ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
Quá trình hình thành
Nghi Xuân là một vùng đất có bề dày văn hóa và lịch sử, nổi bật với truyền thống đấu tranh kiên cường của nhân dân trong việc chống lại thiên tai và địch họa Người dân nơi đây luôn hiếu học và sống tình nghĩa Vùng đất “địa linh nhân kiệt” này đã ghi dấu ấn lịch sử sâu sắc và sản sinh ra nhiều danh nhân kiệt xuất, trong đó có những tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ.
Từ khi thành lập, Đảng bộ Nghi Xuân đã trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, vượt qua gian nguy để phát triển và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, góp phần viết nên những trang sử hào hùng của vùng đất Nghi Xuân Huyện Nghi Xuân được bao bọc bởi ba tuyến địa giới tự nhiên, trong đó phía Bắc giáp sông Lam, kéo dài khoảng 23 km từ Chế đến Hội, bên kia sông là huyện Hưng Nguyên, huyện Nghi Lộc và thành phố Vinh thuộc tỉnh Nghệ An.
+ Phía Tây Nam: là dãy Hồng Lĩnh, bên kia núi là huyên Can Lộc, huyện Đức Thọ (nay là thị xã Hồng Lĩnh)
+ Phía Đông: là biển đông, bờ biển từ cửa Hội đến cửa lạch Kèn dài
Nghi Xuân, một vùng đất nhỏ nhưng đa dạng với sông, núi, biển, đồng bằng và làng đảo, sở hữu cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, xứng đáng với danh hiệu “sơn thủy hữu tình”.
Nghi Xuân là một vùng đất có lịch sử hình thành từ rất sớm, với dấu ấn văn hóa đặc trưng của người dân nơi đây Từ khi quốc gia dân tộc hình thành, Nghi Xuân đã ghi dấu ấn của mình trong các bộ Địa chí cổ, từng thuộc về vùng đất cổ của bộ tộc Việt Thường trong thời kỳ Văn Lang.
Âu Lạc, thuộc bộ Cửu Đức, đã trải qua 1117 năm Bắc thuộc dưới nhiều triều đại phong kiến phương Bắc Trong thời gian này, Nghi Xuân nằm trong các địa danh như Hàm Hoan, Dương Thành, và Phố Dương, nhưng chưa có tài liệu xác định rõ ràng địa giới huyện Khi bị nhà Minh đô hộ, huyện vẫn được gọi là Nha Nghi, và trong khoảng thời gian này đã có ba lần dồn nhập huyện.
Lộ Bình (nay là Hưng Nguyên) đã trải qua nhiều lần dồn nhập, ban đầu nhập huyện Chi La (nay là Đức Thọ) và huyện Thổ Chu (nay là Thanh Chương) vào Nha Nghi, sau đó thêm huyện Chân Phúc (nay là Nghi Lộc) và đổi tên thành Nghi Chân Thời gian huyện bị nhà Minh đô hộ chỉ kéo dài từ 1407 đến 1427, do đó những lần dồn nhập không diễn ra lâu Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tôn đã xác định lại bản đồ, tạo ra tên huyện Nghi Xuân với địa giới rõ ràng, lúc này huyện có 26 xã, 1 thôn, 2 trang Đầu thời Nguyễn, theo "Đại Việt địa dư toàn biên", huyện Nghi Xuân có 5 tổng và 40 xã thôn, trang, phường Thời Khải Định (1917 - 1925), 7 đơn vị ở phía tả ngạn sông Lam được chuyển sang huyện Hưng Nguyên, và trong giai đoạn 1942 - 1945, Nghi Xuân có 5 tổng, 33 xã, thôn.
Sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, và trong những năm đầu xây dựng chính quyền mới, huyện đã trải qua 3 đợt hợp nhất hoặc chia tách xã Để đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển các vùng kinh tế, huyện đã thành lập thêm một số xã và thị trấn mới, bao gồm xã Xuân Lĩnh, thị trấn Nghi Xuân và thị trấn Xuân An Hiện nay, toàn huyện có 17 xã và 2 thị trấn.
Xuân Giang, Xuân Lam, Xuân Hồng, Xuân Lĩnh, Xuân Viên, Xuân Mỹ, Xuân Thành, Tiên Điền, Xuân Hải, Xuân Yên, Xuân Phổ, Xuân Đan, Xuân Trường, Xuân Hội, Xuân Hoa, Xuân Liên, Xuân Song, thị trấn Xuân An và thị trấn Nghi Xuân là những địa danh nổi bật tại khu vực này, thể hiện sự đa dạng và phong phú của văn hóa và lịch sử.
Huyện Nghi Xuân, trước đây từng có huyện lỵ ở làng Tả Ao, hiện nay đã chuyển về thị trấn Nghi Xuân Huyện này cách tỉnh lỵ Hà Tĩnh khoảng 50km về hướng Tây Nam và nằm trong tọa độ xác định rõ ràng.
Vùng địa lý này nằm giữa vĩ độ Bắc từ 28°0'31" đến 18°0'45'30" và kinh độ Đông từ 105°0'41" đến 105°0'51", với tổng diện tích tự nhiên là 217,76 km² Dân số khu vực đạt 99.875 người, tương đương với mật độ dân số 459 người/km², chiếm 3,59% diện tích đất tự nhiên và 7,9% tổng dân số của toàn tỉnh.
Huyện Nghi Xuân, giống như các huyện khác trong tỉnh, đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài và phức tạp, với nhiều giai đoạn trầm tích và tạo núi Những thay đổi về cấu trúc địa hình, khí hậu và sinh vật đã diễn ra song song với quá trình biển lùi và biển tiến Từ thời kỳ đồ đá mới cách đây khoảng 5000 - 4000 năm, quá trình biển lùi vẫn tiếp diễn, làm cho đồng bằng và rừng núi trở lại hiện trạng như ngày nay, mặc dù bờ biển chưa lùi ra đến các hải đảo như trước đây.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, con người đã không ngừng dựa vào thiên nhiên, chinh phục và cải tạo nó để tồn tại và phát triển Đồng thời, quá trình đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ quốc gia dân tộc cũng diễn ra mạnh mẽ Trong bối cảnh đó, người dân Nghi Xuân đã thể hiện sức mạnh và để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong lịch sử.
Nghi Xuân - Đặc điểm tự nhiên
Nghi Xuân, vùng đất thiên nhiên ưu đãi, sở hữu đa dạng cảnh quan như rừng núi, sông ngòi, biển, đồng bằng và hải đảo Du khách có thể trải nghiệm vẻ đẹp của làng đảo Hồng Lam giữa dòng sông rộng lớn, hay ghé thăm bến Giang Đình thơ mộng, nơi đã trở thành nguồn cảm hứng trong thơ ca Bãi biển Xuân Thành với cát trắng và dòng nước mát là điểm đến lý tưởng để thư giãn Ngoài vẻ đẹp tự nhiên, Nghi Xuân còn nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử, bao gồm khu di tích Nguyễn Du, phần mộ Nguyễn Du và Nguyễn Nghiễm, cùng với các đền thờ như đền Huyện - Tả Ao, đền Thượng và đền Củi, tạo nên sự hấp dẫn cho du khách yêu thích khám phá văn hóa và lịch sử.
Có thể nói điều kiện tự nhiên Nghi Xuân khá phong phú đa dạng, nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn:
Về địa hình: Ở Nghi Xuân núi nằm lệch về phía Tây Nam, trải dài trên địa phận
Huyện Nghi Xuân có 10 xã, chiếm gần 1/2 diện tích đất tự nhiên, nổi bật với dãy núi Hồng Lĩnh Đây là dãy núi tiêu biểu của tỉnh, được ghi danh trong “Cửu Đỉnh” tại Kinh Đô và là dãy núi duy nhất trên đất Nghi Xuân, góp phần tạo nên một trong “Nghi Xuân bát cảnh”.
Núi Hồng Lĩnh chủ yếu là núi đá với nhiều lớp trầm tích, chứa mỏ sắt man gan và một số khoáng sản hữu ích khác Ngày xưa, núi được bao phủ bởi thảm thực vật phong phú, nơi cư trú của nhiều loài chim, động vật và bò sát Tuy nhiên, việc chặt phá rừng đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái Các yếu tố như chiều cao, độ dốc, thảm cây xanh và lượng nước ngấm đều ảnh hưởng trực tiếp đến khí hậu, chất đất, nguồn nước và đời sống hàng ngày của cư dân trong huyện.
Còn đồng bằng ở Nghi Xuân vốn đã hẹp, lại bị núi xé lẻ thành hai khu vực có mặt bằng vá chất đất khác nhau
Khu vực đồng bằng ven biển gồm 12 xã và thị trấn, tạo thành một đồng bằng tam giác Lách - Hội - Gián với đặc điểm bồi tích ven biển rõ rệt Trước đây, khu vực này từng là những dải cát trắng, xen kẽ với các miều rẫm và lùm lòi dọc theo mép dải trũng Tuy nhiên, đất đai ở đây có chất lượng kém màu mỡ, dẫn đến năng suất cây trồng thấp.
Khu vực đồng bằng chân núi Hồng Lĩnh bao gồm 6 xã, với đồng ruộng hình thành từ các thung lũng ở phía Bắc và Đông, giữa bờ sông Lam và rào Mỹ Dương, kéo dài từ xã Xuân Lam đến Cương Gián Đồng bằng này bị chia thành hai tiểu vùng bởi núi Giằng và núi Lách, với đất đai màu mỡ hơn nhưng vẫn bạc màu so với các địa phương khác Để khắc phục tình trạng thiếu nước, Đảng bộ huyện Nghi Xuân đã tiến hành tu bổ và xây dựng hệ thống tưới tiêu cùng các đập chứa nước như đập Cồn Tranh, đập Nhà Lương, đập Trày, hồ Xanh Nước và hồ Đồng Bàu, nhằm hỗ trợ việc tưới tiêu cho các cánh đồng.
Bờ biển Nghi Xuân nổi bật với bãi cát trắng mịn trải dài từ cửa Hội đến cửa Kèn, có chế độ thủy triều ổn định và độ mặn từ 3.4 đến 3.5%, tạo điều kiện sống cho nhiều loại sinh vật biển Ngoài khơi, cách bờ khoảng 4 km về phía Đông Bắc là Hòn Nồm, hay Hòn áp Láp, chỉ lộ rõ khi nước rặc Đảo Mắt, hay Quỳnh Nhai, nằm cách bờ biển 24 km, dễ nhận biết từ xa và thường được tàu thuyền sử dụng làm mốc định hướng Cách đó khoảng 4 km về hướng Đông Bắc là đảo Song Ngư, với hình dáng giống như đôi cá đùa giỡn giữa biển, từng được coi là một trong “Nghi Xuân bát cảnh”.
Sông Lam là dòng sông tiêu biểu của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chảy qua huyện Nghi Xuân Đoạn hạ lưu của sông, từ Chế đến Hội, nằm hoàn toàn trên địa phận huyện Nghi Xuân, làm cho đây trở thành con sông duy nhất trong khu vực này.
Nghi Xuân nổi bật với đặc điểm địa hình có nhiều hồ bàu và dấu tích của những đầm phá nguyên sơ, phản ánh quá trình biển lùi Trong số đó, Rào Mỹ Dương và Bàu Xuân Viên là những hồ tiêu biểu Trước đây, Rào Mỹ Dương ở làng Cam Lâm, nay thuộc xã Xuân Liên, từng là lối thông ra biển, và làng này trước đây được gọi là làng Nước.
Ra là vì lẽ đó Về sau chuyển xuống làng Đông Gián cửa Nước Ra bị bồi lấp chỉ còn dòng khe nhỏ có tên là cầu Rào
Rào nay bắt nguồn từ núi Hồng Lĩnh, hợp nhất hai nguồn nước từ núi Đụn và núi Lần, chảy xuống vực Xuân Viên trước khi đổ ra biển qua cửa lạch Kèn Kể từ khi được ngăn đập đá Bạc, nước Rào đã được cải thiện chất lượng, mang lại tiềm năng đáng kể về thủy sản và du lịch.
Về khí hậu, thời tiết:
Nghi Xuân có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao và nhiều ngày nắng trong năm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng và thu hoạch cây trồng, vật nuôi Tuy nhiên, thời tiết ở đây cũng thường xuyên biến đổi bất ngờ, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp.
Gió Tây Nam là yếu tố chính ảnh hưởng đến thời tiết ở Hà Tĩnh, khi đi qua Trường Sơn, gió này tăng nhiệt độ đáng kể Đến Nghi Xuân, gió bị dãy Hồng Lĩnh chắn lại, làm cường độ gió mạnh hơn nhiều Gió Lào thường thổi mạnh từ tháng 6, kéo dài từ 11 đến 14 giờ mỗi ngày, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống của người dân Tại khu vực được coi là "đầu sóng ngọn gió" của tỉnh, hiện tượng này diễn ra hàng năm từ tháng.
Từ tháng 7 đến tháng 10, người dân Nghi Xuân luôn phải cảnh giác trước nguy cơ bão biển, thậm chí có những năm bão xuất hiện từ tháng 6 Những trận bão thường rất mạnh, với cường độ lớn và sức tàn phá nặng nề, khiến cho vùng đất vốn đã khó khăn càng trở nên khắc nghiệt hơn.
Nghi Xuân, với sự ưu ái của thiên nhiên, sở hữu đầy đủ các yếu tố tự nhiên, tạo nên nguồn tài nguyên phong phú Điều này mở ra nhiều tiềm năng và lợi thế cho địa phương trong việc phát triển đa dạng các ngành nghề.
Biển Nghi Xuân là trung tâm phát sinh và phát tán các loài sinh vật biển, với các luồng cá di chuyển từ Bắc vào Nam Nơi đây sở hữu đa dạng tài nguyên hải sản đặc trưng của vịnh Bắc Bộ.
Có hai loại cá chính là cá chìm và cá nổi, trong khi tôm có nhiều loại như tôm bạc, tôm sắt và tôm he, mặc dù trữ lượng không lớn Mực, bao gồm mực ống, mực lá và mực nang, có trữ lượng đáng kể Ngoài ra, vùng biển còn phong phú với nhiều loại ốc, vẹm, hàu, hến, cua và ghẹ, cùng với các loại tảo biển Huyện còn có 505 ha đất mặt nước chưa được khai thác, với ao hồ có mặt ở hầu hết các xã Đặc biệt, tuyến đê ngăn mặn dài 17km tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy hải sản.
Con người - truyền thống yêu nước và cách mạng
Nghi Xuân, một vùng quê nghèo, đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử đầy áp bức và bóc lột Tuy nhiên, truyền thống lâu đời đã rèn luyện cho người dân nơi đây sự kiên cường và dũng cảm, giúp họ biết chịu đựng và hy sinh Với bầu nhiệt huyết mãnh liệt, người Nghi Xuân luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh cho công lý bất cứ lúc nào.
Từ sớm trong lịch sử, Nghi Xuân đã có sự hiện diện của con người, với các di chỉ khảo cổ tại bãi Phôi Phối cho thấy cư dân đã sinh sống cách đây khoảng 6.000 đến 5.000 năm, vào thời kỳ cuối đồ đá mới, với nghề trồng lúa bằng cuốc đá Các di chỉ tiếp theo tại Xuân An và Xuân Giang, từ 4.000 đến 3.000 năm trước, cho thấy sự phát triển của nghề luyện đồng và sắt, đánh dấu nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước rực rỡ Điều này đã hình thành nên các làng xã và cộng đồng dân cư, tạo nên lối sống chung và góp phần vào bộ tộc Việt Thường, sau này trở thành một phần của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc.
Sống trong môi trường đa dạng với sông núi, biển cả, và khí hậu phong phú, con người nơi đây phải đối mặt với nhiều thách thức Tuy nhiên, họ luôn dũng cảm vượt qua khó khăn, cần cù và kiên nhẫn trong học tập, đồng thời giữ gìn những giá trị nhân văn như tình yêu thương và sự hỗ trợ lẫn nhau.
Trong cuộc chiến với thiên nhiên để xây dựng cuộc sống, cư dân nơi đây đã tạo ra nhiều thành tựu đáng kể trong sản xuất Họ sớm nhận ra tiềm năng của nghề biển và đã mạnh dạn đầu tư ra khơi, hình thành nên những làng biển nổi tiếng nhất tỉnh với nghề đánh cá.
Lưới mười tại làng Cương Gián, được cải tiến từ thuyền cánh én sang buồm cánh dơi, đã mang lại hiệu quả cao trong việc đánh bắt Sự kết hợp kinh doanh khép kín từ đánh bắt, chế biến đến xuất bán nước mắm ra các tỉnh đã giúp sản phẩm cạnh tranh với các loại nước mắm nổi tiếng trong và ngoài nước Nước mắm của làng Cương Gián đã đạt tiêu chuẩn và được lựa chọn tham gia “đấu xảo” công nghệ toàn Đông Dương.
Nghề đánh cá "rút khơi" tại làng Hội Thống đã giúp hợp tác xã Hùng Cương, xã Xuân Hội, vươn lên dẫn đầu miền Bắc về năng suất đánh cá Những mô hình đánh cá này đã trở thành một phần văn hóa địa phương, được ghi nhận qua ca dao và ngạn ngữ như “Nước mắm Vạn Cương” và “quan Tiền Điền, tiền Hội Thống”.
Các nghề thủ công, dịch vụ và buôn bán ở địa phương đã phát triển từ thời Lý - Trần, với chợ Chế và chợ Đình là trung tâm giao thương sôi động Với ruộng đất hạn chế, các nghề này cung cấp nguồn thu nhập bổ sung quan trọng Sự kết hợp giữa nghề tiểu thủ công nghiệp và buôn bán dịch vụ đã thúc đẩy lẫn nhau, hình thành nhiều nghề truyền thống như đúc gang, đúc đồng, và sản xuất nước mắm Năm 1942, huyện Nghi Xuân sản xuất 700.000 lít nước mắm, chiếm 63,7% tổng sản lượng của tỉnh Hà Tĩnh và 67,4% nước mắm xuất bán ra ngoài tỉnh Mặc dù một số nghề đã mai một, nhưng nhiều nghề vẫn đang phát triển, do đó cần bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử cũng như hiệu quả kinh tế cho cộng đồng.
Nghi Xuân không chỉ đối mặt với thử thách từ thiên nhiên để duy trì sự sống, mà còn tích cực tham gia vào việc bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc, đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của cả nước.
Văn hóa phản ánh bản chất sâu sắc của con người và cộng đồng, là nguồn gốc của sức mạnh và tài năng dẫn đến những chiến thắng.
Văn hóa dân gian Nghi Xuân, thuộc vùng Nghệ Tĩnh, đã hình thành ca hát từ rất sớm, với “Thác lời trai phường nón” là một trong những trường ca vè, dặm nổi bật tại làng Tiên Điền Đặc biệt, Cổ Đạm được xem là một trong những trung tâm Ca Trù lâu đời nhất, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của khu vực.
Nghi Xuân nổi bật với sự phong phú về các câu chuyện danh nhân, chuyện cười và chuyện trạng Một số nhân vật tiêu biểu bao gồm Bảng nhãn Trần Bảo Tín với câu chuyện vườn trại rú Lần, lưu quận công Nguyễn Lưu với việc đuổi voi Trà Sơn, tiến sĩ Võ Thị Mận với chuyện củ song mây nấu thịt cò, cùng những giai thoại về Nguyễn Công Trứ, huyền thoại thánh địa lý Tả Ao, và câu chuyện về bà chúa Liễu.
Kiến trúc nhà ở trong vùng thường nhỏ gọn và đơn giản, trong khi các đình, đền lại nổi bật với sự đồ sộ và nguy nga Những công trình tiêu biểu như đình Hội Thống, đền Củi, đình làng Hoa Vân Hải, đền Huyện, và đền Thượng không chỉ thể hiện giá trị nghệ thuật kiến trúc và chạm trổ đặc sắc, mà còn được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh và quốc gia.
Nghi Xuân, vùng quê giàu truyền thống hiếu học, đã kiên trì đấu tranh bảo tồn văn hóa dân tộc trong suốt hàng nghìn năm bị đô hộ bởi phương Bắc Dù trải qua 1117 năm bị áp bức, người dân nơi đây vẫn giữ gìn bản sắc Việt, không để bị đồng hóa thành người Hán Một trong những thành tựu nổi bật là việc Việt hóa chữ Hán, theo lời đánh giá của Phạm Văn Đồng, “biến cái mình chấp nhận thành cái của mình.” Các nhân vật tiêu biểu như Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, mặc dù xuất thân là nhà nho, nhưng đã thành công trong việc sáng tác thơ Nôm, thể hiện sự Việt hóa sâu sắc.
Ca trù là một trong những đặc sắc văn hóa nổi bật của Nghi Xuân, thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam Nguyễn Công Trứ đã đóng góp lớn trong việc phát triển ca trù thành một thể thơ thuần Việt Hiện nay, ca trù đã được phục dựng tại xã Cổ Đạm (thuộc xã Xuân Hoa) và xã Tiên Điền, góp phần gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
Dưới thời học theo cử nghiệp Nho giáo, huyện Nghi Xuân có 21 người đỗ đại khoa, chiếm gần 1/7 tổng số người đỗ đại khoa trong tỉnh Phạm Ngữ là người đầu tiên đỗ đại khoa tại Nghi Xuân vào khoa Quý Vị, Quang Thuận, Lê Thánh Tôn năm 1463 Trong số đó, có một bảng nhãn Trần Bảo Tín, một thám hoa Ngụy Khắc Đản và 5 hoàng giáp: Phạm Ngư, Phan Chính Nghị, Phan Cảo, Nguyễn Bật Lẵng và Nguyễn Nghiễm Huyện Nghi Xuân cũng có số lượng đỗ hương khoa cao, với 111 người, trong đó Phan Trung là người đầu tiên đỗ hương khoa thời Lê Thánh Tôn.
ĐẢNG BỘ NGHI XUÂN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
Đảng chỉ đạo các hoạt động để đối phó với âm mưu của địch
Sau khi thất bại với chiến lược "chiến tranh đơn phương", Mỹ đã triển khai chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với trọng tâm là "ấp chiến lược" Chiến lược này bao gồm việc dồn dân vào các ấp nhằm thực hiện kế hoạch "tát nước bắt cạn" Tuy nhiên, âm mưu này của Mỹ đã nhanh chóng gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ phía ta, với những chiến thắng tại ấp Bắc và Bình Giã, đã đánh dấu bước đầu thất bại trong kế hoạch của Mỹ.
Vào tháng 8 năm 1964, Mỹ đã tạo ra sự kiện vịnh Bắc Bộ nhằm cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời gia tăng quân viễn chinh vào miền Nam và leo thang không quân, hải quân đánh phá miền Bắc Trước tình hình nguy cấp này, quân và dân miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đứng lên đấu tranh và đạt được nhiều thắng lợi to lớn Nhân dân huyện Nghi Xuân cũng đã bước sang một giai đoạn mới đầy cam go, vừa chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa thực hiện nghĩa vụ hậu phương cho miền Nam và nghĩa vụ quốc tế.
Sau sự kiện vịnh Bắc Bộ ngày 5/8/1964, Đảng bộ Nghi Xuân đã lãnh đạo chuyển đổi mọi hoạt động của nhân dân từ thời bình sang thời chiến theo chỉ thị 81 của bộ chính trị và nghị quyết ngày 10/8/1964 của thường vụ Tỉnh ủy Để thực hiện hiệu quả công tác này, huyện ủy đã huy động sức mạnh tổng hợp từ nhiều ngành như tuyên huấn, văn hóa, thông tin, cổ động và truyền thanh.
Huyện đã triển khai nhiều hình thức sinh hoạt chính trị như ôn nghèo kể khổ, kể chuyện truyền thống và kỷ niệm các ngày lễ lớn, giúp nâng cao nhận thức của người dân về âm mưu của kẻ thù và nhiệm vụ trong tình hình mới Đảng bộ huyện chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, hoàn thiện phương án tác chiến và phòng không nhân dân Lực lượng dân quân tự vệ đã được củng cố, tăng từ 5% lên 7% dân số toàn huyện, với sự tham gia 100% của đoàn viên và Đảng viên Huyện cũng trang bị thêm súng bộ binh và lựu đạn cho các đơn vị đánh máy bay và tấn công.
Để đối phó với các phương thức tấn công của địch, Ban thường vụ huyện ủy đã thông qua phương án tác chiến nhằm chống lại không quân, hải quân và các thủ đoạn chiến tranh tâm lý Huyện chỉ đạo các cơ quan quân sự và công an tăng cường kiểm tra, hỗ trợ các xã trong công tác huấn luyện và lập kế hoạch tác chiến Đầu năm 1965, khi Mỹ gia tăng các hoạt động đánh phá, lực lượng vũ trang được đặt trong tình trạng báo động và công tác phòng không nhân dân được triển khai khẩn trương Trung ương đã đề ra phương án di tản dân cư để đảm bảo an toàn, và từ ngày 1 đến 7/4/1965, Nghi Xuân đã hoàn thành việc sơ tán cơ quan, bệnh viện, trường học và kho tàng đến các xã phụ cận Những khu vực nguy hiểm như Nam phà Bến Thủy và quanh trận địa cao xạ E280 cũng được di tản an toàn Đảng bộ Nghi Xuân còn chỉ đạo xã Xuân Hồng hỗ trợ Bộ tư lệnh Quân khu 4 trong việc sơ tán quân trang, quân dụng và tiếp nhận 160 hộ dân từ thành phố Vinh.
Vào những tháng đầu năm 1965, toàn huyện tràn đầy khí thế chiến đấu, với nhân dân tích cực thực hiện các công việc hỗ trợ cho cuộc chiến Hàng vạn người hăng hái đào hầm công sự, trong khi hàng nghìn dân quân và tự vệ huấn luyện ban ngày và trực chiến để đánh máy bay Vào ban đêm, họ thay nhau tuần tra và canh gác bờ biển Hàng trăm trẻ em cũng tham gia, vào sáng sớm và chiều tối, đến các trận địa cao xạ và pháo binh để giúp bộ đội ngụy trang công sự và tặng giẻ lau súng đạn.
Vào lúc 8 giờ 45 phút ngày 7/4/1965 và 7 giờ 30 phút ngày 11/4/1975, hàng chục máy bay phản lực Mỹ từ hạm đội 7 đã tiến hành không kích vào các mục tiêu quan trọng như phà Bến Thủy, cầu Rong và cầu Giằng tại Xuân Hồng.
Đội trực chiến dân quân tại các xã Xuân An và Xuân Hồng đã phối hợp cùng pháo cao xạ quân khu 4 để đánh trả địch Mặc dù chưa bắn rơi được máy bay nào, nhưng qua trận đầu nổ súng, các đội trực chiến đã thể hiện ý thức tổ chức kỷ luật và sự vững vàng hơn trong chiến đấu.
Từ tháng 5/1965, Mĩ gia tăng các cuộc tấn công ác liệt, buộc Đảng bộ và nhân dân Nghi Xuân phải chuyển đổi hoạt động từ thời bình sang thời chiến Họ thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ quan trọng: vừa chiến đấu chống lại kẻ thù, vừa duy trì sản xuất, từng bước quân sự hóa các hoạt động sinh hoạt của nhân dân.
Đấu tranh trên mặt trận quân sự
Để đối phó với âm mưu của địch, Đảng bộ huyện Nghi Xuân đã tích cực xây dựng và phát triển lực lượng Từ cuối năm 1964, lực lượng dân quân tự vệ tăng nhanh, chiếm 8% dân số toàn huyện, với các xã ven biển có một đại đội du kích trực chiến Đầu năm 1965, huyện chỉ đạo thành lập 18 đội trực chiến máy bay với 203 cán bộ chiến sĩ để chống lại sự đánh phá của không quân Mỹ Đảng ủy các xã cũng chú trọng xây dựng các đội trực dân quân, bổ sung lực lượng và chỉ huy Cùng thời điểm, huyện quyết định thành lập đại đội C274 với 96 cán bộ chiến sĩ, nhanh chóng ổn định tổ chức và triển khai huấn luyện trực chiến, đóng vai trò chủ chốt và nhận được sự hỗ trợ từ nhân dân.
Vào rạng sáng 10/9/1965, nhiều tốp máy bay phản lực Mỹ đã tấn công nhà máy điện Bến Thủy, nhưng lực lượng cao xạ thành phố Vinh đã kịp thời bắn rơi một máy bay Phi công Mỹ nhảy dù xuống khu vực núi Hồng Linh, dẫn đến sự xuất hiện của hơn 10 máy bay từ hạm đội 7 để cứu viện Cuộc chiến trên không diễn ra ác liệt tại Nghi Xuân, với sự phối hợp của các lực lượng dân quân và pháo cao xạ, đã tạo ra một lưới lửa dày đặc, bắn rơi 2 máy bay F4 của Mỹ Niềm vui vỡ òa trong lòng hàng vạn người dân Nghi Xuân khi chứng kiến chiến thắng này Đồng chí Trần Thái Quát, trung đội trưởng du kích xã Xuân Viên, đã dũng cảm tiếp cận và bắt sống phi công Mỹ Chiến công này không chỉ là dấu mốc quan trọng trong phong trào toàn dân bắt sống giặc lái ở Hà Tĩnh mà còn nhanh chóng được phổ biến khắp tỉnh, dẫn đến việc bắt thêm 4 phi công Mỹ khác.
Chiến công "tay không bắt sống giặc lái Mĩ" của nữ dân quân Bùi Thị Ái tại xã Xuân An, Nghi Xuân, là một minh chứng cho sức mạnh quật khởi của nhân dân ta và là niềm tự hào lớn lao.
Từ cuối năm 1965, phong trào dân quân tự vệ tại Nghi Xuân đã phát triển mạnh mẽ với ba hình thức tác chiến chính: trực thăng thường xuyên, trực thăng không thường xuyên và tay cày tay súng Những hình thức đấu tranh linh hoạt này đã mang lại hiệu quả cao, đặc biệt là lưới lửa tầm thấp thường xuyên xuất hiện ở Nghi Xuân.
Trong cuộc chiến chống lại máy bay Mỹ, 1000 tay súng của Nghi Xuân đã phát huy hiệu quả cao khi đối phó với các cuộc không kích Mỗi khi máy bay Mỹ gây tội ác, tiếng súng bộ binh của dân quân tự vệ Nghi Xuân vang lên, tạo ra lưới lửa tầm thấp hiệu quả Lưới lửa này không chỉ bảo vệ địa bàn mà còn hỗ trợ cho pháo cao xạ thành phố Vinh, giúp ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ từ biển Đến tháng 7/1967, hình thức đánh máy bay tầm thấp đã có sự phát triển mới, khi các xã được tổ chức thành cụm, tạo ra sự linh hoạt và cơ động hơn trong chiến đấu Việc tổ chức đánh lỏng và tạo yếu tố bất ngờ đã mang lại hiệu quả lớn, nhờ vào sự trang bị hỏa lực bổ sung từ Tỉnh ủy.
Việc trang bị 12 ly 7 thay thế cho hỏa lực K44 và trung liên đã nâng cao sức chiến đấu của quân dân tự vệ huyện Nghi Xuân Huyện tổ chức thành 6 cụm chiến đấu, mỗi cụm được trang bị từ 2 đến 3 khẩu 12 ly 7 Vào ngày 14/8/1967, cụm chiến đấu của đội trực chiến 2 tại xã Xuân Song và Xuân Liên đã thành công trong việc bắn rơi 1 máy bay A6 của Mỹ Tiếp theo, vào ngày 1/5/1968, cụm trực chiến của dân quân xã Xuân An, Xuân Giang cũng đã bắn rơi 1 máy bay F4 của Mỹ.
Bắt đầu từ tháng 2/1966, hạm đội 7 của Mỹ đã tiến hành đánh phá huyện Nghi Xuân, sử dụng tàu chiến để bắn phá các xã ven biển nhằm phá hoại trận địa pháo binh Khi thời gian trôi qua, tàu chiến của địch càng tiến gần bờ, nã pháo vào trục đường số 1, Bến Thủy và cảng Xuân Hải, Xuân Hồng Địch còn sử dụng tàu biệt kích để thực hiện các biện pháp tâm lý chiến và bắt ngư dân ngoài biển để thu thập thông tin Tại Nghi Xuân, lực lượng C45, pháo binh, bộ đội địa phương và D23E164 của quân khu 4 đã tổ chức trận địa để đánh trả Đến đầu tháng 2/1968, trung đội pháo binh dân quân Nghi Xuân được thành lập, tăng cường khả năng chống trả địch với 2 khẩu pháo.
Trung đội 57 ly nòng dài đặc biệt với 100% chiến sĩ là nữ đã ra quân sau hai tuần thành lập vào ngày 28/2/1968, và ngay trong loạt đạn đầu tiên đã bắn cháy một tàu chiến của Mỹ, đánh dấu chiến công đầu tiên của lực lượng pháo binh dân quân tự vệ Hà Tĩnh Trong cuộc chiến, mặc dù phải đối mặt với sự phản pháo ác liệt từ tàu địch, nữ trung đội trưởng Trương Thị Kỳ vẫn dũng cảm và bình tĩnh giữ vững vị trí chỉ huy, động viên các chị em trong trung đội kiên cường đánh trả lại tàu chiến địch.
Trong khói lửa chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân huyện Nghi Xuân đã hy sinh tài sản, công sức và xương máu để hỗ trợ bộ đội trong cuộc chiến chống Mỹ Từ năm 1965 đến 1968, xã Xuân An đã đóng góp hơn 10.000 ngày công để xây dựng và ngụy trang các trận địa cao xạ và tên lửa Nhân dân xã Xuân Hội bảo vệ an toàn cho căn cứ đoàn tàu không số của hải quân, hỗ trợ vận tải cho miền Nam Các trạm xá trong huyện đã cứu chữa hàng trăm thương binh, với riêng trạm xá Xuân Hội điều trị cho 700 bộ đội và công nhân giao thông Để đối phó với không quân Mỹ, ban chỉ huy phòng không huyện đã đưa ra nhiều biện pháp, nhưng do tư tưởng chưa sâu sắc, nhân dân còn chủ quan, dẫn đến tổn thất lớn khi địch tấn công Trước tình hình đó, huyện ủy đã tự kiểm điểm và tổ chức sinh hoạt chính trị rộng rãi để nâng cao nhận thức cho nhân dân.
Sau đợt học tập chính trị, nhận thức của người dân được nâng cao rõ rệt, giúp họ nhận ra âm mưu thâm độc của kẻ thù và xác định nhiệm vụ cần thực hiện để đối phó Từ cuối tháng 5, phong trào toàn dân tham gia phòng chống địch diễn ra sôi nổi, với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đào hào công sự dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ huyện Đến đầu năm 1966, 70% hộ dân ở các xã như Xuân Hồng, Xuân An, Xuân Giang, Xuân Tiên, Xuân Hải, Xuân Hội đã có hầm chữ A Để đảm bảo an toàn, công tác sơ tán và giãn dân được tổ chức quyết liệt tại các xã trọng điểm, nhằm giảm thiểu thương vong do địch đánh phá khu vực ven biển Đảng bộ huyện đã quyết định di tản dân cư từ các xã ven biển, chuyển hàng trăm hộ lên vùng Cộng Khánh để khai hoang sản xuất, tạo tiền đề cho việc thành lập một xã mới Chủ trương này không chỉ đảm bảo an toàn cho người dân mà còn giúp ổn định cuộc sống, nhận được sự ủng hộ từ toàn thể nhân dân và tỉnh ủy.
Bên cạnh việc chiến đấu, công tác cứu thương và tìm kiếm người bị nạn sau các vụ đánh phá cũng được tổ chức nhanh chóng Các đội sản xuất đã lập tổ thuốc cấp cứu và đào tạo y tá để hỗ trợ bà con Dân quân và thanh niên thành lập đội chống sập hầm, tìm kiếm người hi sinh và kịp thời hỗ trợ khi có sự cố Nhiều gia đình đã chủ động trang bị thuốc kháng sinh và bông băng để sẵn sàng ứng phó Trạm xá các xã được bổ sung nhân viên y tế và tăng cường thuốc dự phòng, đảm bảo công tác y tế khi có thương vong lớn xảy ra.
Sau vụ tàn sát hơn 50 em học sinh tại trường cấp 1 xã Hương Phúc vào đầu năm 1966, huyện Nghi Xuân đã triển khai chiến dịch toàn dân tham gia công tác phòng không cho trường học Để đảm bảo an toàn, tất cả các lớp học được sơ tán xa trục đường nhằm tránh bom Mỹ Các cửa hàng và chợ búa được xây dựng dưới lòng đất với hầm trú ẩn chữ A, hào giao thông và trạm báo động máy bay Học sinh được yêu cầu đội mũ rơm để giảm thiểu thương tích từ bom bi và mảnh đạn Công tác chủ động đối phó với sự phá hoại bằng không quân của Mỹ được Đảng bộ huyện chú trọng, với mục tiêu bảo đảm an toàn cho người dân.
Sau nhiều thất bại, Mĩ đã tăng cường các cuộc không kích mạnh mẽ từ tháng 3/1968 với mục tiêu hủy diệt miền Bắc Việt Nam trong chiến dịch "ném bom hạn chế" Tuy nhiên, họ đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ phía ta và phản ứng mạnh mẽ từ dư luận quốc tế Đặc biệt, Mĩ mong muốn có sự ủng hộ trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới vào tháng 11 Do đó, vào ngày 31/3/1968, Mĩ đã tuyên bố ngừng hoàn toàn việc ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc.
Từ đầu tháng 4/1968, vùng Nghệ Tĩnh, đặc biệt là Nghi Xuân, chịu đựng mức độ đánh phá ác liệt từ Mỹ, với số lần không kích và tàu chiến tăng gấp ba lần so với năm trước Nhiều xã trọng điểm như Xuân Hồng, Xuân An, Xuân Hải, và Xuân Hội bị tàn phá nặng nề, với các địa điểm như cầu Rong và cảng Xuân Hải trở thành mục tiêu chính Để giảm thiểu thiệt hại, huyện đã triển khai các biện pháp phòng không, bao gồm tổ chức đội dân quân đào hầm hào, vận động sơ tán dân cư khỏi vùng trọng điểm, và thực hiện phương án ngủ hầm an toàn Đồng thời, công tác cứu thương cũng được chú trọng, với việc tổ chức lại hệ thống cấp cứu và tăng cường nhân viên y tế Nhờ những biện pháp kịp thời này, lực lượng đã được bảo toàn, thiệt hại về người và tài sản được hạn chế, giúp ổn định đời sống nhân dân và đạt được nhiều chiến công lớn, gây thiệt hại nặng cho địch.
Đấu tranh để đảm bảo giao thông thông suốt
Đế quốc Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc với mục tiêu chính là ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam và cản trở sự hỗ trợ từ bên ngoài Để đạt được điều này, Mĩ không chỉ tấn công quân sự mà còn tìm mọi cách phá hoại tuyến giao thông huyết mạch giữa hai miền, đặc biệt là tuyến đường Trường Sơn (đường Hồ Chí Minh trên bộ).
Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một trận địa quyết liệt giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ, ghi dấu những chiến công hiển hách Nghi Xuân, huyện địa đầu của tỉnh Hà Tĩnh, với nhiều tuyến giao thông quan trọng, đã trở thành trọng điểm bị địch đánh phá ngay từ đầu cuộc chiến tranh Vị trí chiến lược của Nghi Xuân, có quốc lộ 1A và cầu Bến Thủy nối liền hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, là yếu tố then chốt để đảm bảo giao thông từ Bắc vào Nam Tuy nhiên, sau khi miền Bắc vừa thoát khỏi chiến tranh, tình hình kinh tế còn khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, khiến công tác đảm bảo giao thông gặp nhiều trở ngại Từ tháng 5 đến tháng 10/1965, cầu đường bị hư hỏng, xe hàng bị đánh cháy, và số lượng xe qua lại cầu Bến Thủy giảm đáng kể, gây khó khăn lớn trong việc chi viện cho miền Nam.
Để ứng phó với tình hình giao thông khó khăn, từ cuối năm 1965, Nghi Xuân đã phát động phong trào toàn dân tham gia công tác giao thông vận tải dưới sự chỉ đạo của ban đảm bảo giao thông tỉnh và học tập kinh nghiệm từ huyện Kì Anh Đảng bộ huyện thành lập ban đảm bảo giao thông vận tải với sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch huyện và các phó ban là trưởng đoàn giao thông cùng huyện đội trưởng Các đơn vị y tế, bưu điện, công an cũng tham gia vào ban Huyện phân chia trách nhiệm cho các xã quản lý các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ và đoạn sông Lam, đồng thời giao nhiệm vụ hỗ trợ cho các xã không có đường quốc lộ hoặc sông Các xã huy động lực lượng và phương tiện tại chỗ để giải tỏa giao thông và khắc phục hậu quả do địch gây ra, đảm bảo thông đường và thông lạch sông Huyện cũng chi viện cho các địa điểm trọng điểm bị đánh phá, nhờ đó các địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ và duy trì giao thông thông suốt.
Để xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào toàn dân làm giao thông vận tải, các xã đã tổ chức đội dân quân chuyên trách thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng như gác đèn ban đêm, lấp hố bom, làm đường xế, cứu xe và hàng hóa, cũng như rà phá bom nổ chậm và thủy lôi Mỗi gia đình cũng được giao nhiệm vụ chuẩn bị vật liệu dự phòng như đất, đá, cọc tre, cọc gỗ và lá cây nhằm khắc phục những đoạn đường bị hư hỏng Nhân dân trong huyện đã tích cực tham gia, điển hình là xã Xuân An với hơn 1000 hộ gia đình thường xuyên chuẩn bị 0,5 m3 đất đá.
Trong năm 1968, xã Xuân Hồng đã huy động 17 đợt vật liệu dự phòng để khắc phục hậu quả do địch đánh phá cầu đường, với sự hỗ trợ từ 5 cọc tre hoặc gỗ dài 3m, 5 tấm phêm tre và một gánh cành lá cây Các xã như Xuân An, Xuân Giang, Xuân Tiên, Xuân Hội, Xuân Trường, Xuân Hải, Xuân Phổ, và Xuân Viên đã chuẩn bị các bãi giấu xe với hầm hào và công sự che chắn cho lái xe và hàng hóa Sự chuẩn bị chu đáo của nhân dân huyện Nghi Xuân thể hiện quyết tâm giữ vững huyết mạch giao thông, đảm bảo công tác chi viện cho chiến trường Đến đầu năm 1966, Nghi Xuân được tỉnh ủy chi viện thêm lực lượng thanh niên xung phong, giúp thông xe đường chiến lược số 18 từ nam Gia Lách vào Xuân Viên, qua Cộng Khánh đến Minh Lộc, nối với quốc lộ 1 ở Cầu Treo Thành quả này là kết quả của sự cố gắng và kiên trì của nhân dân huyện Nghi Xuân và lực lượng thanh niên xung phong.
Tuyến đường Hồng Lĩnh đã thông xe, phá vỡ thế độc tuyến và tình trạng ngập lụt của quốc lộ 1A qua huyện Nghi Xuân, từ đê La Giang đến nam phà Bến Thủy Con đường này giúp giao thông thông suốt, không bị tắc nghẽn khi có ngập lụt và đảm bảo huyết mạch giao thông khi quốc lộ 1A bị địch đánh phá Để chủ động hơn, phà Bến Thủy đã mở thêm 5 tuyến dự phòng và đào nhiều cầu phà ở thượng và hạ lưu, cùng với việc mở rộng và nâng cấp các đoạn đường xuống bến chính và bến dự phòng Những bến phụ này sẽ đảm bảo vận chuyển kịp thời khi bến chính bị phong tỏa Đầu năm 1966, đơn vị giao thông chủ lực huyện được tổ chức với 127 cán bộ và công nhân, có nhiệm vụ bảo vệ đường 18 và đoạn quốc lộ 1A từ Xuân An đến Xuân Lam, góp phần tăng cường sức mạnh phối hợp với nhân dân trong việc đảm bảo giao thông phục vụ chiến trường.
Sau nhiều lần tổ chức tấn công, Mỹ đã phát hiện ra thế đa tuyến và mở rộng bến vượt sông Lam của ta, dẫn đến việc máy bay và tàu chiến của họ tập trung đánh phá ác liệt, gây ra nhiều khó khăn cho chúng ta Với các thủ đoạn như ném bom tọa độ, đánh xăm và đánh chặn, chúng ta phải đối phó với cả hai loại giặc trên không và trên biển Sự kết hợp giữa không quân và hải quân đã tạo ra mức độ ác liệt cho trận chiến, đòi hỏi Nghi Xuân phải có ý chí quật cường và sức mạnh tổng hợp lớn để giành thắng lợi, giữ vững huyết mạch giao thông quan trọng, chi viện cho tiền tuyến và hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn.
Giữa năm 1966, ngành vận tải thủy tại tỉnh Nghi Xuân phát triển mạnh mẽ với sự thành lập Công ty vận tải sông biển, trong đó Nghi Xuân là lực lượng chủ lực với 300 thuyền được huy động Các bến bãi trong huyện trở thành căn cứ quan trọng cho việc xuất phát và tập kết hàng hóa Những xã ven biển như Xuân Hải, Xuân Đan, Xuân Phổ, Xuân Trường, Xuân Hội, và Xuân Song đã tổ chức các đội thuyền xung kích, vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và cảng Hải Phòng về địa phương để phục vụ đời sống, sản xuất và quốc phòng Từ năm 1966 đến 1968, các đội thuyền của Nghi Xuân đã vận tải 20.000 tấn hàng hóa từ trung ương cấp cho tỉnh và chuyển 30.000 tấn hàng vào phía Nam tỉnh Đội thuyền Nghi Xuân không chỉ hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa cho tỉnh mà còn góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ chiến trường miền Nam.
Trong các ngày lễ lớn như Nôel, tết dương lịch trong các năm 1965,
Vào năm 1966 và 1967, đế quốc Mỹ thực hiện chiến dịch "ngừng ném bom cầu nguyện hòa bình" nhằm lừa phỉnh dư luận quốc tế Nhằm tận dụng thời gian này, Đảng bộ và nhân dân Nghi Xuân đã tổ chức các "tết Quang Trung" lần 1, 2, 3 để huy động toàn dân tham gia vào công tác giao thông vận tải Hàng ngàn dân quân, thanh niên và cán bộ đã tích cực tham gia các hoạt động như lấp hố bom, sửa đường, khai thác vật liệu dự phòng và đào hầm hào phòng tránh Đặc biệt, trong "tết Quang Trung 3" vào cuối tháng 12/1967, gần 5000 người đã tham gia, lấp 270 hố bom, sửa 7km đường, đào đắp 1500m3 và xây dựng 700 công sự phòng tránh, cùng trồng mới 5000 cây Qua đó, chúng ta đã lợi dụng triệt để những chiêu bài của đế quốc Mỹ và tận dụng thời gian ngừng đánh phá để cải thiện công tác giao thông.
Từ ngày 31/3/1968, sau nhiều tổn thất và sự phản ứng mạnh mẽ từ dư luận quốc tế, đế quốc Mỹ đã thực hiện chiến thuật "hạn chế ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc" nhằm tập trung hỏa lực đánh phá ác liệt từ vĩ tuyến 20 trở vào Nghi Xuân, một huyện ở Hà Tĩnh, là một trong những địa điểm chịu ảnh hưởng nặng nề trong thời kỳ này, với các mục tiêu như cầu Rong, cầu Giằng, chợ Củi, cảng Xuân Hải, kho trung chuyển Xuân Hồng và Cửa Hội trở thành những tọa độ lửa, liên tục vang vọng tiếng nổ của bom đạn.
Trong cuộc chiến tranh, nhiều làng ven đường số 1, Gia Lách đi Hội Thống thuộc các xã như Xuân Lam, Xuân Hồng, Xuân An, Xuân Giang, Tiên Điền và Xuân Hải đã bị quân địch tấn công bằng máy bay và đạn đại bác từ tàu chiến Hàng tháng, chúng quần thảo với hàng ngàn tấn bom đạn, khiến cho làng xóm trở nên tiêu điều, xơ xác Tại những xã trọng điểm này, hố bom chồng chất hố bom, đặc biệt là ở đường Gia Lách xuống bến phà, với cả 5 bến phà vượt sông Lam đều bị tàn phá nặng nề Đồng Lộc, Linh Cảm và phà Bến Thủy đã tạo thành tam giác lửa ở phía bắc Hà Tĩnh Âm mưu của đế quốc Mỹ là dồn bom đạn vào những trọng điểm này nhằm chặn mọi con đường từ Nghệ An qua sông Lam vào miền Nam Thực tế, việc ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra chỉ là một chiêu trò để Mỹ đánh lừa dư luận quốc tế và khiến ta chủ quan, sơ hở, tạo điều kiện cho chúng dễ dàng tấn công khu vực miền Bắc.
20 trở vào Nhằm mục đích chặt một mắt xích quan trọng trên tuyến đường giao thông trọng điểm Bắc - Nam
Do không nhận thức được sự hiểm độc của Mỹ, ta đã chủ quan và bị động trước những thay đổi Trong những tháng đầu của thời kỳ Mỹ ném bom hạn chế, công tác giao thông vận tải gặp nhiều ách tắc, gây tổn thất về người, hàng hóa và phương tiện Lưu lượng hàng hóa và xe cộ qua Nghi Xuân giảm đáng kể Vào mùa mưa, nước lũ dâng cao cùng với bom đạn địch làm gia tăng tắc nghẽn và sụt lún đường Tư tưởng tiêu cực và ngại hy sinh lan rộng trong lực lượng giao thông vận tải Trước tình hình đó, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo quân dân thực hiện chỉ thị 37 của Thường vụ Tỉnh ủy về việc “xây dựng ý chí chiến đấu, chịu đựng hy sinh gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Theo chỉ thị 37, đợt sinh hoạt chính trị đã được triển khai nhanh chóng và rộng rãi trong Đảng bộ và quân dân toàn huyện, giúp đẩy lùi tâm lý ngại hi sinh và chần chừ trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông và tuyển quân Một số cán bộ thiếu gương mẫu đã bị xử lý kỷ luật, trong khi những cá nhân dũng cảm và nhiệt huyết trong thanh niên, dân quân được kết nạp vào Đảng và được bổ nhiệm làm cán bộ tại các hợp tác xã và xã.
Chỉ thị 37 đã tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong tư duy của cán bộ và nhân dân, từ việc chủ quan khinh địch và chán nản trước thất bại, giờ đây họ đã nhận thức được âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù Điều này đã giúp họ khôi phục lòng tin và quyết tâm kiên cường chống lại địch.
Trong giai đoạn khó khăn do địch ném bom hạn chế, Đảng bộ, quân và dân Nghi Xuân đã thể hiện quyết tâm cao độ trong việc duy trì giao thông vận tải Huyện ủy đã nhanh chóng triển khai các nhiệm vụ cấp bách như thành lập tổ đội công binh để rà soát bom từ trường và thủy lôi, đồng thời tổ chức lực lượng vận tải nhân dân bằng xe thồ và gánh bộ để chuyển hàng vào Can Lộc Bên cạnh đó, nhân dân các xã ven biển cũng được hướng dẫn tiếp nhận hàng hóa từ tàu ngoài khơi Những nỗ lực này đã mang lại kết quả tích cực, kịp thời và hiệu quả trong việc đảm bảo giao thông vận tải trong thời kỳ khó khăn.
Thực hiện nghĩa vụ đối với tiền tuyến lớn miền Nam và làm tốt nghĩa vụ quốc tế
Khi nói về chiến tranh cách mạng, Leenin nhấn mạnh rằng để tiến hành chiến tranh nghiêm chỉnh, cần có một hậu phương tổ chức vững chắc Mối quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến là rất chặt chẽ; hậu phương mạnh sẽ củng cố sức mạnh cho tiền tuyến Sự thắng lợi ở tiền tuyến không chỉ bảo vệ hậu phương mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hậu phương phát triển Ngược lại, một hậu phương vững mạnh sẽ quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến Đế quốc Mỹ nhận thức rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước và là hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến ở miền Nam Do đó, từ đầu và trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ luôn tìm cách phá hoại miền Bắc, nhằm tiêu diệt tiềm lực kinh tế và quân sự của Việt Nam, với mục tiêu "kéo lùi miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá", làm giảm khả năng chiến đấu của chúng ta.
Miền Bắc đã huy động mạnh mẽ lực lượng và phương tiện để khắc phục hậu quả chiến tranh, vượt qua vòng vây của địch nhằm tiếp nhận viện trợ từ bên ngoài và đáp ứng nhu cầu của tiền tuyến miền Nam Mặc dù cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra ác liệt, miền Bắc vẫn kiên cường thực hiện nghĩa vụ hậu phương.
Trong những năm chống chiến tranh phá hoại, nhân dân Nghi Xuân đã phải đối mặt với nhiều khó khăn do thiên tai và địch họa, với bữa ăn thường xuyên thiếu thốn, chủ yếu là khoai thay cơm Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân nơi đây luôn nỗ lực chắt chiu để hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm, đồng thời dành dụm 2000 tấn gạo, 500 tấn thịt, 300 tấn gà, vịt và hàng trăm tạ rau muống khô để hỗ trợ các đơn vị bộ đội và thanh niên xung phong Dù còn nhiều thử thách, nhưng với tinh thần phục vụ tiền tuyến và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, nhân dân Nghi Xuân đã cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của một hậu phương lớn.
Đảng và nhà nước đã triển khai các biện pháp nhằm củng cố vai trò của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đảm bảo miền Bắc phát huy đầy đủ và liên tục tác dụng quyết định Với khẩu hiệu “miền Nam gọi, miền Bắc trả lời”, miền Bắc đã thể hiện sự đồng lòng và quyết tâm trong công cuộc kháng chiến.
Trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Nghi Xuân đã thể hiện tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao cả với phương châm “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” Họ đã tích cực tham gia làm nghĩa vụ hậu phương lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyển quân và huy động dân công hỏa tuyến Trong suốt những năm kháng chiến, Nghi Xuân đã tiễn đưa 11.530 thanh niên, bao gồm 622 nữ thanh niên, gia nhập các đơn vị bộ đội và thanh niên xung phong Tổng cộng, toàn huyện có 30.000 lượt người tham gia phục vụ chiến đấu, góp phần quan trọng vào công cuộc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Phong trào thanh niên “ba sẵn sàng” và phong trào phụ nữ “ba đảm đang” đã khơi dậy tinh thần toàn dân hăng hái tham gia quân đội, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến Từ tháng 3/1965, tỉnh đã giao cho huyện chỉ tiêu tuyển quân là 531 người, nhưng đã có tới 1200 người đăng ký nhập ngũ, cho thấy sự nhiệt tình và quyết tâm của thanh niên trong thời kỳ kháng chiến.
Vào mùa hè năm 1966, tại mặt trận đường 9 Quảng Trị, hơn 1.000 nữ thanh niên tình nguyện đã thể hiện tinh thần quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì miền Nam Đại đội dân công Nghi Xuân gồm 126 người đã hoạt động tại đây suốt 6 tháng, bất chấp sự tấn công liên tục của máy bay B52 và pháo địch, họ đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nhiệm vụ hàng tháng với năng suất lao động đạt 106,3% Đến các năm 1967, 1968, huyện Nghi Xuân tiếp tục cử thêm 3 đại đội với 450 người vào bắc Quảng Trị, không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu mà còn kịp thời chi viện cho tiền tuyến.
Từ tháng 5/1967 đến cuối năm 1969, công trường quốc phòng tại xã Xuân Viên được mở rộng, khiến Nghi Xuân trở thành huyện chủ công trong việc huy động lực lượng dân công Để khắc phục tình hình khó khăn do nhiều đợt tuyển quân không đạt kế hoạch, huyện ủy đã chỉ đạo các cơ quan quân sự, công an và đoàn thể thành lập ba đoàn công tác xuống trực tiếp chỉ đạo các xã như Xuân Hoa, Xuân Liên, và Xuân Song Nhờ vào sự vận động linh hoạt và đồng bộ, cùng các biện pháp giáo dục và tuyên truyền đoàn kết, đến đầu năm 1968, tình hình đã có sự chuyển biến tích cực Các đợt giao quân trong những năm 1968 và 1969 đều hoàn thành chỉ tiêu, đồng thời giáo dục và vận động được 108 quân nhân đào ngũ trở lại các đơn vị thu dung của tỉnh, ghi nhận thành tích lớn trong công tác vận động nhân dân tham gia hỗ trợ chiến trường.
Nghi Xuân là huyện nổi bật trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và hoàn thành vai trò của một hậu phương lớn Sự thành công này đến từ phong trào tuyển quân sôi nổi, nhờ vào vai trò tiên phong của cán bộ, Đảng viên và đoàn viên, cùng với sự tham gia nhiệt tình của toàn thể nhân dân Đảng bộ Nghi Xuân đã có những đóng góp quan trọng trong những năm tháng kháng chiến.
Từ năm 1965 đến 1968, Mỹ đã chứng kiến hàng trăm Đảng viên tình nguyện xung phong ra tiền tuyến, với 132 cán bộ cơ quan huyện và đảng ủy viên, chi ủy viên từ các Đảng bộ xã tham gia tòng quân Trong số đó, có 7 đồng chí giữ chức bí thư, chủ tịch xã và 3 đồng chí là huyện ủy viên.
Hầu hết các đồng chí đều là những người có gia đình đông con, tuổi trên dưới 40, và đang đối mặt với khó khăn, nhưng họ vẫn vui vẻ chia tay gia đình, quê hương để lên đường ra mặt trận Trong huyện, hàng ngàn gia đình cán bộ, Đảng viên đã cử chồng, con ra tiền tuyến Nhiều đồng chí có hoàn cảnh tương tự như đồng chí Trịnh Em - Chủ tịch huyện, khi gia đình chỉ có một con trai đã nhập ngũ và hi sinh Hàng trăm bà mẹ tiễn con trai vào bộ đội và con dâu lên đường phục vụ dân công hỏa tuyến, rồi cùng tham gia liên hoan với con gái chuẩn bị cho ngày mai đi thanh niên xung phong Từ năm 1965 đến 1968, xã Xuân Hội có 92 gia đình có từ 2 đến 6 con đi bộ đội, thể hiện sự hy sinh to lớn của nhân dân Nghi Xuân trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước Toàn huyện có 27 bà mẹ được vinh danh “bà mẹ Việt Nam anh hùng”, và nhiều người con của Nghi Xuân đã ra đi mãi mãi, nằm xuống với đất mẹ, trên chiến trường hay trên những tuyến đường giao thông huyết mạch, góp phần tạo nên thắng lợi hôm nay.
Phát huy truyền thống quê hương, con em Nghi xuân chiến đấu trên các chiến trường khắp ba nước Đông Dương trong những năm tháng chống
Trong sự nghiệp giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc, hàng nghìn thanh niên Việt Nam đã hy sinh tuổi trẻ, với 1.864 liệt sĩ và 1.024 thương binh trong toàn huyện Sự hi sinh này không chỉ là mất mát lớn lao mà còn thể hiện tinh thần quả cảm, ý chí và quyết tâm “tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để đánh thắng giặc Mĩ” Điều này khẳng định rằng đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, con em Nghi Xuân đã đóng góp hàng trăm người cho các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và các cơ quan nhà nước trên khắp mọi miền đất nước.
Họ đã đồng hành cùng nhân dân trong công tác, học tập, chiến đấu và lao động, cống hiến trí tuệ và sức lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Những đóng góp nhỏ bé của họ đã góp phần củng cố và phát triển miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng cho thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.
Hàng trăm người con của Nghi Xuân đã hy sinh vì sự nghiệp vĩ đại của dân tộc, để lại tên tuổi và công lao to lớn mãi mãi được khắc ghi trong lòng Tổ quốc Các liệt sĩ như Đinh Xuân Hòe, Phan Đình Linh và Lê Duy Chín, những người đã được tôn vinh là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu oanh liệt của quê hương Máu của các anh đã tô thắm thêm màu cờ đỏ của Tổ quốc, trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau học tập và noi theo.
Thực hiện công tác xây dựng Đảng và phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục trong tình hình mới
Trong bối cảnh cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, Đảng bộ Nghi Xuân đối mặt với nhiều thách thức mới mẻ, khẩn trương và đầy hy sinh, nhưng thiếu kinh nghiệm lãnh đạo trong điều kiện chiến tranh Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng gặp nhiều lúng túng, bất cập, nhưng Đảng bộ huyện đã tích cực chăm lo xây dựng Đảng và tổ chức phong trào cách mạng, từ đó học hỏi kinh nghiệm để thích ứng với tình hình mới Để đối phó với chiến tranh, Đảng bộ triển khai cuộc vận động xây dựng chi bộ 4 tốt, gắn nhiệm vụ chiến đấu với tiêu chí phấn đấu của từng cán bộ, đảng viên Cuộc vận động này đã thu hút đông đảo sự tham gia, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và giúp cán bộ nhận ra âm mưu của địch, xác định nhiệm vụ cần thực hiện Từ năm 1965 đến 1968, Đảng bộ Nghi Xuân đã có nhiều đổi mới trong công tác tư tưởng, tổ chức, phát triển đảng viên và đào tạo cán bộ, phục vụ tốt cho công tác chỉ đạo huyện nhà trong bối cảnh vừa chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến và củng cố hậu phương.
Huyện ủy nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tư tưởng, thường xuyên chăm lo và quan tâm để tạo sự nhất trí cao trong nhân dân, từ đó phát động các phong trào hành động cách mạng sôi nổi Trong những thời điểm khó khăn như cuối năm 1965 và giữa năm 1968, khi kẻ thù gia tăng đánh phá, huyện ủy đã chủ động chỉ đạo, kiểm điểm tình hình, xây dựng quyết tâm và xử lý những cán bộ, đảng viên tiêu cực, thoái hóa Đồng thời, huyện ủy cũng đề bạt những đảng viên trẻ, năng động theo tinh thần thông tri 15 (1965) và chỉ thị 37 nhằm củng cố niềm tin và quyết tâm trong quần chúng.
Năm 1968, thường vụ tỉnh ủy đã thực hiện những biện pháp tích cực nhằm củng cố niềm tin của nhân dân, đồng thời loại bỏ các thành phần hữu khuynh ra khỏi Đảng Những hành động này nhằm giữ vững lập trường và vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần quan trọng vào mục tiêu đưa cuộc chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ nhân dân, đảng viên đã thể hiện vai trò gương mẫu, thực hiện khẩu hiệu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, từ đó tạo động lực cho người dân nhiệt tình hưởng ứng và xây dựng niềm tin nơi Đảng Việc thực hiện nghiêm túc cuộc vận động xây dựng chi bộ 4 tốt đã mang lại chuyển biến tích cực cho hoạt động của các chi bộ Đảng trong huyện Sinh hoạt chi bộ diễn ra định kỳ, nội dung phong phú và sát thực, với trên 90% đảng viên tham gia và hơn 95% hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công Những hoạt động sôi nổi này đã góp phần nâng cao tỷ lệ đảng viên đạt 4 tốt so với năm 1966.
Năm 1965, tỷ lệ đảng viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt tăng 27,6%, và năm 1967 tăng 21,4% so với năm 1968, với 78,4% đảng viên và 65,3% chi bộ đạt tiêu chuẩn này Công tác giới thiệu quần chúng vào Đảng được thực hiện nghiêm túc nhằm phát triển đảng viên mới, với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng Đáng chú ý, các biểu hiện hẹp hòi và thành phần chủ nghĩa, cũng như sự xem thường phụ nữ đã được cải thiện Sự tận tâm của Đảng bộ Nghi Xuân đã tạo ra đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ tuổi, năng động, sẵn sàng thích ứng với sự thay đổi và tích cực cống hiến cho quê hương.
Trong giai đoạn từ năm 1965 đến 1968, Đảng bộ Nghi Xuân đã cử 357 đảng viên ra chiến trường và nhờ công tác phát triển Đảng hiệu quả, tổng số đảng viên vào cuối năm 1968 tăng thêm 736 người so với năm 1965 Toàn huyện đã kết nạp 1.013 đảng viên mới, trong đó 21,2% là nữ và 76,9% dưới 35 tuổi Trình độ học vấn của các đảng viên mới cũng được nâng cao, với 67% có bằng cấp 2 và 10,4% có bằng cấp 3 Cơ cấu cán bộ huyện và cơ sở có nhiều thay đổi tích cực, 100% các xã đều có nữ đảng viên tham gia Tất cả các ban chỉ huy xã đội và ủy ban nhân dân xã đều có cán bộ nữ giữ vị trí cấp phó Đặc biệt, đồng chí Nguyễn Thị Hạnh là nữ cán bộ đầu tiên giữ chức vụ phó chủ tịch huyện và sau đó trở thành chủ tịch huyện, cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của phụ nữ tại Nghi Xuân Chất lượng và phẩm chất đạo đức của đảng viên cũng được nâng cao rõ rệt.
Trong bối cảnh chiến tranh đầy khó khăn, Đảng bộ huyện và xã vẫn kiên trì tổ chức các kỳ đại hội theo đúng điều lệ và nguyên tắc, đảm bảo tính dân chủ và đoàn kết Đại hội Đảng bộ huyện năm 1965 và 1967 được tổ chức tại nơi sơ tán, xã Xuân Mĩ, đã bầu đồng chí Hoàng Đô làm Bí thư huyện ủy và đồng chí Trịnh Em giữ chức phó bí thư kiêm chủ tịch huyện trong cả hai kỳ đại hội.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bên cạnh việc chiến đấu trực tiếp và hỗ trợ miền Nam, công tác xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng, vì đây là động lực quan trọng quyết định mọi thắng lợi Nhận thức rõ tầm quan trọng này, Đảng bộ huyện Nghi Xuân đã tập trung vào việc xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên.
Bên cạnh việc tăng cường đội ngũ đảng viên và tham gia chiến đấu, một nhiệm vụ quan trọng không kém là đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hóa, giáo dục và đảm bảo hậu cần tại chỗ Nhiệm vụ này gặp nhiều khó khăn do huyện Nghi Xuân và miền Bắc đang phải đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ Việc kết hợp thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng lúc là cần thiết để đạt được chiến thắng cuối cùng.
Từ năm 1965 đến 1968, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt và thiên tai liên tiếp, sản xuất giảm sút và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, nạn đói giáp hạt diễn ra hàng năm Trước tình hình này, Đảng bộ và nhân dân Nghĩ Xuân đã nỗ lực khắc phục thiên tai và địch họa, phát động phong trào thi đua sản xuất và phát triển giáo dục, nhằm từng bước giúp huyện thoát khỏi khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Các khẩu hiệu như “sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi” đã được cụ thể hóa qua những hành động hàng ngày của hàng triệu nông dân, ngư dân trong hợp tác xã, cùng với hàng ngàn cán bộ, thầy giáo và học sinh tại các cơ quan, trường học Các đoàn thể quần chúng cũng tích cực tham gia phong trào thi đua với nội dung thiết thực, trong đó thanh niên đóng vai trò quan trọng.
Phong trào “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”, “hai tốt” trong trường học, và “làm nghìn việc tốt” của thiếu nhi đã tạo nên một không khí sôi động và đa dạng trong cao trào cách mạng của nhân dân Những hình thức thi đua này không chỉ thu hút sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp mà còn tạo động lực và sức mạnh cho Nghi Xuân trong việc thực hiện nhiệm vụ của một tiền tuyến và hậu phương.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công tác cải tiến và quản lý hợp tác xã được thực hiện qua hai giai đoạn Quy mô của các hợp tác xã cũng đã được mở rộng, với bình quân mỗi hợp tác xã vào cuối năm 1967 có từ 150 đến 250 hộ và 200 đến
Huyện Nghi Xuân có 250 ha đất canh tác và khoảng 300 lao động, với nhiều hợp tác xã thực hiện hiệu quả công tác “ba khoán” và “ba quản”, tạo động lực mới cho người dân Đảng bộ huyện đã chỉ đạo phát triển cây màu trên đồng cát, khuyến khích trồng các loại như khoai lang, sắn, ngô, đậu lạc, vừng và kê Phong trào cải tạo đồng ruộng, làm thủy lợi, và gieo trồng nhiều giống lúa mới như 314, bao thai, mộc tuyền, cùng với việc trồng rau muống và xu hào, đã được triển khai rộng rãi Trong chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn, gần một vạn xã viên, đoàn viên đã tham gia tích cực Trong bối cảnh chiến tranh, phương thức phân phối lương thực theo độ tuổi và định lượng tối thiểu, tối đa tuy không khuyến khích lao động giỏi nhưng đảm bảo đời sống cho mọi người, đồng thời động viên lực lượng phục vụ tiền tuyến Sự kết hợp khéo léo giữa sản xuất và chiến đấu đã giúp Nghi Xuân hoàn thành tốt nhiệm vụ và nhanh chóng thích ứng với tình hình mới.
Ngư nghiệp đang được chú trọng phát triển cùng với nông nghiệp, mặc dù nghề đánh cá đang gặp khó khăn do tình trạng đánh bắt sa sút và bị ảnh hưởng bởi máy bay, tàu chiến địch Huyện đã triển khai nhiều biện pháp như tổ chức quân sự hóa trong đánh bắt, vận động nhân dân sơ tán lên các vùng an toàn để lập làng mới, chuyển đổi sản xuất sang nông và lâm nghiệp, cùng với việc thành lập các đội và hợp tác xã vận tải chuyên trách Những nỗ lực này đã giúp ngư dân duy trì sản xuất hiệu quả Phong trào “tay chèo, tay súng” tại hợp tác xã đánh cá Đông Yên và Hùng Cường đã trở thành những đơn vị tiên tiến trong nghề đánh cá của tỉnh.