PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ sở hữu là một vấn đề quan trọng được Nhà nước bảo vệ, đóng vai trò nền tảng cho nền kinh tế - xã hội của quốc gia Khi đất nước phát triển, người lao động có quyền sở hữu tài sản riêng và tự do sử dụng, chiếm hữu, định đoạt tài sản của mình Tuy nhiên, quyền sở hữu này có thể bị xâm hại bởi những cá nhân và tổ chức có ý định xấu, nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Quyền sở hữu tài sản là vấn đề quan trọng mà nhà nước Việt Nam cũng như các quốc gia khác luôn quan tâm, nhằm bảo vệ lợi ích vật chất của cá nhân và nhà nước Tại Việt Nam, quyền sở hữu được quy định và bảo hộ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, bao gồm Bộ luật dân sự, trong đó quyền sở hữu gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản Mọi cá nhân và tổ chức đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu này, không phân biệt tôn giáo, giai cấp hay màu da Nếu có hành vi xâm phạm tài sản của người khác, cá nhân hoặc tổ chức đó phải bồi thường thiệt hại một cách kịp thời và đầy đủ.
Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu được bảo vệ qua các quy định về tội phạm xâm phạm sở hữu, đây là nhóm tội được quy định sớm nhất Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, tình hình tội phạm, đặc biệt là tội xâm phạm sở hữu, ngày càng phức tạp và gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật tại huyện Tĩnh Gia đã nỗ lực ngăn chặn các hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng việc điều tra, truy tố và xét xử vẫn chưa kịp thời và quy mô, không đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm Do đó, tội phạm xâm hại sở hữu ngày càng diễn biến phức tạp, gây dư luận xấu cho xã hội và làm giảm lòng tin của quần chúng đối với pháp luật.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, tội phạm xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt tại các thành phố lớn Bộ luật hình sự năm 1999, qua lần pháp điển hóa thứ hai, khẳng định chính sách của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền sở hữu thông qua các quy định tại chương XIV Tội cướp tài sản được quy định cụ thể tại Điều 133 của Bộ luật này.
Nghiên cứu tội phạm cướp tài sản tại huyện Tĩnh Gia là cần thiết để xác định nguyên nhân và điều kiện của loại tội phạm này Việc này sẽ giúp đề xuất các biện pháp phòng ngừa và chống lại tội phạm hiệu quả Trong khóa luận này, tôi sẽ tập trung vào “Tội Cướp tài sản trong Luật hình sự Việt Nam.”
Nam Nhìn từ thực tiễn địa bàn huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Tình hình nghiên cứu
Tội cướp tài sản đã được nghiên cứu sâu trong lĩnh vực luật hình sự qua nhiều công trình khoa học, bao gồm bài viết của TS Trương Quang Vinh về “Các tội xâm phạm sở hữu trong bộ luật hình sự năm 1999” đăng trên tạp chí luật học năm 2000, cùng với luận án Tiến sĩ của Đỗ Kim Tuyến năm 2001 và các luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2007) và Hồ Phước Linh (2011) tập trung vào công tác phòng, chống tội cướp tài sản tại Hà Nội và tỉnh Nam Định Những nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu biết và đấu tranh chống lại tội phạm xâm phạm sở hữu.
“Phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Luận văn thạc sĩ
Tội cướp tài sản là một loại tội phạm nghiêm trọng và tinh vi, đã được các nhà làm luật dành riêng một điều luật để quy định rõ về mức độ nguy hiểm của nó Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn huyện Tĩnh Gia - tỉnh Thanh Hóa Nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng ngừa và chống tội cướp tài sản, nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích hình thức và nội dung pháp luật, nguyên nhân và thực trạng của loại tội phạm này, nhằm mục đích nâng cao ý thức bảo vệ tài sản của mỗi người dân và góp phần xây dựng một môi trường an ninh, an toàn cho cộng đồng.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ các khái niệm liên quan đến tội cướp tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Bài viết này sẽ phân tích thực trạng cướp tài sản tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm cải thiện các quy định liên quan đến tội cướp tài sản.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ thu thập tài liệu, khảo sát thực tế và phân tích về thực trạng cướp tài sản ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa Đồng thời, phải tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó Qua đó chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm này tại huyện Tĩnh Gia
Từ đó đƣa ra các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn huyện Tĩnh Gia.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng các vấn đề lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng nhƣ dựa trên cơ sở lý luận Luật Hình sự để phân tích, lý giải cho các luận điểm và đƣa ra các số liệu, bằng chứng để làm rõ vấn đề
4.2 Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt đề tài này tôi vận dụng phương pháp biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu và trình bày nội dung lý luận và thực tiễn Sử dụng các phương pháp so sánh, tổng hợp, liệt kê, phân tích để đánh giá, rút ra những nhận xét và kết luận Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về những quy định cũng nhƣ hình phạt đối với tội phạm cướp tài sản ở tỉnh Thanh Hóa nói chung cũng như trên địa bàn huyện Tĩnh Gia nói riêng.
Ý nghĩa và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản tại thành phố.
Đề tài này không chỉ hoàn thiện nội dung quy định của Điều 133 BLHS năm 1999 mà còn là tài liệu tham khảo quý giá cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
Những giải pháp được đề xuất trong khóa luận sẽ nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội cướp tài sản.
Nghiên cứu này tập trung vào việc khảo sát và phân tích tình hình cướp tài sản tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa Mục tiêu là đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cướp tài sản tại địa phương này.
Đề tài này chủ yếu tập trung vào việc phân tích thực trạng và nguyên nhân của công tác đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trong thời gian qua, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong tương lai.
Điểm mới về mặt khoa học của khóa luận
Nghiên cứu này là lần đầu tiên thực hiện một cách hệ thống và toàn diện về tội cướp tài sản dưới góc độ pháp luật hình sự, đồng thời đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm đấu tranh và phòng chống tội phạm cướp tài sản tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản
Chương 2: Đường lối xử lí đối với tội cướp tài sản quy định tại Điều
133 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009)
Chương 3: Thực trạng của tội cướp tài sản trên địa bàn huyện Tĩnh Gia
- tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2012-2014 và các giải pháp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Khái niệm về tội cướp tài sản
1.1.1 Tội cướp tài sản trong pháp luật hình sự từ thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã khôi phục chủ quyền quốc gia và thiết lập nền dân chủ cộng hòa, tạo điều kiện cho Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự nhằm bảo vệ thành quả cách mạng Trong đó, chế độ sở hữu được coi trọng như nền tảng kinh tế xã hội của đất nước Các quy định pháp luật phản ánh rõ nét đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và kỹ thuật lập pháp trong giai đoạn lịch sử này, đồng thời thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước đối với hành vi xâm phạm sở hữu.
Theo Điều 12 của Hiến pháp năm 1946, quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền sở hữu tài sản Điều này không chỉ giúp ổn định sinh hoạt vật chất của mỗi cá nhân mà còn thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân Ngoài ra, Nhà nước đã ban hành nhiều Sắc lệnh, như Sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2, nhằm củng cố thêm quyền sở hữu tài sản cho công dân.
Năm 1946, các hành vi phá hoại công sản được quy định, và Thông tư 442/TTg ngày 19/01/1955 hướng dẫn các Tòa án xử lý các tội xâm phạm sở hữu như trộm cắp, cướp của, lừa đảo, bội tín Tuy nhiên, tội cướp tài sản chưa được quy định thành một điều luật cụ thể Đến năm 1959, sau khi hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN, việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho CNXH trở thành nhiệm vụ hàng đầu, làm nổi bật tầm quan trọng của việc bảo vệ sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể, điều này được ghi nhận trong Điều 40 Hiến pháp 1959.
Tài sản công cộng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được coi là thiêng liêng và không thể xâm phạm, với trách nhiệm của công dân là tôn trọng và bảo vệ Vào ngày 21 tháng 10 năm 1970, Nhà nước đã ban hành hai văn bản pháp luật quan trọng: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân Theo Điều 4 của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, hành vi cướp tài sản xã hội chủ nghĩa sẽ bị phạt tù từ 5 đến 15 năm Trong khi đó, Điều 3 của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng quy định rằng kẻ dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản riêng sẽ bị phạt tù từ 2 đến 12 năm.
Hai pháp lệnh đã phản ánh đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với tội phạm sở hữu, đặc biệt là tội cướp tài sản Điều này thể hiện trình độ kỹ thuật lập pháp của Nhà nước nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong bối cảnh mới Trong giai đoạn này, tội cướp tài sản XHCN và tội cướp tài sản riêng của công dân đã được quy định rõ ràng trong hai điều luật riêng biệt thuộc hai pháp lệnh khác nhau.
Ngoài hai pháp lệnh trên, Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng đã ra Chỉ thị số
185 ngày 09 tháng 12 năm 1970 về tăng cường bảo vệ tài sản XHCN nhằm chỉ đạo thi hành nội dung hai pháp lệnh trong thực tế
1.1.2 Tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999
Sự hình thành và phát triển của pháp luật luôn dựa trên nền tảng chính trị - kinh tế - xã hội Vào những năm 1980, nền kinh tế Việt Nam trải qua nhiều biến đổi với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, dẫn đến sự phát sinh các quan hệ pháp luật mới và sự không phù hợp của những quy định pháp luật cũ Do đó, sự ra đời của Bộ luật Hình sự 1985 vào ngày 27/06/1985 là một yêu cầu tất yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm và loại bỏ những yếu tố cản trở quá trình đổi mới và phát triển xã hội.
Trong Bộ luật Hình sự 1985, tội cướp tài sản được phân thành hai loại: tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 129 và tội cướp tài sản của công dân theo Điều 154 Cụ thể, Điều 129 quy định rằng người nào sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa sẽ bị phạt tù từ 5 đến 10 năm Trong khi đó, Điều 154 quy định mức phạt từ 3 đến 12 năm cho hành vi tương tự nhằm chiếm đoạt tài sản cá nhân Mặc dù nội dung của hai tội này có nhiều điểm tương đồng về mặt pháp lý, chúng khác nhau ở dấu hiệu khách thể của tội phạm.
Luật hình sự bảo vệ các quan hệ sở hữu khác nhau, phản ánh tầm quan trọng của chúng Hành vi cướp tài sản được quy định trong Bộ luật Hình sự 1985 được chia thành hai tội danh cụ thể, mỗi tội danh nằm trong hai chương khác nhau.
Trong bối cảnh mới, theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ luật hình sự 1999 đã hợp nhất hai chương: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm sở hữu riêng của công dân thành một chương duy nhất về Các tội phạm sở hữu Việc hợp nhất này là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả trong việc xử lý các tội phạm liên quan đến sở hữu.
Điều 151 trong Bộ luật Hình sự 1985 có nhiều điểm tương đồng về dấu hiệu pháp lý, do đó việc tách thành hai chương là không cần thiết Nhiều trường hợp phạm tội cướp tài sản không quan tâm đến quyền sở hữu mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, Nhà nước khuyến khích đa dạng hóa thành phần kinh tế và bình đẳng trước pháp luật, nên việc quy định tách thành hai chương trong Bộ luật Hình sự 1985 không còn phù hợp Thực tiễn cũng cho thấy, trong nền kinh tế nhiều thành phần, việc xác định tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân trở nên khó khăn Hiến pháp 1992 khẳng định Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa với hình thức sở hữu đa dạng, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Năm 1995, Việt Nam quy định 7 hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức xã hội, sở hữu hỗn hợp và sở hữu chung Khi xảy ra xâm phạm tài sản thuộc sở hữu hỗn hợp, việc áp dụng Bộ luật Hình sự (BLHS) 1985 để xử lý tội phạm gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc định tội danh Hơn nữa, việc quy định các tội xâm phạm sở hữu tương ứng với 7 hình thức sở hữu trong BLHS là không cần thiết, dẫn đến khó khăn trong điều tra, truy tố và xét xử, vì BLHS 1985 chỉ quy định về hành vi xâm hại tài sản liên quan đến sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân.
Với những lí do trên, Điều 133 BLHS 1999 quy định:
Người sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để khiến nạn nhân không thể chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử phạt tù từ ba đến mười năm.
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng
3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng
4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Các dấu hiệu pháp lí
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cấu thành tội phạm là tập hợp các dấu hiệu đặc trưng cho từng loại tội phạm được quy định trong luật Khái niệm này mô tả một cách tổng quát về loại tội phạm cụ thể, giúp xác định các yếu tố cần thiết để cấu thành tội phạm trong hệ thống pháp luật hình sự.
Bốn yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm Đối với tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS 1999, các dấu hiệu pháp lý của bốn yếu tố này cần được xác định rõ ràng.
1.2.1 Khách thể của tội phạm
Tội cướp tài sản xâm phạm đến hai khách thể là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, nhưng chủ yếu tập trung vào quan hệ sở hữu Nhiều vụ cướp tài sản hiện nay gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe và tính mạng của nạn nhân Mặc dù người phạm tội không nhằm vào thiệt hại về tính mạng hay sức khỏe, họ vẫn nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của hành vi trước khi thực hiện Do đó, Bộ luật hình sự 1999 đã quy định thiệt hại về tính mạng và sức khỏe là những tình tiết định khung hình phạt trong tội cướp tài sản.
Khách thể của tội cướp tài sản bao gồm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, điều này không chỉ đúng về lý luận mà còn phù hợp với thực tiễn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.
1.2.2 Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các biểu hiện bên ngoài của hành vi phạm tội, thể hiện qua hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, cùng với các điều kiện bên ngoài khi thực hiện hành vi phạm tội, đều góp phần tạo nên mặt khách quan này Tổng hợp tất cả những yếu tố trên giúp xác định rõ ràng bản chất của tội phạm trong xã hội.
Theo quy định của điều 133 Bộ luật hình sự thì mặt khách quan của tội cướp tài sản sẽ được phân tích như sau:
1.2.2.1 Về hành vi khách quan
Hành vi phạm tội là những hành động vi phạm pháp luật hình sự và gây nguy hiểm cho xã hội Trong đó, hành vi cướp tài sản thể hiện ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác Dấu hiệu chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong tội cướp tài sản, bất kể tài sản bị chiếm đoạt hoàn toàn hay chưa.
Chủ thể của tội phạm có thể sử dụng nhiều phương thức chiếm đoạt khác nhau như lén lút, công khai, dùng vũ lực hoặc đe dọa Theo định nghĩa khoa học về tội cướp tài sản, hành vi chiếm đoạt có ba dạng cơ bản, bên cạnh các dấu hiệu khách quan khác để phân biệt với các tội danh khác.
Hành vi dùng vũ lực được định nghĩa là việc sử dụng sức mạnh vật chất nhằm tác động lên người khác để đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của họ đối với việc chiếm đoạt Hành vi này phải nhằm vào con người, và những hành vi không liên quan đến con người không được coi là hành vi dùng vũ lực theo quy định của pháp luật Người bị tấn công có thể là chủ tài sản hoặc bất kỳ ai mà người phạm tội cho rằng có khả năng ngăn cản việc chiếm đoạt Để được coi là hành vi dùng vũ lực trong tội cướp tài sản, hành vi đó cần có khả năng làm cho sự chống cự không xảy ra hoặc làm cho người bị tấn công mất ý chí kháng cự Các hành vi như đánh, chém, trói, hay bóp cổ đều thuộc loại này và có thể gây thương tích hoặc không Ví dụ, việc Lê Xuân H bóp cổ bà M để chiếm đoạt dây chuyền vàng, mặc dù không để lại thương tích, vẫn được xem là hành vi dùng vũ lực.
Người có trách nhiệm về tài sản có thể không có mặt tại hiện trường vụ cướp, nhưng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản Ví dụ, Đặng Hải Q và Lưu Ngọc C đã bàn bạc để chiếm đoạt hàng hóa trong kho của Công ty vật tư thương mại Khi không gặp thủ kho, họ đã phá khóa kho và vận chuyển tài sản ra xe Dù không trực tiếp dùng vũ lực với người có trách nhiệm, hành vi của họ vẫn bị xử lý hình sự vì đã dùng súng để đe dọa người đi xe máy Trong các vụ cướp có đồng phạm, không cần tất cả phải dùng vũ lực; chỉ cần một hoặc vài người thực hiện, còn những người khác có thể chỉ đe dọa Ví dụ, Đào Văn T, Trần Văn H và Bùi Công D đã cùng nhau cướp xe máy, trong đó chỉ T dùng vũ lực, nhưng H và D cũng bị coi là đồng phạm.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc trong tội cướp tài sản xảy ra khi người phạm tội sử dụng lời nói hoặc cử chỉ để đe dọa sẽ thực hiện hành động bạo lực ngay lập tức nếu nạn nhân chống cự Đe dọa này có thể nhắm vào chính nạn nhân hoặc người thân của họ, ví dụ như đe dọa sẽ giết con của người bị đe dọa nếu họ không hợp tác Tính chất của sự đe dọa phải là khẩn cấp và mãnh liệt, khiến nạn nhân cảm thấy rằng họ không có khả năng tránh khỏi sự tấn công Dấu hiệu “ngay tức khắc” là yếu tố quan trọng để phân biệt giữa hành vi đe dọa trong tội cướp và tội cưỡng đoạt tài sản, vừa chỉ ra tính cấp bách về thời gian, vừa thể hiện mức độ nghiêm trọng của đe dọa.
Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ cần người phạm tội có hành vi, cử chỉ, thái độ thể hiện ý định sử dụng vũ lực mà không cần thực sự có ý định hay đủ điều kiện để thực hiện hành vi đó Do đó, những trường hợp chỉ giả vờ sẽ dùng vũ lực nhưng không có ý định hoặc điều kiện thực hiện cũng được xem là cướp tài sản Ví dụ, việc sử dụng súng giả để dọa sẽ bắn chết ngay cũng bị coi là hành vi cướp.
Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự không chỉ bao gồm việc dùng vũ lực hay đe dọa ngay tức khắc, mà còn có thể là các hành vi khác khiến nạn nhân không thể phản kháng Để xác định hành vi này, cần xem xét từ góc độ của nạn nhân, người bị tấn công phải chịu tác động từ những hành vi không phải bạo lực nhưng đủ mạnh để họ không thể chống cự Ví dụ điển hình là việc A bỏ thuốc ngủ vào nước khiến B mất khả năng nhận thức, từ đó A chiếm đoạt tài sản của B Trong thực tiễn, nhiều tội phạm đã sử dụng các phương pháp nguy hiểm như xịt Ê te, cho uống thuốc mê hoặc độc dược để làm cho nạn nhân không còn khả năng chống cự Hành vi chuốc rượu để làm cho nạn nhân say cũng được xem là hành vi khiến họ không thể phản kháng Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, các quy định pháp luật chỉ nhấn mạnh việc dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản mà không đề cập đến các trường hợp đe dọa hay hành vi khác làm cho nạn nhân không thể chống cự.
4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21-10-
Vào năm 1970, Điều 3 của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân chỉ quy định về việc xử lý những kẻ dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy nhiều trường hợp tội phạm không sử dụng vũ lực mà áp dụng các thủ đoạn nguy hiểm khác để chiếm đoạt tài sản Việc chỉ xử lý hình sự đối với tội cưỡng đoạt hoặc trộm cắp không phản ánh đúng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Do đó, trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985, các nhà làm luật đã bổ sung vào cấu thành tội cướp (bao gồm cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và cướp tài sản của công dân) những hành vi như đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc hoặc các hành vi khác khiến nạn nhân không thể chống cự Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn giữ nguyên nội dung này, chỉ thay đổi thứ tự từ “dùng ngay tức khắc vũ lực” thành “dùng vũ lực ngay tức khắc”.
Theo quan niệm truyền thống, tội cướp tài sản được xem là tội phạm có cấu thành hình thức, không cần hậu quả xảy ra để được coi là hoàn thành Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi tội phạm được thực hiện bằng vũ lực hoặc đe dọa ngay lập tức Trong trường hợp khác, như việc A cố tình chiếm đoạt tài sản của B bằng cách bỏ thuốc mê vào nước, nhưng B phát hiện và không uống, A không thể coi là đã hoàn thành tội phạm Dù A đã thực hiện hết các hành vi khách quan, nhưng hậu quả không xảy ra ngoài ý thức của A Theo lý luận và thực tiễn xét xử, việc coi đây là tội phạm đã hoàn thành không phù hợp với các giai đoạn thực hiện tội phạm Ở một số quốc gia, hành vi này được xem là tội trộm cắp với thủ đoạn xảo quyệt, không phải cướp tài sản.
Theo quy định của Bộ luật hình sự, tội phạm chưa đạt được coi là một tình huống pháp lý quan trọng trong việc xác định hình phạt Trước đây, việc phân biệt giữa tội phạm chưa đạt và tội phạm đã hoàn thành không ảnh hưởng nhiều đến quyết định hình phạt Tuy nhiên, theo Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999, thời điểm hoàn thành tội phạm có ý nghĩa quyết định trong việc áp dụng hình phạt Cụ thể, nếu tội phạm chưa đạt có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, hình phạt này chỉ được áp dụng trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; còn nếu là tù có thời hạn, mức phạt không được vượt quá ba phần tư mức phạt tối đa Thêm vào đó, việc xác định tội cướp tài sản với dấu hiệu "có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ" đã dẫn đến những quan điểm trái ngược trong việc xác định thời điểm hoàn thành của tội cướp.
Khung hình phạt tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009)
Trong quá trình điều tra và xét xử, cũng như qua hai lần pháp điển hóa, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự 1999, quy định chi tiết về tội phạm cướp tài sản tại Điều 133 với bốn khung hình phạt, thay thế cho hai khung hình phạt của Bộ luật hình sự 1985, thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi phạm tội.
1.3.1 Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất
Khoản 2 Điều 133 BLHS 1999 qui định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”
Các tình tiết tăng nặng bao gồm:
1.3.1.1 Phạm tội có tổ chức
Theo Điều 20 BLHS 1999, phạm tội có tổ chức được định nghĩa là hình thức đồng phạm với sự cấu kết chặt chẽ giữa những người tham gia thực hiện tội phạm Điều này nhấn mạnh rằng phạm tội có tổ chức bao gồm hai yếu tố chính: đồng phạm và sự liên kết chặt chẽ giữa các đối tượng.
Trong tội cướp tài sản, đặc trưng của tội phạm có tổ chức là sự hình thành của nhóm tội phạm dưới sự dẫn dắt của một hoặc vài người, với mục tiêu hành động lâu dài và bền vững Nhóm này có quan hệ chỉ huy thống nhất và sự phục tùng lẫn nhau, coi tổ chức phạm tội như một công cụ mạnh mẽ trong hoạt động phạm pháp của mình.
Nhóm phạm tội thường có sự tính toán kỹ lưỡng và chuẩn bị đầy đủ phương tiện, với các thủ đoạn tinh vi nhằm gây ra hậu quả lớn và nguy hiểm cho xã hội Trong các vụ cướp tài sản, các thành viên trong nhóm thường được phân công nhiệm vụ rõ ràng, như người thực hiện hành vi dùng vũ lực, người cướp tài sản, người quan sát và người ngăn cản sự truy đuổi, tất cả nhằm đảm bảo quá trình phạm tội diễn ra thuận lợi.
Phạm tội có tổ chức được coi là có tính chất nguy hiểm cao hơn so với phạm tội thông thường, vì vậy luật hình sự xem đây là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điểm a, Khoản 1, Điều 48 BLHS 1999) Trong các tội như cướp tài sản, "phạm tội có tổ chức" cũng được xem là tình tiết định khung tăng nặng.
Bùi Quốc T, cùng với Trần Văn A và Nguyễn Văn C, đã lên kế hoạch đe dọa mẹ của T, bà M, để ép bà phải đưa chìa khóa tủ tiền nhằm tiếp tục chơi bạc T đã giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm thực hiện kế hoạch này.
T ở ngoài trông giữ nếu bị ai phát hiện sẽ báo, A vào nhà dùng dao đe dọa bà
M, C dọa “chìa khoá tủ để ở đâu không đưa đây chúng tao giết”, bà M sợ nên đƣa chìa khóa và C thực hiện lấy tiền trong tủ thực hiện hành vi lấy tiền trong tủ Do sợ quá nên bà M ngất xỉu, cả 3 sau khi lấy đƣợc tiền đã bỏ đi
Trong vụ án này, nhóm tội phạm đã thống nhất kế hoạch cướp tài sản bằng cách gây áp lực để bà M sợ hãi, từ đó buộc bà phải giao chìa khóa tủ Họ phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, cho thấy đây là một nhóm tội phạm có tổ chức, với hành vi phạm tội được thực hiện một cách có tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng, thể hiện sự cấu kết chặt chẽ và tính nguy hiểm đối với xã hội.
1.3.1.2 Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Theo hướng dẫn của Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tội phạm có “tính chất chuyên nghiệp” được xác định là hành vi phạm tội lặp đi lặp lại, thuộc cùng nhóm tội phạm, và được thực hiện với mục đích kiếm sống chính Người phạm tội chuyên nghiệp thường thực hiện nhiều hành vi phạm tội, nhưng không phải tất cả các trường hợp phạm tội nhiều lần đều được coi là chuyên nghiệp; điều quan trọng là phải xem xét xem hành vi phạm tội đó có thực sự là phương tiện kiếm sống hay không Nếu người phạm tội không coi đó là nguồn thu nhập chính, họ sẽ không được xem là có tính chất chuyên nghiệp.
Khi áp dụng tình tiết này, cần phân biệt khái niệm "chuyên nghiệp" với "nghề nghiệp", vì không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống Tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện qua việc người phạm tội lặp đi lặp lại hành vi đó như một phương tiện kiếm sống Tuy nhiên, không phải mọi hành vi phạm tội lặp lại đều được coi là chuyên nghiệp, mà chỉ những hành vi mà người phạm tội xem là cách thức kiếm sống mới được xem là có tính chất chuyên nghiệp.
Có hai trường hợp về tái phạm nguy hiểm như sau:
Theo Điểm b Khoản 2 Điều 49 Bộ luật Hình sự 1999, trường hợp đầu tiên yêu cầu tội phạm đã xảy ra phải do lỗi cố ý, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, và chưa được xóa án tích.
Trường hợp tái phạm theo Điểm b Khoản 2 Điều 49 BLHS 1999 là khi một người đã bị kết án và chưa được xóa án tích, sau đó lại phạm tội do cố ý hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý, rồi tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội cố ý Cụ thể, trong tội cướp tài sản, nếu một người tái phạm mà chưa được xóa án tích, việc thực hiện hành vi cướp tài sản sẽ được coi là tái phạm nguy hiểm, vì tội cướp tài sản luôn liên quan đến lỗi cố ý.
Nhƣ vậy, khoản 2 Điều 49 BLHS 1999 và Điều 133 BLHS 1999, trường hợp một người phạm tội cướp tài sản bị coi là tái phạm nguy hiểm khi:
Người này đã bị kết án vì tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích, và tiếp tục phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật Hình sự 1999.
Người đó đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại tái phạm cướp tài sản
1.3.1.4 Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác
Trong các vụ án cướp tài sản, có trường hợp tội phạm chỉ sử dụng vũ lực hoặc đe dọa ngay lập tức để chiếm đoạt tài sản mà không cần vũ khí hay thủ đoạn nguy hiểm Tuy nhiên, nhiều vụ cướp tài sản thực tế lại liên quan đến việc sử dụng vũ khí hoặc các phương tiện nguy hiểm, làm tăng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Việc sử dụng vũ khí trong cướp tài sản được coi là nghiêm trọng hơn so với các trường hợp không có vũ khí, ảnh hưởng lớn đến sự an toàn của nạn nhân.
Theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ được ban hành theo Nghị định số 47/CP ngày 12-8-1996 của Chính phủ, vũ khí bao gồm các loại như vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ.