Lí do lựa chọn đề tài
Trong bối cảnh phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang hướng tới mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội Sự đa dạng trong các quan hệ pháp luật về kinh tế, dân sự và hình sự đã tạo ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển đất nước Kinh tế phát triển đồng nghĩa với đời sống nhân dân được cải thiện Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, nền kinh tế thị trường cũng phát sinh những vấn đề tiêu cực như tha hóa đạo đức, nhân phẩm và gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến tình hình chính trị, an ninh và trật tự xã hội.
Tội phạm đang gia tăng với mức độ và tính chất ngày càng nguy hiểm và tinh vi Trong số đó, các loại tội phạm xâm hại quyền sở hữu chiếm tỷ lệ lớn, bao gồm tội "cướp giật tài sản", "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Trộm cắp tài sản là một vấn đề phức tạp, xâm phạm đến quyền sở hữu của cá nhân và Nhà nước, được bảo vệ bởi pháp luật Theo Điều 32 Hiến pháp 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi người có quyền sở hữu tài sản hợp pháp, bao gồm thu nhập, của cải, nhà ở và tư liệu sinh hoạt Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện cho cá nhân phát huy khả năng của mình, góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng tội phạm, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản, đang có xu hướng gia tăng và gây bức xúc trong xã hội Vấn đề này không chỉ tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước mà còn ảnh hưởng đến an ninh trật tự, cũng như đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 - Bộ luật hình sự Việt Nam, phản ánh tính chất nghiêm trọng và hậu quả của hành vi xâm phạm tài sản riêng của công dân Mọi hành vi trộm cắp nếu không được pháp luật cho phép đều cần phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, nhằm bảo đảm an ninh xã hội và trật tự công cộng Nếu không có biện pháp xử lý hiệu quả, tình hình tội phạm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý người dân, khiến họ lo lắng trong lao động sản xuất và mua sắm tài sản.
Nông Cống là huyện nằm trong vùng kinh tế Nam Thanh, Bắc Nghệ, với đường sắt Bắc Nam chạy qua và có ba nhà ga: Yên Thái, Minh Khôi, Thị Long Huyện này cũng có Quốc lộ 45 nối liền Quốc lộ 1A, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông và phát triển kinh tế.
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, giao lưu và hội nhập, dẫn đến những chuyển biến tích cực trong kinh tế, văn hóa và xã hội của huyện Nông Cống Nền kinh tế phát triển đã nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, với sự hình thành của nhiều công ty và xí nghiệp, tạo ra hàng nghìn việc làm Tuy nhiên, bên cạnh đó, một bộ phận người dân không tham gia lao động mà lại rơi vào tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút và trộm cắp Những kẻ trộm cắp thường lợi dụng sự sơ hở của người dân, thực hiện hành vi phạm tội một cách tinh vi Hầu hết các vụ trộm cắp đã được phát hiện và đưa ra xét xử, tuy nhiên, cần nắm rõ quy định pháp luật về tội trộm cắp tài sản để hiểu rõ bản chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này Từ đó, có thể đề ra các phương hướng giải quyết hiệu quả nhằm khắc phục tình trạng trộm cắp tại huyện Nông Cống và trên toàn quốc Đề tài "Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam – nhìn từ thực tiễn địa bàn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa" sẽ là chủ đề khóa luận tốt nghiệp đại học của tôi.
Với kiến thức thực tế và tài liệu nghiên cứu còn hạn chế, đề tài của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo để hoàn thiện hơn.
Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu những quy định của Luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản
- Đánh giá về thực trạng, tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn (2009 -
- Đề ra các biện pháp nhằm nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Tình hình nghiên cứu
Hành vi trộm cắp tài sản đã được nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học về Luật hình sự, bao gồm các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ Nhiều tác giả đã phân tích các tội xâm phạm sở hữu, đặc biệt là việc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản tại Việt Nam Một ví dụ tiêu biểu là bài viết của TS Trương Quang Vinh, “Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”, đăng trên tạp chí Luật học (Trường Đại học Luật Hà Nội) số 4 năm 2000 Ngoài ra, luận án tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Chí năm 2000 về “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” cũng đã đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Hải năm 2004 nghiên cứu về “Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam”, tập trung vào một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học liên quan Tác phẩm này góp phần làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến tội trộm cắp, đồng thời phân tích các yếu tố tội phạm học để hiểu rõ hơn về nguyên nhân và hệ quả của hành vi này trong bối cảnh pháp luật Việt Nam.
Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa đang gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm, trở thành một "vấn nạn" xã hội nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế và đời sống nhân dân Dù nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến vấn đề này, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào đấu tranh phòng chống tội phạm mà chưa đi sâu vào khía cạnh pháp lý và thực trạng của tội trộm cắp tài sản theo quy định của luật hình sự Việt Nam.
Huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, đang đối mặt với tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ngày càng gia tăng, không chỉ về số vụ mà còn về mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến tài sản, sức khỏe và tinh thần của người dân Khóa luận này nghiên cứu các khía cạnh pháp lý của tội trộm cắp theo luật hình sự Việt Nam, đồng thời phân tích thực trạng tội phạm tại huyện Nông Cống Mục tiêu là hiểu rõ hơn về bản chất và nội dung của loại tội phạm này, từ đó xác định nguyên nhân và đề xuất biện pháp phòng chống hiệu quả, góp phần cải thiện đời sống của cư dân địa phương.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, đồng thời phân tích thực tiễn tội trộm cắp tài sản tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Khóa luận nghiên cứu các khía cạnh pháp lý liên quan đến tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, đồng thời phân tích tình hình tội phạm này tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn từ năm 2009.
Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được xây dựng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm Bài viết sử dụng các văn bản pháp luật, báo cáo tổng kết xét xử và tài liệu liên quan để làm rõ nội dung nghiên cứu.
Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng các phương pháp như:
Phương pháp phân tích là cách xem xét các chứng cứ trong hồ sơ vụ án tại huyện Nông Cống, nhằm đánh giá và rút ra kết luận phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp thống kê trong nghiên cứu tội phạm bao gồm việc thu thập và phân loại tài liệu liên quan, sắp xếp chúng theo thời gian, đặc điểm và thủ đoạn phạm tội Qua đó, các nhà nghiên cứu có thể xác định nguyên nhân và mục đích của loại tội phạm, cũng như các công cụ và phương tiện được sử dụng.
Khóa luận cũng áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như quan sát, điều tra xã hội học và so sánh, nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài một cách toàn diện.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1 Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận
Chương 2 Tội Trộm cắp tài sản, thực tiễn tại địa bàn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3 Nguyên nhân và các biện pháp khắc phục trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
Lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản
sự về tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản là một loại tội phạm phổ biến và đã xuất hiện từ rất sớm Kể từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành nhiều quy định nhằm bảo vệ tài sản, coi đó là nền tảng vật chất của xã hội Qua từng giai đoạn, các quy định này được điều chỉnh để đấu tranh loại bỏ tội phạm trộm cắp khỏi đời sống xã hội.
1.1.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt nam năm 1985
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam kiểu mới ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam Trong vòng bốn tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm duy trì chính quyền nhân dân và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài Ngoài việc chống lại thực dân Pháp và tay sai, Nhà nước còn chú trọng giữ gìn trật tự an toàn xã hội, với các hành vi cướp bóc và nhũng nhiễu bị xử lý nghiêm, có thể bị tuyên án tử hình Sắc lệnh số 73 (17/08/1947) và sắc lệnh số 12 (12/03/1949) quy định hình phạt nặng cho tội trộm cắp vặt và trộm cắp tài sản.
1.1.2 Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Từ những văn bản tản mạn riêng lẻ, Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc Quốc hội khoá VII thông qua ngày 27/6/1985, thể hiện dưới hình thức Bộ luật
Bộ luật hình sự 1985 là một hình thức lập pháp cao, hệ thống và toàn diện, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, an ninh quốc gia, và quyền lợi hợp pháp của công dân Trong thời kỳ quá độ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bộ luật này phân loại hành vi xâm phạm sở hữu thành hai loại chính: xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và xâm phạm sở hữu của công dân Điều 132 quy định rõ tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, phản ánh tính chất nghiêm trọng của các hành vi xâm phạm này.
1 Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c Hành hung để tẩu thoát; d Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ Tái phạm nguy hiểm;
3 Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” Điều 155 Bộ luật hình sự 1985 quy định tội trộm cắp tài sản của công dân nhƣ sau:
1 Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm: a Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm, hành hung để tẩu thoát; c Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; d Tái phạm nguy hiểm
3 Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm”
Bộ luật hình sự năm 1985 đã đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý tội phạm, nhưng vẫn tồn tại sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, dẫn đến việc xử lý nghiêm khắc hơn đối với tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa Điều này phản ánh chính sách của Nhà nước đối với tội phạm trộm cắp Sau bốn lần sửa đổi, Bộ luật hình sự năm 1985 không còn phù hợp và cần một bộ luật mới, dẫn đến sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1999, kế thừa và phát triển để phù hợp với điều kiện xã hội hiện tại.
1.1.3 Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải rà soát toàn diện các tội phạm về kinh tế và sở hữu, nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý và chính sách xử lý phù hợp Ngày 21-12-1999, Quốc hội khoá X đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, có hiệu lực từ 1-7-2000, với các quy định cụ thể về tội xâm phạm sở hữu, bao gồm tội trộm cắp tài sản theo Điều 138.
1 Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a Có tổ chức; b Có tính chất chuyên nghiệp; c Tái phạm nguy hiểm; d Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ Hành hung để tẩu thoát; e Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g Gây hậu quả nghiêm trọng
3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b Gây hậu quả rất nghiêm trọng
4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung than b Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
5 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng” Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những thay đổi đáng kể so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi chỉ xây dựng một chương: Các tội xâm phạm sở hữu, bao quát tất cả các hình thức sở hữu đã đƣợc Bộ luật dân sự quy định, bảo đảm vị trí bình đẳng của các thành phần kinh tế đồng thời vẫn thể hiện được sự đề cao vai trò của sở hữu Nhà nước khi quy định hành vi “xâm phạm sở hữu của Nhà nước” là một tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự tại Điều 48 Bộ luật hình sự Đối với tội trộm cắp tài sản, Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định thành hai tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản của công dân mà quy định thống nhất thành tội trộm cắp tài sản, vấn đề định lƣợng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là tình tiết định tội và định khung hình phạt là những điểm thay đổi cơ bản của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985.
Dấu hiệu pháp lí của tội trộm cắp tài sản
1.2.1 Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút và trái pháp luật, được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung).
2009) quy định về tội trộm cắp tài sản:
1 Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng
3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến dưới mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân : a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọn
5 Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng( Bộ luật hình sự năm 1999 –Trang 95) Ở mỗi giai đoạn lập pháp hình sự, Nhà nước đều ban hành các quy định về tội trộm cắp tài sản và đường lối xử lý người phạm tội, song các văn bản pháp luật đều không đƣa ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản, nhƣ vậy cần tìm hiểu thế nào là tội trộm cắp tài sản ?
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, với đặc điểm là tính chất bí mật và đối tượng là tài sản đang có người quản lý.
Tội phạm, theo Điều 8 Bộ luật hình sự, được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý Trong đó, tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự với lỗi cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ.
Tội trộm cắp tài sản là một hành vi phạm tội nguy hiểm cho xã hội, được xác định qua bốn yếu tố pháp lý cơ bản: khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể Để hiểu rõ hơn về tính chất của tội phạm này, cần phân tích từng yếu tố, bắt đầu từ khách thể của tội trộm cắp tài sản.
1.2.2 Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, và khi xảy ra tội phạm, những quan hệ này sẽ bị xâm hại Mỗi tội phạm đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến một hoặc nhiều quan hệ xã hội mà luật pháp bảo vệ.
Các đối tượng cần được bảo vệ bởi quy phạm pháp luật hình sự bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ chính trị và kinh tế; nền văn hóa; quốc phòng và an ninh; trật tự an toàn xã hội; quyền lợi hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do và tài sản của công dân; cùng với các quyền lợi hợp pháp khác và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu, với khách thể là quan hệ sở hữu tài sản Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, "sở hữu" được hiểu là tổng thể các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất giữa con người trong xã hội.
Quan hệ sở hữu tài sản là mối quan hệ xã hội mà pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt tài sản Theo pháp luật dân sự Việt Nam, một người được coi là chủ sở hữu tài sản khi họ có ba quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt Hành vi trộm cắp tài sản xâm phạm quyền sở hữu của chủ tài sản, khiến họ không thể thực hiện các quyền năng của mình Đối với tài sản hợp pháp, khách thể của tội trộm cắp là quan hệ sở hữu, trong khi tài sản không hợp pháp không được pháp luật bảo vệ Luật hình sự xác định rằng khách thể của tội phạm phải là quan hệ xã hội được bảo vệ, do đó, trong trường hợp trộm cắp, khách thể là trật tự an toàn xã hội, không chỉ đơn thuần là quan hệ sở hữu Nếu chỉ xem khách thể là quan hệ sở hữu, sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm Do đó, hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, bất kể tài sản có thuộc quyền sở hữu hợp pháp hay không, đều được coi là trộm cắp tài sản.
1.2.3 Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của hành vi phạm tội, đóng vai trò quan trọng trong cấu thành tội phạm Nếu không có mặt khách quan, các yếu tố khác của tội phạm sẽ không tồn tại.
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các yếu tố :
- Hành vi (khách quan) nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm;
- Các biểu hiện bên ngoài khác liên quan đến việc thực hiện tội phạm như: công cụ phương tiện, địa điểm, thời gian phạm tội
Hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của con người, được kiểm soát bởi ý thức và điều khiển bởi ý chí, có tính nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong Bộ luật hình sự.
Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác
Tội trộm cắp tài sản và các tội xâm phạm sở hữu khác đều thuộc chương Các tội xâm phạm sở hữu, có đặc điểm chung liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản Mặc dù có thể nhận diện tội phạm qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhưng thực tế việc nhận biết hành vi phạm tội không đơn giản do tội phạm xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều cơ quan tố tụng có thể định tội danh không chính xác do không hiểu rõ bản chất hành vi phạm tội Vì vậy, việc hiểu đúng bản chất của hành vi phạm tội là rất quan trọng để phân biệt các tội phạm một cách chính xác.
Khi nghiên cứu tội trộm cắp tài sản, cần phân biệt rõ ràng giữa tội này và các tội phạm khác như công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và cướp giật tài sản Việc hiểu biết về các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp cũng như sự khác biệt với các tội phạm tương tự là rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu.
1.3.1 Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản
Tội cƣỡng đoạt tài sản ( Điều 135 Bộ luật hình sự) Khoản 1 Điều 135
Theo Bộ luật hình sự, hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc áp dụng thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử phạt tù từ một năm đến năm năm.
- Về mặt chủ thể: Đều do các chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, đạt độ tuổi theo luật định
Theo Khoản 1 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm nghiêm trọng Tuy nhiên, họ sẽ phải chịu trách nhiệm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Về mặt khách thể: Xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản
- Về mặt khách quan: Hai tội này đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội
- Về mặt chủ quan: Thực hiện do lỗi cố ý, mục đích vụ lợi
Tội cƣỡng đoạt tài sản khác với tội trộm cắp tài sản ở chỗ nó không chỉ xâm phạm đến tài sản mà còn ảnh hưởng đến nhân thân của người quản lý tài sản.
Tội cƣỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ Hành vi này diễn ra công khai, cho phép người bị đe dọa nhận biết kẻ phạm tội và có thời gian để suy nghĩ trước khi quyết định Ngoài ra, tội phạm còn có thể uy hiếp về mặt tinh thần, gây thiệt hại đến danh dự và uy tín của người chủ tài sản, như đe dọa công bố bí mật cá nhân hoặc hủy hoại tài sản Ngược lại, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, nhằm tránh sự phát hiện của người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản Trong trường hợp này, kẻ phạm tội chỉ cần che giấu hành vi chiếm đoạt đối với người quản lý tài sản, mà không cần phải che giấu toàn bộ hành vi của mình.
Tội cƣỡng đoạt tài sản bị xử phạt với mức án tù từ một năm đến năm năm, trong khi tội trộm cắp tài sản có mức phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Trong khung tăng nặng thứ ba, các tình tiết phạm tội tương tự đều thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên hoặc gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Mặc dù tội trộm cắp tài sản có mức phạt tù cao nhất lên đến chung thân, nhưng tội cưỡng đoạt tài sản lại có mức phạt từ 12 đến 20 năm tù.
Hai tội này có sự khác biệt rõ rệt về hình phạt bổ sung Cụ thể, tội trộm cắp tài sản có mức phạt tiền thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 50 triệu đồng, trong khi tội cưỡng đoạt tài sản có mức phạt tiền thấp nhất là 10 triệu đồng và cao nhất là 100 triệu đồng.
1.3.2 So sánh tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”
- Về mặt chủ thể: Đều do các chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, đạt độ tuổi theo luật định
- Về mặt khách thể: Xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản
- Về mặt khách quan: Đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội
- Về mặt chủ quan: Thực hiện do lỗi cố ý, mục đích vụ lợi, mục đích luôn có trước hành vi
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội trộm cắp ở chỗ, lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến việc sử dụng thủ đoạn gian dối và thông tin sai sự thật để khiến người chủ hoặc người quản lý tài sản tin tưởng và giao tài sản cho kẻ phạm tội Hành vi phạm tội này thể hiện rõ ràng qua việc gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi gian dối là việc cung cấp thông tin sai lệch bằng nhiều thủ đoạn, như sử dụng giấy tờ giả mạo, nhằm khiến người chủ tài sản tin tưởng vào sự thật không có Khi người chủ tài sản tin tưởng và quyết định giao tài sản của mình, hành vi gian dối đã được thực hiện, dẫn đến việc chiếm đoạt tài sản của nạn nhân.
Từ năm 2009, Huỳnh Thị Phương Lan đã lợi dụng sự quen biết và lòng tin của nhiều người để tổ chức chơi hụi với số tiền lên đến 5.000.000 đồng Tuy nhiên, Lan đã sử dụng tiền đóng hụi của các hụi viên cho chi tiêu cá nhân, dẫn đến tình trạng không còn khả năng thanh toán Để chiếm đoạt tài sản, Lan đã giả mạo tên của nhiều người, bao gồm cả hụi viên và những người không tham gia chơi hụi, nhằm bán các phần hụi không có thật, qua đó chiếm đoạt gần 2 tỉ đồng từ 15 người Ngoài ra, Lan còn vay mượn và chiếm đoạt hơn 1,3 tỉ đồng trước khi bỏ trốn Đến tháng 12 năm 2010, Lan bị bắt theo lệnh truy nã của Công an huyện Nông Cống và đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Hành vi gian dối là đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong khi tội trộm cắp tài sản lại được xác định qua hành vi lén lút.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mức hình phạt cao nhất lên đến tử hình, trong khi tội trộm cắp chỉ bị phạt tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng đƣợc quy định ở mức cao hơn là hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng
1.3.3 So sánh tội trộm cắp tài sản với tội chiếm giữ trái phép tài sản
Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản
Nhà nước ta quy định biện pháp xử lý đối với người phạm tội thông qua Bộ luật hình sự, trong đó biện pháp pháp lý hình sự là nghiêm khắc nhất, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước Hình phạt, được xem là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong đó hình phạt chính do Toà án tuyên độc lập Đối với tội trộm cắp tài sản, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) đã phân chia thành bốn khung hình phạt dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm và thiệt hại tài sản, thay vì ba khung như trước đây, nhằm thể hiện nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
- Khung 1 tương ứng với mức độ thiệt hại tài sản từ hai triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng ;
- Khung 2 tương ứng với mức độ thiệt hại tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng;
Khung 3 áp dụng cho thiệt hại tài sản từ 200 triệu đến dưới 500 triệu đồng, trong khi khung 4 áp dụng cho thiệt hại tài sản từ 500 triệu đồng trở lên.
Tội trộm cắp tài sản bao gồm một cấu thành cơ bản và ba cấu thành tăng nặng, tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội Mỗi trường hợp phạm tội sẽ dẫn đến trách nhiệm hình sự khác nhau, do đó, việc tìm hiểu về trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản trong từng tình huống là rất cần thiết.
1.4.1 Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự
Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”
Khoản 1 quy định trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong trường hợp thông thường khi hành vi phạm tội thoả mãn cấu thành cơ bản Điều luật quy định mức giá trị tài sản tối thiểu bị chiếm đoạt là từ hai triệu đồng trở lên làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đồng thời để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác, theo đó người có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị từ hai triệu đồng trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự Vấn đề quan trọng là cần xác định khách quan toàn diện giá trị tài sản bị chiếm đoạt để đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng đắn Để đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật đồng thời đấu tranh phòng chống những người chuyên trộm cắp vặt, điều luật còn quy định đối với những người trộm cắp tài sản có giá trị dưới mức tối thiểu vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong những trường hợp sau:
Trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng nhưng “gây hậu quả nghiêm trọng”, xác định hậu quả nghiêm trọng đó nhƣ sau:
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây ra bao gồm cả hậu quả vật chất, như thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản, lẫn hậu quả phi vật chất, ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, cũng như an ninh, trật tự an toàn xã hội Những trường hợp được coi là "gây hậu quả nghiêm trọng" sẽ được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể.
- Gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ của một đến hai người với tỉ lệ thương tật mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ của ba đến bốn người với tỉ lệ thương tật mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nhiều người với tổng tỉ lệ thương tật từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp trên;
Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho nhiều người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, cùng với thiệt hại tài sản từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng.
Thiệt hại tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng trong trường hợp tội trộm cắp tài sản cần được xác định rõ ràng Hậu quả nghiêm trọng không chỉ dựa vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt, vì giá trị này đã được quy định thành tình tiết định khung riêng Do đó, thiệt hại thực tế phải được xem xét dựa trên các thiệt hại về tài sản xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Trong một vụ trộm cắp, kẻ gian đã lấy lô thuốc chữa bệnh cho gia súc trị giá 400.000 đồng của ông B Do không có thuốc chữa bệnh, đàn gia súc của ông B trị giá 100 triệu đồng đã chết Vì vậy, giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 400.000 đồng, trong khi hậu quả nghiêm trọng do thiệt hại về tài sản lên đến 100 triệu đồng.
* Trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng đồng nhưng người phạm tội “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt”
Người bị coi là “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt” nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý kỷ luật bởi cơ quan có thẩm quyền Các hành vi chiếm đoạt bao gồm cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản, và lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản Tuy nhiên, người đó vẫn được coi là chưa bị xử lý nếu chưa hết thời hạn xử lý.
Thời hạn để được coi là chưa bị xử lý theo quy định của Điều lệnh, Điều lệ Lực lượng vũ trang nhân dân và Điều 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 là một năm Cụ thể, người vi phạm sẽ được xem là chưa bị xử phạt hành chính nếu đã qua một năm kể từ ngày thi hành xong quyết định hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt, với điều kiện là người bị xử phạt không tái phạm.
Trong trường hợp một người đã bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật do hành vi chiếm đoạt, nhưng chưa qua một năm kể từ khi hoàn thành quyết định xử phạt, nếu tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng, thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản.
A đã bị xử phạt hành chính theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 vì tội trộm cắp tài sản và hoàn thành việc thi hành vào ngày 10/2/2011 Tuy nhiên, vào ngày 25/12/2011, A tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trị giá 400.000 đồng, dẫn đến việc A bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
1.4.2 Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản theo Khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự
Khoản 2 Điều 138 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a Có tổ chức; b Có tính chất chuyên nghiệp; c Tái phạm nguy hiểm; d Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ Hành hung để tấu thoát; e Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; g gây hậu quả nghiêm trọng”
* Trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản “có tổ chức”
“Phạm tội có tổ chức” là hình thức đồng phạm với sự liên kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, theo Khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự Hình thức này mang tính nguy hiểm cao hơn so với đồng phạm thông thường, do đó, “phạm tội có tổ chức” được coi là tình tiết định khung tăng nặng trong quy định của pháp luật.