xây dựng một nền kinh tế hợp lý và bền vững.
Đại hội nhấn mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quyết tâm xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp Thay vào đó, chuyển sang cơ chế kế hoạch, trong đó kế hoạch được xác định là đặc trưng số 1, và việc sử dụng đúng quan hệ hàng hóa là đặc trưng số 2.
Những quan điểm về 3 vấn đề kinh tế quan trọng đó là sự đổi mới rất cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng
Trong bối cảnh đổi mới của đại hội VI, việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản được đề ra sau hai năm đổi mới (1987 - 1988) là cần thiết, mặc dù chúng ta đang đối mặt với nhiều khó khăn cả từ bên ngoài lẫn bên trong Hội nghị Trung ương đã xác định các quan điểm, phương hướng và chủ trương lớn nhằm phát triển kinh tế, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế cần tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình chính, bao gồm kinh tế, khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và đổi mới cơ chế đầu tư.
+ Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất
Đổi mới cơ cấu quản lý kinh tế là cần thiết để chuyển các đơn vị kinh tế sang hình thức hoạch toán theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch Điều này bao gồm việc phát triển nhiều thành phần kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Kiềm chế và đẩy lùi lạm phát
+ Phát huy vai trò động lực của khoa học - kỹ thuật gắn với yêu cầu phát triển kinh tế
+ Tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về chính sách xã hội phù hợp với việc đổi mới chính sách kinh tế
+ Tăng cường công tác quốc phòng - an ninh đất nước
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại theo hướng độc lập tự chủ, giữ vững hòa bình, và tận dụng thời gian để ổn định và phát triển kinh tế xã hội là mục tiêu quan trọng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra trong bối cảnh mới, tạo ra chuyển biến rõ rệt trong đời sống kinh tế, chính trị, và xã hội, đồng thời củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới Tuy nhiên, đất nước vẫn đối mặt với khủng hoảng và tình hình quốc tế phức tạp, đặc biệt là khủng hoảng ở Liên Xô và các nước Đông Âu, cùng với sự chống phá từ các thế lực thù địch, nhất là Mỹ, đối với cách mạng Việt Nam.
Đại hội VII của Đảng đặt ra yêu cầu quan trọng trong việc hoạch định đường lối nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới sâu rộng, giúp đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, duy trì ổn định chính trị và xây dựng các quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội Bản cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thông qua vào năm 1991.
Báo cáo chính trị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tính bền vững, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc Đồng thời, cần kiên quyết phản đối các quan điểm về tư nhân hoá.
Cơ cấu quản lý kinh tế cần chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế Đại hội đã thông qua "chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000", với mục tiêu thoát khỏi khủng hoảng, ổn định kinh tế xã hội và phấn đấu tăng gấp đôi GDP so với năm 1990 Chiến lược cũng xác định rõ các chính sách xã hội quan trọng như tạo việc làm cho người lao động, kế hoạch dân số, cùng các chính sách về văn hóa, giáo dục và y tế.
Hội nghị Trung ương lần thứ 7 đã thông qua Nghị quyết phát triển công nghiệp đến năm 2000, tập trung vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân Đại hội VIII, dựa trên đánh giá kết quả của Đại hội VII, đã đề ra những biện pháp và kế hoạch mới Đại hội VIII khẳng định rằng công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, và nhiệm vụ của Đại hội VII cho giai đoạn 1991 - 1995 đã cơ bản hoàn thành.
Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng vẫn còn một số lĩnh vực chưa ổn định Nhiệm vụ trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ là tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, và công việc này đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang giai đoạn tăng cường công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện một tư duy đổi mới kinh tế và tạo ra một nền kinh tế đa dạng
2.2.1 Nông nghiệp - Nuôi trồng thuỷ sản
Nông nghiệp đã từ lâu là một ngành kinh tế truyền thống của người dân Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong đời sống của họ Kinh tế nông nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập mà còn tác động đến nhiều lĩnh vực khác trong xã hội.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu Các văn bản như Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa V, và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương khóa VII đã khẳng định rõ ràng điều này.
"thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp góp phần đưa nước ta thoát dần ra khỏi khủng hoảng kinh tế, giữ vững ổn định chính trị"
Thành công của nông nghiệp phụ thuộc vào sự chuyển đổi trong quản lý và cơ cấu kinh tế, với nông nghiệp được xác định là ngành trọng điểm, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và ổn định kinh tế - xã hội Trước những cơ hội và thách thức mới, nông nghiệp cần nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả, đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng cho phát triển kinh tế.
Nghị quyết số 10 - NQ/TN về đổi mới quản lý nông nghiệp được coi là bước ngoặt quan trọng trong tư duy đổi mới kinh tế nông nghiệp, mang lại những chuyển biến tích cực và hiệu quả đáng ghi nhận Sự chuyển đổi từ chỉ thị 100 sang nghị quyết 10 không chỉ thể hiện tư duy kinh tế đổi mới của Đảng mà còn khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế hộ gia đình trong phát triển nông nghiệp.
"Chính sách khoản 10" đã làm cho nông thôn Việt Nam thay đổi, có nhiều chuyển biến, biểu hiện:
Hộ gia đình, bao gồm các hộ cá thể nông thôn, xã viên và doanh nghiệp, đã trở thành đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ, đóng vai trò chủ thể trong sản xuất và xã hội.
Nền kinh tế chuyển từ mô hình tự cấp tự túc sang kinh tế thị trường, với một số khu vực vẫn còn phụ thuộc vào hái lượm và thiên nhiên Sự chuyển đổi này dẫn đến sự đa dạng và tổng hợp hóa trong kết cấu kinh tế nông thôn.
Thứ ba: Nông thôn đang từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế xúc tiến quá trình CNH- HĐH
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, cùng với Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 BCH TW khóa VI và Luật Đất đai năm 1993, đã quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ xã viên, cho phép họ hưởng năm quyền: sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế và thế chấp Những quy định này đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần mang lại nhiều thành tựu nổi bật.
- Sản lượng lương thực liên tục tăng
Xác lập vai trò kinh tế hộ là yếu tố quan trọng giúp nâng cao tính tự chủ và sáng tạo trong nông nghiệp, từ đó thay thế lối làm ăn tự cung tự cấp của nông dân Việc khơi dậy tinh thần tự chủ sẽ gắn bó nông dân với đồng ruộng, cây trồng và vật nuôi, đồng thời tận dụng mọi khả năng để phát triển sản xuất hiệu quả hơn.
- Việc xác lập vai trò tự chủ của kinh tế hộ càng bộc lộ rõ tính không phù hợp của mô hình hợp tác xã kiểu cũ
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được biểu hiện trên các
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã giúp đất đai được sử dụng hợp lý và hiệu quả hơn, phát huy thế mạnh của từng vùng Đất, với vai trò là tài nguyên quý giá, đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nếu được khai thác tốt sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển sản xuất và nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa.
Từ năm 1986 - 2010, nguồn tài nguyên đất của Nghi Xuân đã được khai thác, sử dụng phát triển tương đối tốt và có hiệu quả
Tính đến năm 2008, diện tích đất canh tác nông nghiệp toàn huyện đã tăng lên 12.839,9 ha, so với 10.465 ha vào năm 1986 Sự gia tăng này chủ yếu nhờ vào nỗ lực khai hoang, phục hồi đất và tận dụng hiệu quả các khu vực ao hồ, bãi đồi, cũng như vùng ngập mặn Điều này cho thấy hầu hết đất đai trong huyện đã được đưa vào sử dụng một cách triệt để.
Cùng với việc thực hiện 7 nội dung quản lý nhà nước về đất đai năm
Từ năm 2002, huyện đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp theo Nghị quyết 01 của tỉnh ủy và Chỉ thị 08 của ban thường vụ huyện ủy Đến nay, huyện đã cấp 21,941 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở với tổng diện tích 473,56 ha theo Nghị định 64/CP của chính phủ Ngoài ra, huyện cũng đã cấp 105 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp (532,2 ha) và 5 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nuôi trồng thủy sản (59,641 m²) theo Nghị định 163/CP Nhờ đó, nguồn tài nguyên đất đai đã được khai thác hiệu quả, với diện tích mặt đê trước đây chưa sử dụng nay đã được đưa vào chăn nuôi.
Huyện đã triển khai chương trình ''dồn điền đổi thửa'' nhằm khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân trong việc tổ chức sản xuất Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật giúp tăng năng suất và gia tăng giá trị thu nhập trên mỗi đơn vị diện tích.
Nông dân đã chủ động đầu tư và cải tạo đất, quy hoạch hợp lý cho trồng trọt và chăn nuôi, góp phần thâm canh và tăng vụ Đất lâm nghiệp, chủ yếu nằm ở vùng đồi núi, bãi cát và bãi bồi ven biển, trước đây chưa được chú trọng, nay đã được quan tâm hơn theo tinh thần của Luật Đất đai NĐ.
02/CP ngày 15/01/1994 của chính phủ về giao đất rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào muc đích sản xuất lâm nghiệp
Cơ cấu đất đai đã được chuyển đổi theo hướng có lợi cho sản xuất hàng hóa, với việc chú trọng đến đặc điểm nông hóa, thổ nhưỡng và điều kiện tự nhiên của huyện Những diện tích đất trồng lúa không hiệu quả đã được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy hải sản Trong lĩnh vực lâm nghiệp, các chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc đã được thực hiện tích cực, cùng với phong trào trồng cây trong nhân dân, góp phần nâng cao công tác trồng, bảo vệ và khoanh nuôi tái sinh rừng Chương trình VACR đã giúp cải tạo phần lớn diện tích vườn tạp thành vườn cây ăn quả, đồng thời xoá bỏ tình trạng hoang hóa.
Đảng bộ Nghi Xuân đã nhận thức rõ tầm quan trọng của đất nông nghiệp và thực hiện những chính sách sáng tạo, đúng đắn để chuyển đổi phù hợp với sản xuất nông nghiệp.
Chuyển dịch theo thành phần kinh tế
Sau khi đổi mới, các thành phần kinh tế của Nghi Xuân đã được mở rộng đáng kể, từ hai thành phần chính là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể Đến cuối những năm gần đây, sự phát triển này đã tạo ra nhiều cơ hội mới cho người dân và doanh nghiệp địa phương.
Từ năm 1980, Nghi Xuân đã chứng kiến sự phát triển của kinh tế cá thể và tư nhân, mặc dù các thành phần này chủ yếu liên quan đến kinh tế gia đình và phát triển trong khuôn khổ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa Hiện tại, khu vực này bao gồm ba thành phần kinh tế chính: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể (hợp tác xã) và kinh tế hộ gia đình.
Sau quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, kinh tế quốc doanh của huyện đang đối mặt với nhiều khó khăn chung liên quan đến việc thay đổi cơ chế.
Sự bế tắc của một số doanh nghiệp nhà nước đã gây thiệt hại lớn về kinh tế và nợ nần, buộc nhiều cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật phải chuyển nhượng để phù hợp với tình hình mới Hiện tại, huyện có 4 doanh nghiệp nhà nước, nhưng hầu hết các hoạt động của các cơ sở này đều phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Tỉnh và Trung ương.
Năm 1995 tổng giá trị hàng hoá buôn bán trên thị trường là 47.313.000 đồng thì kinh tế quốc doanh chỉ chiếm 8,9%
Kinh tế tập thể đang được duy trì và thực hiện theo cơ chế mới, bao gồm hợp tác xã nông nghiệp và ngư nghiệp, nhằm nâng cao năng lực sản xuất và ổn định đời sống nhân dân Một số hợp tác xã nghề cá đã chuyển sang hình thức sở hữu kinh tế hộ để phù hợp với điều kiện thực tế Dù một số hợp tác xã thủ công đã giải thể, nhưng nhiều hình thức hợp tác xã mới đã được hình thành, từ hợp tác sản xuất đến liên gia và hợp tác trong địa giới hành chính Hiện tại, huyện có 04 doanh nghiệp nhà nước, 04 công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần, 169 doanh nghiệp tư nhân, cùng 37 hợp tác xã kiểu mới, phản ánh sự đổi mới trong mô hình hợp tác xã.
Kinh tế tập thể hiện đang cần sự chú ý và chỉ đạo từ các cấp, nếu không sẽ dễ bị suy yếu và khó duy trì Đây là một mô hình kinh tế tiềm năng, nếu được phát huy đúng cách, sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
2.4.3 Kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình đang trở thành xu hướng phát triển nổi bật tại huyện Nghi Xuân Mô hình này đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực chăn nuôi, với nhiều hộ gia đình đã hình thành kinh tế trang trại, bao gồm nuôi lợn, vịt, cá và nuôi trồng thủy sản.
Các hộ gia đình, dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, đã nhanh chóng tìm ra hướng đi mới trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt sau cuộc vận động gần đây.
“Đồn điền đổi thửa” đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của các hộ gia đình Sau khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các hộ gia đình đã chủ động đầu tư vào khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Mô hình kinh tế hộ gia đình đã tạo ra sự chuyển mình mạnh mẽ cho nông thôn, giúp nhiều hộ gia đình nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống Các xã, thị trấn như Nghi Xuân, Xuân An, Xuân Trường, Xuân Hội và Cương Gián là những ví dụ điển hình với nhiều gia đình có thu nhập cao, minh chứng cho thành công của mô hình này.
Đảng bộ hiện nay đang triển khai các chính sách hỗ trợ và khuyến khích các hộ gia đình phát triển kinh tế, góp phần giải quyết hơn 90% nguồn lao động tại chỗ Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất và kinh doanh, với 976 cơ sở kinh tế cá thể vào năm 1995 trong tổng số 993 cơ sở tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh Đến năm 2008, đã có 3000 hộ kinh doanh nhỏ lẻ, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hộ gia đình.
Kinh tế hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế, theo giáo sư Phan Đại Doãn, công cuộc đổi mới của nhân dân ta tập trung vào việc giải phóng sức lao động của hộ gia đình như một đòn bẩy cho sự phát triển Mặc dù kinh tế hộ gia đình vẫn tồn tại lâu dài, nhưng trong giai đoạn hiện nay, nó không thể hoạt động độc lập hay tự thân hiện đại hóa Thay vào đó, kinh tế hộ gia đình cần có sự hợp tác đa dạng và phong phú, đồng thời phát triển song song với kinh tế thị trường và tổ chức hợp tác xã.