Điều tra tình hình mắc hội chúng tiêu chảy ở lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi và thử nghiệm một số phác đồ điều trị tại công ty giống lợn Bắc Trung Bộ nghiệm một số phác đồ điều trị tại công ty giống lợn Bắc Trung Bộ”. 1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài 1.2.1. Mục đích Khảo sát, đánh giá tình hình hội chứng tiêu chảy ở lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi tại công ty giống Bắc Trung Bộ. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị. 1.2.2. Yêu cầu của đề tài Đánh giá được tình hình hội chứng tiêu chảy ở lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi tại Công ty giống Bắc Trung Bộ. Xác định được kết quả điều trị của một số phác đồ và có những khuyến cáo cho cơ sở chăn nuôi trong việc sử dụng thuốc. 1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học Đánh giá một cách khách quan về tỷ lệ mắc bệnh. Đánh giá được hiệu quả điều trị của một số loại thuốc từ đó làm cơ sở để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ kết quả nghiên cứu được là cơ sở để ta đề xuất các biện pháp phòng nhằm hạn chế hội chứng tiêu chảy ở lợn. Lựa chọn phác đồ điều trị hiệu quả cao, giá thành phù hợp nhắm nâng cao chất lượng giống, giảm thiểu thiệt hại về kinh tế, nâng cao hiệu quả chăn nuôi. PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Một số đặc điểm của lợn con 2.1.1. Tốc độ sinh trưởng cao nhưng không đồng đều ở lợn con Lợn con bú sữa là lợn từ khi sinh ra cho đến khi tách mẹ. Giai đoạn này lợn con sinh trưởng rất nhanh, sau 2 tuần lợn con có trọng lượng gấp đôi trọng lượng sơ sinh, sau 4 tuần gấp 4 5 lần, sau 8 tuần gấp 10 15 lần nhưng tăng không đồng đều. Nguyên nhân của sự tăng trưởng không đều chủ yếu là do lượng sữa mẹ theo quy luật giảm ở tuần thứ 3 sau khi đẻ mà nhu cầu dinh dưỡng của lợn con không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng nhanh nhất là 21 ngày đầu, khi lượng sửa của lợn mẹ còn cung cáp đủ cho lợn con,sau đó giảm dần, lượng thức ăn bổ sung thêm chưa đủ điều này làm cho tăng trọng tuyệt đối của lợn con giảm. Thời gian giảm tốc độ sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần thường gọi là giai đoạn khủng hoảng thứ hai của lợn con, có thể khắc phục giai đoạn này bằng cách tập ăn cho lợn con, cho chúng ăn thêm thức ăn lúc 5 7 ngày tuổi. 2.1.2. Bộ máy tiêu hóa phát triển nhưng chưa hoàn thiện ở lợn con Theo Võ Trọng Hốt và cs (2000), cơ quan tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh nhưng chưa hoàn thiện. Phát triển nhanh thể hiện ở sự tăng nhanh về dung tích dạ dày, ruột non và ruột già. Dung tích dạ dày tăng gấp 5060 lần (lúc sơ sinh khoảng 30ml), dài ruột non tăng gấp 5 lần, dung tích ruột non tăng gấp 5060 lần (lúc sơ sinh 100120ml), dài ruột già 45 lần, dung tích ruột già tăng gấp 5060 lần. Nhưng cơ quan tiêu hoá của lợn con chưa được hoàn thiện do một số men tiêu hoá thức ăn chưa có hoạt tính mạnh, nhất là ở 3 tuần tuổi đầu. Đối với hàm lượng HCl, ở lợn con việc sản sinh HCl là không đáng kể trong 3 tuần tuổi đầu. Lúc cai sữa pH chuyển từ 3 sang 45, điều này không đủ để hoạt tính men pepsin đạt mức tối ưu. Từ đó mà tăng nguy cơ ỉa chảy. Theo Vũ Đình Tôn và Trần Thị Thuận: Thời kỳ này đặc điểm nổi bật của cơ quan tiêu hóa của lợn con chính là sự phát triển nhanh của cơ quan tiêu hóa song chưa hoàn thiện. Sự phát triển nhanh thể hiện ở sự tăng về dung tích và khối lượng của bộ máy tiêu hóa, còn chưa hoàn thiện thể hiện ở số lượng cũng như hoạt lực của một số men trong đường tiêu hóa. Mặc dù dung tích tăng lên rất nhanh song hệ thống men chưa phát triển chưa đầy đủ. Men Pepsin: đây là men tiêu hóa có khả năng tiêu hóa Protein của thức ăn, là men chủ yếu trong dịch vị dạ dày. Lợn con dưới 3 tuần tuổi trong dịch vị dạ dày chưa có HCl tự do (thực ra có rất ít nhưng liên kết với dịch vị) nên nó chưa có khả năng hoạt hóa Pepsinogen thành Pepsin ở dạng hoạt động, do đó khả năng tiêu hóa Protein gặp nhiều khó khăn. Chỉ sau 3 tuần tuổi trong dịch vị mới có HCl ở dạng tự do, lúc này Pepsinogen được hoạt hóa thành Pepsin hoạt động tiêu hóa Protein thức ăn. Thời kỳ thiếu HCl việc tiêu hóa Protein sữa chủ yếu do Tripsin và Kimotripsin tiết ra nhờ dịch vị và dịch ruột đảm nhiệm. Men tiêu hóa Gluxit: mem Amilaza và Mantoza là hai loại men có khả năng tiêu hóa tinh bột của thức ăn, hai loại men này có trong nước bọt và dịch tụy từ khi lợn con mới sinh ra nhưng khi lợn con ở 2 5 tuần tuổi thì hoạt tính còn yếu nên khả năng tiêu hóa Gluxit thấp. Men tiêu hóa Lipit: men Lipaza có khả năng tiêu hóa Lipit của thức ăn, nó có sau khi đẻ ra vài ngày, lợn con có đủ khả năng tiêu hóa Lipit mặc dù Lipit chiếm tới 40% vật chất khô trong sữa. Men tiêu hóa đường: men Saccaroza là men có khả năng phân giải đường Saccaroza của thức ăn và được tiết ra ở ruột non. Với lợn con dưới 2 tuần tuổi men này có hoạt tính thấp. Tóm lại men tiêu hóa các loại thức ăn ở lợn con tăng cao dần theo độ tuổi, nhìn chung sau 5 tuần tuổi trở đi lợn con mới có thể tiêu hóa hoàn toàn các loại thức ăn. Căn cứ vào sự có mặt và khả năng tiêu hóa của các loại men mà lựa chọn loại thức ăn và định thời gian cai sữa cho thích hợp. Đặc biệt là hàm lượng HCl, ở lợn con việc sản sinh HCl là không đáng kể trong 3 tuần t
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu trên lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi.
Nội dung nghiên cứu
- Điều tra tình hình hội chứng tiêu chảy ở lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi tại công ty giống lợn Bắc Trung Bộ.
Đánh giá hiệu quả sử dụng các phác đồ điều trị hội chứng tiêu chảy trên lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi tại Công ty giống lợn Bắc Trung Bộ là rất quan trọng Nghiên cứu này giúp xác định phương pháp điều trị hiệu quả nhất, từ đó cải thiện sức khỏe và năng suất của lợn con Các phác đồ điều trị cần được phân tích kỹ lưỡng để tối ưu hóa quy trình chăn nuôi và giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi.
Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Thời gian, địa điểm và phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm: tại Công ty giống lợn Bắc Trung Bộ.
- Phạm vi nghiên cứu: Hội chứng tiêu chảy ở lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi.
* Bố trí thí nghiệm theo dõi tỷ lệ nhiễm bệnh
- Theo lứa tuổi: Từ sơ sinh đến cai sữa
Từ cai sữa đến 60 ngày tuổi
- Theo tháng trong năm: + Tháng 2
* Bố trí thí nghiệm điều trị
- Tiến hành chia lô để điều trị
- Lợn con bị bệnh được chia lô để điều trị, mỗi lô 30 con, điều trị theo 2 phác đồ khác nhau.
- Giữa các lô đảm bảo đồng đều về giống, tuổi, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉ khác nhau ở yếu tố thí nghiệm.
Lợn sơ sinh – cai sữa bị bệnh được phân lô để điều trị
- Tiêm bắp Genorfcoli (1ml/10kgP)
- Tiêm bắp Multivit-forte, 1ml/ 10kgP, 1 lần/ngày để trợ lực (điều trị liên tục trong 3 ngày ).
- Tiêm bắp Hampiseptol (1ml/10kgP)
- Tiêm bắp Multivit-forte, 1ml/10kgP, 1 lần/ngày để trợ lực Điều trị liên tục trong 3 ngày.
3.3.3 Chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi các chỉ tiêu
- Thời gian điều trị trung bình.
3.3.3.2 Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu
- Liên tục kiểm tra, theo dõi và dựa vào các biểu hiện lâm sàng của bệnh để chẩn đoán, từ đó xác định các trường hợp bị bệnh.
- Ghi chép số liệu điều tra và điều trị vào sổ số liệu thô sau đó xử lý số liệu.
Tổng số điều trị khỏi
Tổng số được điều trị
Tổng số con mắc bệnh
Tổng số con theo dõi
Tổng số con điều tra
Tổng số con tái phát
Tổng số con mắc bệnh
Tỷ lệ còi cọc (%) = x 100 Tổng số con điều trị
Tổng số ngày điều trị (ngày)
Thời gian điều trị trung bình được xác định dựa trên tổng số con điều trị và đơn giá thuốc nhân với tổng lượng thuốc cần thiết Chi phí cho một ca điều trị được tính bằng cách nhân đơn giá thuốc với tổng lượng thuốc sử dụng, sau đó chia cho tổng số ca điều trị.
3.3.4 Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lí bằng theo phương pháp thống kê số học và phần mềm Excel với các hàm Chitest, Anova, thống kê mô tả.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả điều tra tình hình hội chứng tiêu chảy trên đàn lợn sơ sinh –
60 ngày tuổi tại Công ty TNHH giống lợn Bắc Trung Bộ
4.1.1 Kết quả điều tra tỷ lệ hội chứng tiêu chảy từ lợn sơ sinh – 60 ngày tuổi
Hội chứng tiêu chảy ở lợn là một bệnh phổ biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi, ảnh hưởng đến sức khỏe đàn lợn bằng cách làm tổn thương hệ nhung mao ruột non và giảm khả năng hấp thu thức ăn Điều này dẫn đến tình trạng lợn con còi cọc và tăng chỉ số tiêu tốn thức ăn cho mỗi kg tăng trọng Nguy hiểm hơn, nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy rất phức tạp, đặc biệt khi liên quan đến virus gây dịch tiêu chảy cấp, với tốc độ lây lan nhanh trong đàn và tỷ lệ tử vong có thể lên đến 100%.
Trong thời gian thực tập tại Công ty TNHH giống lợn Bắc Trung Bộ, chúng tôi đã tiến hành điều tra tình hình mắc hội chứng tiêu chảy ở đàn lợn sơ sinh đến 60 ngày tuổi Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy hội chứng tiêu chảy xảy ra ở tất cả các đối tượng và lứa tuổi lợn, tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh có sự khác biệt ở từng giai đoạn tuổi Kết quả theo dõi tình hình hội chứng tiêu chảy từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 4.1: Kết quả điều tra tinh hình hội chứng tiêu chảy (HCTC) ở lợn từ sơ sinh – 60 ngày tuổi tại Công ty giống lợn Bắc Trung Bộ
Số con điều tra ( con )
Số con bị bệnh ( con )
Sơ sinh đến cai sữa 668 209 31,29 a 26 3,89
Cai sữa đến 60 ngày tuổi 650 119 18,31 b 10 1,54
Trong cùng 1 cột sự sai khác giữa các giá trị trung bình có 1 chữ cái khác nhau, là có ý nghĩa (P < 0,05)
Theo số liệu, tỷ lệ mắc hội chứng tiêu chảy ở lợn sơ sinh đến 60 ngày tuổi là 25,34%, cho thấy tiêu chảy vẫn là một vấn đề nghiêm trọng trong ngành chăn nuôi lợn do nguyên nhân bệnh phức tạp Tỷ lệ mắc bệnh này còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố khí hậu, đặc biệt là thời tiết lạnh và ẩm Thời gian theo dõi diễn ra vào mùa xuân, khi thời tiết lạnh và ẩm nhất trong năm, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh cao.
Xét về lứa tuổi cho thấy lợn ở các lứa tuổi khác nhau thì tỷ lệ bị tiêu chảy và tỉ lệ chết là khác nhau.
Giai đoạn sơ sinh đến giai đoạn cai sữa số con điều tra là 668 con, tỷ lệ bị HCTC là khá cao 31,29%, tỉ lệ chết do HCTC là 3,89%.
Giai đoạn sau cai sữa đến 60 ngày tuổi có 650 con được điều tra, với tỷ lệ mắc hội chứng tiêu chảy cấp (HCTC) là 18,31% và tỷ lệ chết do HCTC là 1,54%, thấp hơn so với giai đoạn sơ sinh đến cai sữa Đặc biệt, tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm tuổi sơ sinh – cai sữa cao gấp 1,7 lần so với nhóm tuổi sau cai sữa.
Sự sai khác trong tỷ lệ bệnh tật ở lợn được gây ra bởi những đặc điểm sinh lý, tiêu hóa và khả năng đề kháng với bệnh tật khác nhau ở từng giai đoạn sinh trưởng phát triển.
Giai đoạn sơ sinh đến cai sữa là thời kỳ mà lợn con sống phụ thuộc vào mẹ, và tỷ lệ mắc bệnh cao trong giai đoạn này chủ yếu do đặc điểm sinh lý của lợn con Trong bụng mẹ, lợn con được bảo vệ trong môi trường lý tưởng về nhiệt độ, độ ẩm và dinh dưỡng Tuy nhiên, khi ra ngoài, lợn con phải đối mặt với nhiều yếu tố gây bệnh như môi trường thay đổi, hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện và hệ miễn dịch chưa phát triển đầy đủ Hơn nữa, lượng kháng thể từ mẹ truyền cho con giảm dần, làm giảm sức đề kháng và khiến lợn con dễ mắc các bệnh tiêu hóa.
Theo kết quả theo dõi, tỉ lệ mắc hội chứng tiêu chảy ở lợn con giai đoạn sau cai sữa đến 60 ngày tuổi giảm đáng kể so với giai đoạn sơ sinh đến cai sữa, từ 32,29% xuống còn 18,31% Nguyên nhân của sự giảm này là do lợn con đã dần thích nghi với môi trường, chức năng các cơ quan trong cơ thể đã hoàn thiện hơn, cùng với bộ máy tiêu hóa và cơ quan điều hòa thân nhiệt đã hoạt động hiệu quả pH dạ dày thấp cũng giúp ức chế vi khuẩn gây bệnh Hơn nữa, lợn con đã có khả năng tạo ra kháng thể miễn dịch nhờ tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm trước đó, như dịch tả, phó thương hàn và các bệnh hô hấp, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh giảm Thực tế theo dõi cho thấy, tỷ lệ tiêu chảy chủ yếu xảy ra sau cai sữa.
Theo nghiên cứu của Tô Thị Phượng (2006), lợn từ 1-21 ngày tuổi nuôi ở chuồng sàn có tỷ lệ tiêu chảy là 28,92% và tỷ lệ chết là 1,83%, trong khi nuôi ở chuồng nền, tỷ lệ tiêu chảy là 41,69% và tỷ lệ chết là 2,40% Đối với lợn từ 22-60 ngày tuổi, tỷ lệ bệnh và tỷ lệ chết ở chuồng sàn lần lượt là 15,16% và 0,88%, còn ở chuồng nền là 21,26% và 1,16%.
Tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm tuổi được theo dõi có sự khác biệt rõ rệt: trong giai đoạn sơ sinh đến cai sữa, tỷ lệ tử vong do bệnh là 3,89%, trong khi giai đoạn sau cai sữa, tỷ lệ này giảm xuống còn 1,54%.
So sánh tỷ lệ mắc bệnh giữa hai nhóm tuổi bằng hàm Chitest cho thấy giá trị P (X>χ 2) là 5.06644E-08, nhỏ hơn α= 0,05 Do đó, chúng tôi kết luận rằng tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở hai nhóm tuổi khác nhau có sự khác biệt với độ tin cậy 95%.
Biểu đồ 4.1 cho ta thấy rõ có sự khác nhau về tỷ lệ mắc HCTC ở hai nhóm lợn theo dõi.
Biểu đồ 4.1 Tình hình mắc hội chứng tiêu chảy ở các lứa tuổi lợn.
4.1.2 Tình hình mắc hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo tháng giai đoạn sơ sinh đến cai sữa
Yếu tố khí hậu là một trong những nguyên nhân chính góp phần vào sự phát triển của bệnh ở lợn con, dẫn đến sự khác biệt trong tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy qua các tháng Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tình hình mắc bệnh tiêu chảy ở lợn trong các tháng 2, 3 và 4, và đã thu được những kết quả đáng chú ý.
Bảng 4.2 Kết quả điều tra tình hình hội chứng tiêu chảy theo tháng giai đoạn sơ sinh đến cai sữa Chỉ tiêu
Số con điều tra ( con )
Số con bị bệnh ( con )
Trong cùng 1 cột sự sai khác giữa các giá trị trung bình có 1 chữ cái khác nhau, là có ý nghĩa (P < 0,05)
Qua bảng 4.2 chúng tôi thấy: Tỉ lệ mắc hội chứng tiêu chảy ở lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa có sự chênh lệch qua các tháng.
Trong nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh ở lợn con, tháng 2 và tháng 3 ghi nhận tỷ lệ cao nhất, trong khi tháng 4 có tỷ lệ thấp nhất Cụ thể, trong tháng 2, trong số 223 lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi, có 78 con bị bệnh, chiếm 34,98% Tháng 3, trong 226 lợn con cùng độ tuổi, có 72 con bị bệnh, chiếm 31,86% Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi là vào tháng 2 với 34,98%.
Tháng 2 là thời điểm cao điểm tỉ lệ mắc bệnh ở lợn sơ sinh, chủ yếu do ảnh hưởng của khí hậu miền Bắc với nhiệt độ thấp, mưa phùn và gió bấc Thời tiết ẩm ướt gây khó khăn cho việc điều hòa thân nhiệt của lợn con, làm giảm sức đề kháng Ngoài ra, độ ẩm cao khiến chuồng trại ẩm thấp, khó vệ sinh, tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển, đặc biệt là mầm bệnh gây tiêu chảy Mặc dù trang trại đã thực hiện rắc vôi bột và phun xịt sát trùng hai lần mỗi ngày, tình trạng mắc bệnh vẫn chưa được cải thiện.
Trong tháng 3, tỷ lệ mắc bệnh giảm xuống còn 31,86% so với tháng 2, nhờ vào điều kiện thời tiết ấm áp hơn với những ngày nắng và độ ẩm không khí giảm Việc vệ sinh chuồng trại cũng trở nên thuận lợi hơn, giúp hạn chế mầm bệnh tồn tại Tuy nhiên, tháng 3 cũng là tháng giao mùa, với sự biến đổi nhiệt độ ngày đêm lớn và những ngày lạnh, mưa phùn xen kẽ Điều này đã ảnh hưởng đến sức đề kháng của lợn, đặc biệt là lợn sơ sinh, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh vẫn duy trì ở mức 31,86%.
Sang tháng 4, tỷ lệ mắc bệnh giảm hẳn so với hai tháng trước đó, tỷ lệ mắc bệnh là 26,94%
Tháng 4 có thời tiết ấm áp hơn so với tháng 2 và 3, với số ngày nắng nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác vệ sinh chuồng trại Ánh nắng mặt trời không chỉ giúp tiêu diệt mầm bệnh trong chuồng mà còn ở môi trường xung quanh, từ đó làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Kết quả theo dõi hiệu quả điều trị của các phác đồ
4.2.1 Tỷ lệ khỏi bệnh khi điều trị bằng hai phác đồ
Thí nghiệm điều trị bệnh tiêu chảy ở lợn con sơ sinh đến cai sữa được thực hiện với 60 con lợn bị bệnh, chia thành 2 lô, mỗi lô 30 con Hai phác đồ điều trị khác nhau sẽ được áp dụng cho từng lô.
- Tiêm bắp Genorfcoli (1ml/10kgP)
- Tiêm bắp Multivit-forte, 1ml/ 10kgP, 1 lần/ngày để trợ lực, điều trị liên tục trong 3 ngày.
- Tiêm bắp Hampiseptol (1ml/10kgP)
- Tiêm bắp Multivit-forte, 1ml/10kgP, 1 lần/ngày để trợ lực Điều trị liên tục trong 3 ngày.
Kết quả điều trị bệnh được trình bày tại bảng 4.4.
Qua bảng kết quả điều trị bệnh ta thấy:
Hiệu quả điều trị tại đây rất cao với 60 con lợn được điều trị, trong đó 53 con khỏi bệnh, đạt tỷ lệ 88,33% Tỷ lệ không khỏi là 11,67% Thành công này nhờ vào việc phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời, cùng với sự quan tâm của công nhân và cán bộ kỹ thuật trong việc chăm sóc lợn mẹ và lợn con trong quá trình điều trị.
Phác đồ điều trị 1 có tỷ lệ khỏi bệnh đạt 96,67%, trong khi tỷ lệ không khỏi là 3,33% và tỷ lệ tái phát là 3,45% Đối với phác đồ điều trị 2, tỷ lệ khỏi bệnh là 80%, tỷ lệ không khỏi là 20% và tỷ lệ tái phát là 4,16%.
Bảng 4.4 Kết quả theo dõi hiệu quả điều trị của các phác đồ
Các chỉ tiêu theo dõi Số con điều trị ( con)
Số con không khỏi ( con )
Số con tái phát ( con )
Số con khỏi bệnh và tỷ lệ khỏi bệnh là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả điều trị của phác đồ Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng trong cùng điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng, số con điều trị giống nhau nhưng số con khỏi bệnh giữa hai phác đồ lại khác nhau Cụ thể, phác đồ 1 (Kháng sinh + Multivit-forte) có 29 con khỏi, đạt tỷ lệ 96.67% Ngược lại, phác đồ 2 chỉ có 24/30 con khỏi, cho thấy tỷ lệ khỏi bệnh thấp hơn nhiều.
80% Kết quả này cho thấy hiệu quả điều trị của phác đồ 1 cho tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn rõ rệt.
Có sự khác biệt về tỷ lệ khỏi bệnh như vậy theo chúng tôi là do thuốc
Genorfcoli là dung dịch tiêm có sự kết hợp của 3 loại thuốc khác nhau:
Gentamicin là một loại kháng sinh thuộc nhóm aminoglycosid, có khả năng tiêu diệt vi khuẩn bằng cách ức chế quá trình tổng hợp protein của chúng Phổ tác dụng của gentamicin bao gồm các vi khuẩn hiếu khí Gram âm và tụ cầu khuẩn, bao gồm cả các chủng kháng penicilinase và methicilin.
Colistin là thuốc kháng sinh nhóm polymyxin, Các polymyxin có tác dụng diệt khuẩn ngay cả với tế bào ở trạng thái nghỉ.
Colistin là kháng sinh thường được sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn Gram âm Nó hiệu quả trong việc điều trị các bệnh lý ở đường dạ dày – ruột do các vi khuẩn Gram âm nhạy cảm như Klebsiella và Pseudomonas gây ra.
Escherichia, Salmonella và Shigella là những tác nhân gây ra các bệnh đường tiêu hóa, bao gồm viêm ruột, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy với phân trắng, phó thương hàn, và nhiễm khuẩn do trực khuẩn E.coli Các triệu chứng có thể bao gồm phù đầu và lồi mắt.
Dexamethason có các tác dụng chính của glucocorticoid là chống viêm, chống dị ứng.
Thuốc Genorfcoli, với sự kết hợp các thành phần mạnh mẽ, có tác dụng hiệu quả đối với vi khuẩn Gram (-) và Gram (+) Việc kết hợp với thuốc kháng viêm đã nâng cao tỷ lệ khỏi bệnh ở lợn mắc tiêu chảy Do đó, Genorfcoli là lựa chọn tốt để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, đặc biệt là tiêu chảy do E.Coli và Salmonella, với hiệu quả điều trị cao.
Phác đồ điều trị bằng hai thuốc Hampiseptol, với thành phần chính là Sulfadimidin và Trimethoprim, có tác dụng kìm khuẩn, tuy nhiên, hiệu quả điều trị thường chậm hơn so với các phương pháp khác.
So sánh tỷ lệ khỏi bệnh giữa hai phác đồ điều trị bằng hàm Chitest cho thấy giá trị P (X>χ 2) = 0,044, nhỏ hơn α = 0,05 Kết quả này cho phép chúng tôi kết luận rằng tỷ lệ khỏi bệnh tiêu chảy ở hai phác đồ khác nhau đạt độ tin cậy 95%.
Tỷ lệ không khỏi là một chỉ tiêu quan trọng mà người chăn nuôi cần chú ý, vì nó phản ánh hiệu quả của thuốc điều trị Để giảm tỷ lệ này, việc duy trì vệ sinh chuồng trại và chăm sóc lợn bệnh trong quá trình điều trị là rất cần thiết.
Theo bảng số liệu, phác đồ 1 có tỷ lệ không khỏi chỉ 3,33%, trong khi phác đồ 2 lên tới 20% Điều này cho thấy rằng việc áp dụng phác đồ 1 trong điều trị cho lợn con mang lại hiệu quả cao hơn đáng kể so với phác đồ 2.
Số con tái phát là những trường hợp đã khỏi sau điều trị lần đầu nhưng lại bị tái phát sau 5 ngày, đặc biệt khi gặp các yếu tố như stress lạnh ẩm và thay đổi khí hậu đột ngột Theo bảng 4.4, cả hai phương pháp điều trị bằng thuốc Genorfcoli và Hampisepton đều ghi nhận 01 trường hợp tái phát.
Tỷ lệ tái phát bệnh ở vật nuôi chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, bao gồm điều kiện khí hậu, vệ sinh chuồng nuôi, chất lượng thức ăn, sức đề kháng của cơ thể vật nuôi và hiệu lực của thuốc điều trị.
4.2.2 Kết quả theo dõi thời gian điều trị và chi phí điều trị
Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả điều trị thuốc là thời gian điều trị và chi phí Một phác đồ điều trị hiệu quả cần đạt tỷ lệ khỏi bệnh cao, thời gian điều trị ngắn và chi phí thấp, từ đó giúp giảm chi phí thú y và nâng cao hiệu quả chăn nuôi Kết quả theo dõi thời gian điều trị và chi phí của từng phác đồ được trình bày chi tiết trong bảng 4.5.